Việc xây dựng các VPHC, hình thức
xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả tại các nghị định xử phạt VPHC
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước phải
chú ý việc bảo đảm trật tự quản lý hành
chính nhà nước; mức độ giáo dục, răn đe
và tính hợp lý, tính khả thi của việc áp dụng
hình thức, mức phạt; đáp ứng yêu cầu khôi
phục lại trật tự quản lý hành chính nhà nước
do VPHC gây ra36. Vì vậy, để đáp ứng yêu
cầu đấu tranh, ngăn chặn, phòng chống và
xử phạt VPHC, chúng tôi cho rằng, Luật
năm 2012 và các nghị định quy định về xử
phạt VPHC trong các lĩnh vực cần cân nhắc
loại bỏ việc giới hạn thẩm quyền áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để VPHC do giới
hạn bởi thẩm quyền áp dụng phạt tiền. Bởi
lẽ mục đích chính của hình thức xử phạt
bổ sung như tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để VPHC hướng đến mục tiêu
loại trừ khả năng chủ thể vi phạm sử dụng
tang vật, phương tiện đó để tiếp tục vi phạm
nhiều hơn là trừng trị, răn đe hay tước đi
khoản lợi ích vật chất của người vi phạm
như hình thức phạt tiền. Việc cho phép chủ
thể có thẩm quyền trong giới hạn áp dụng
mức tiền phạt có thể áp dụng các hình thức
xử phạt này sẽ không dẫn đến tình trạng lạm
quyền. Do vậy, cần rà soát tổng thể các quy
định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung “Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để VPHC” trong Luật năm
2012 để sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ đi
giới hạn thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung theo thẩm quyền áp dụng hình
thức phạt tiền của chủ thể có thẩm quyền để
kịp thời khắc phục các bất cập như đã nêu
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về các hình thức xử phạt bổ sung trong xử phạt vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT BỔ SUNG
TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về các hình thức
xử phạt bổ sung được áp dụng trong xử phạt vi phạm hành chính,
chỉ ra một số bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Nguyễn Nhật Khanh*
* ThS. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Abstract
This article provides analysis of the theoretical and legal issues on
the additional sanctions applied in the handling of administrative
violations, points out some inadequacies and recommendations
for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hình thức xử phạt bổ sung, vi
phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/10/2019
Biên tập : 16/10/2019
Duyệt bài : 19/10/2019
Article Infomation:
Keywords: additional sanctions,
administrative violations, sanctioning of
administrative violations.
Article History:
Received : 06 Oct. 2019
Edited : 16 Oct. 2019
Approved : 19 Oct. 2019
1. Khái quát về các hình thức xử phạt bổ
sung trong xử phạt vi phạm hành chính
Hiện nay, Điều 21 Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 (Luật năm 2012) quy
định 05 hình thức xử phạt áp dụng trong xử
phạt vi phạm hành chính (VPHC) gồm: (i)
Cảnh cáo, (ii) Phạt tiền; (iii) Tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn; (iv) Tịch thu tang vật VPHC, phương
tiện được sử dụng để VPHC; (v) Trục xuất.
Trong đó, cảnh cáo và phạt tiền là 02 hình
thức xử phạt chỉ được quy định và áp dụng
là hình thức xử phạt chính. Đối với 03 hình
thức xử phạt còn lại là tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu
tang vật VPHC, phương tiện được sử dụng
để VPHC và trục xuất có thể được quy định
là hình thức xử phạt chính hoặc hình thức
xử phạt bổ sung. Việc quy định đa dạng các
hình thức xử phạt nhằm nâng cao sự chủ
động của người có thẩm quyền xử phạt và
bảo đảm hình thức xử phạt được áp dụng
thống nhất, công bằng và phù hợp với tính
chất, mức độ của mỗi hành vi vi phạm.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 21(397) T11/2019
Về mặt lý luận, các hình thức xử phạt
bổ sung có hai đặc điểm nổi bật sau:
Một là, trong trường hợp thông
thường, hình thức xử phạt bổ sung không
thể áp dụng độc lập mà phải áp dụng kèm
theo hình thức xử phạt chính.
Như đã trình bày, Luật năm 2012 quy
định hệ thống hình thức xử phạt áp dụng đối
với VPHC thành 02 nhóm: (i) các hình thức
xử phạt chính và (ii) các hình thức xử phạt
bổ sung. Trong đó, hình thức xử phạt chính
là loại hình thức xử phạt được áp dụng chính
cho hành vi vi phạm, với mỗi VPHC có thể
áp dụng một hình thức xử phạt chính độc lập
mà không nhất thiết phải áp dụng các hình
thức xử phạt bổ sung kèm theo, hay nói cách
khác, khi xử phạt người có thẩm quyền chỉ
cần áp dụng một hình thức xử phạt chính là
đủ để ban hành quyết định xử phạt. Trong
khi đó, nếu áp dụng với tư cách là hình thức
xử phạt bổ sung thì các hình thức xử phạt đó
sẽ không thể áp dụng độc lập mà phải đi kèm
với một hình thức xử phạt chính. Nếu người
có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt
chỉ có hình thức xử phạt bổ sung mà không
có hình thức xử phạt chính thì quyết định xử
phạt sẽ không bảo đảm tính hợp pháp.
Đối với những trường hợp đặc biệt
được quy định trong Luật năm 2012 (các
trường hợp không thể áp dụng hình thức xử
phạt chính hoặc việc áp dụng hình thức xử
phạt chính không có ý nghĩa) như các trường
hợp không thể ban hành quyết định xử phạt
(khoản 2 Điều 65), hết thời hiệu thi hành
quyết định xử phạt (khoản 1 Điều 74) hay
trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích,
tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản (Điều
75) thì hình thức xử phạt bổ sung không cần
áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính
mà có thể áp dụng độc lập.
1 Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2017), “Bình luận khoa học Luật XLVPHC năm 2012” (Tái bản lần thứ 1), Nxb. Hồng
Đức, tr. 226.
2 Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2017), “Bình luận khoa học Luật XLVPHC năm 2012” (Tái bản lần thứ 1), Nxb. Hồng
Đức, tr. 229.
Hai là, chức năng của hình thức xử
phạt bổ sung là bổ trợ cho hình thức xử phạt
chính để ngăn chặn, phòng ngừa VPHC tiếp
tục xảy ra trong tương lai, do vậy một VPHC
có thể áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử
phạt bổ sung.
Các hình thức xử phạt VPHC là
phương tiện để bảo đảm cho các quy định
của pháp luật về hành chính có thể thực hiện
được nhiệm vụ bảo vệ các quy tắc, trật tự xã
hội, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật1. Việc áp dụng các hình thức xử phạt
đối với chủ thể thực hiện VPHC hướng đến
nhiều mục đích như trừng trị, răn đe, giáo
dục đối với người vi phạm hoặc ngăn chặn,
phòng chống người vi phạm tiếp tục thực
hiện vi phạm trong tương lai.
Hình thức xử phạt chính thể hiện thái
độ chính thức của Nhà nước đối với hành
vi vi phạm, do vậy pháp luật quy định mỗi
VPHC chỉ gánh chịu một hình thức xử phạt
chính, trong khi đó việc quy định hình thức
xử phạt bổ sung là nhằm thực hiện chức
năng hỗ trợ cho hình thức xử phạt chính, là
biện pháp pháp lý để giúp cho việc xử phạt
được chính xác, đồng thời giúp các cơ quan
áp dụng pháp luật áp dụng các biện pháp
loại bỏ những điều kiện mà cá nhân, tổ chức
vi phạm có thể sử dụng để tiếp tục thực hiện
hành vi vi phạm. Chức năng này của hình
thức xử phạt bổ sung sẽ giúp hình thức xử
phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa
riêng bằng việc ngăn ngừa người vi phạm
tiếp tục thực hiện VPHC2. Do vậy, về nguyên
tắc áp dụng, Luật năm 2012 quy định đối với
mỗi VPHC người có thẩm quyền chỉ có thể
áp dụng một hình thức xử phạt chính, trong
khi đó có thể áp dụng một hoặc nhiều hình
thức xử phạt bổ sung khác nhau.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 21(397) T11/2019
2. Một số bất cập trong pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính về các hình thức xử
phạt bổ sung và kiến nghị hoàn thiện
2.1. Một số văn bản quy phạm pháp luật
có sự mâu thuẫn với Luật năm 2012 về các
hình thức xử phạt bổ sung
Cụ thể, Nghị định số 176/2013/NĐ-
CP quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh
vực y tế có quy định, nhân viên tiếp cận
cộng đồng có hành vi “sửa chữa, tẩy xóa
hoặc cho người khác mượn thẻ nhân viên
tiếp cận cộng đồng” sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng.
Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung là “Thu hồi thẻ nhân viên tiếp
cận cộng đồng”3. So sánh với quy định về
các hình thức xử phạt trong Luật XLVPHC
2012 có thể thấy quy định về hình thức xử
phạt bổ sung “Thu hồi thẻ nhân viên tiếp cận
cộng đồng” là không phù hợp. Bởi vì, như đã
trình bày, Luật năm 2012 không có quy định
về hình thức xử phạt bổ sung “Thu hồi thẻ
nhân viên tiếp cận cộng đồng” mà chỉ quy
định 3 hình thức xử phạt bổ sung là: (i) Tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn; (ii) Tịch thu tang vật VPHC,
phương tiện được sử dụng để VPHC; (iii)
Trục xuất. Như vậy, trong trường hợp này đã
có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật năm
2012 với Nghị định số 176/2013/NĐ-CP về
hình thức xử phạt bổ sung4.
Trong lĩnh vực đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài, khoản 2 và
khoản 3 Điều 75 Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
năm 2006 (Luật Người lao động Việt Nam
năm 2006) quy định “Đối với mỗi hành vi
VPHC, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ
3 Điểm c khoản 1, điểm a khoản 6 Điều 20 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP.
4 Nguyễn Nhật Khanh (2019), “Xử phạt VPHC trong lĩnh vực y tế - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2 (370).
5 Nguyễn Nhật Khanh - Nguyễn Thị Kim Duyên (2018), “Hoàn thiện pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (361).
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải
chịu một trong các hình thức xử phạt chính là
cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài hình thức xử
phạt chính, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức
xử phạt bổ sung là thu hồi Giấy phép và tịch
thu tang vật, phương tiện VPHC”. Bên cạnh
đó, khoản 5 và khoản 6 Điều 75 Luật này còn
quy định: “Đối với mỗi hành vi VPHC, người
lao động đi làm việc ở nước ngoài phải chịu
một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh
cáo hoặc phạt tiền. Ngoài hình thức xử phạt
chính, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm,
người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn
có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung
buộc về nước”.
Như vậy, theo Luật Người lao động
Việt Nam năm 2006 thì “Thu hồi giấy
phép”, “Buộc về nước” là hình thức xử phạt
bổ sung, trong khi Luật năm 2012 không
quy định về các hình thức xử phạt bổ sung
này. Sự mâu thuẫn này giữa Luật Người
lao động Việt Nam năm 2006 với Luật năm
2012 dẫn đến không có bất cứ điều khoản
nào về xử phạt VPHC đối với hoạt động đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài trong Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
quy định về các hành vi bị áp dụng những
chế tài này với tư cách là hình thức xử phạt
bổ sung5.
Trong lĩnh vực cạnh tranh, Nghị định
số 75/2019/NĐ-CP quy định VPHC trong
lĩnh vực này, ngoài hình thức xử phạt chính
là cảnh cáo và phạt tiền sẽ bị áp dụng 04
hình thức xử phạt bổ sung: (i) Tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 21(397) T11/2019
hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến
12 tháng; (ii) Tịch thu tang vật vi phạm,
phương tiện được sử dụng để vi phạm; (iii)
Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm; (iv) Thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn
bản tương đương6. Việc quy định về các
hình thức xử phạt bổ sung này dựa trên quy
định tại khoản 3 Điều 110 Luật Cạnh tranh
năm 2018 về các hình thức xử phạt bổ sung
áp dụng đối với VPHC trong lĩnh vực cạnh
tranh. Có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh
năm 2018 và Nghị định số 75/2019/NĐ-CP
đã bổ sung thêm 02 hình thức xử phạt bổ
sung mới đó là “Tịch thu khoản lợi nhuận
thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm”
và “Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp hoặc văn bản tương đương” trong
khi các hình thức xử phạt này không được
đề cập trong Luật năm 2012.
Xét về hiệu lực áp dụng, khoản 2 Điều
156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 quy định: “Trong trường hợp
các văn bản quy phạm pháp luật có quy định
khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng
văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Về giá
trị pháp lý, Luật năm 2012 là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn Nghị định số 176/2013/
NĐ-CP, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP nên
các văn bản này không được trái với Luật
XLVPHC 2012. Bên cạnh đó, trong mối quan
hệ giữa Luật năm 2012 với Luật Người lao
động Việt Nam năm 2006, Luật Cạnh tranh
năm 2018 về vấn đề xử phạt VPHC thì Luật
năm 2012 là luật chung còn các đạo luật còn
lại là luật chuyên ngành, do đó về nguyên tắc
các đạo luật này cũng không được trái với
luật chung là Luật năm 2012.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 quy định việc xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật phải tuân
6 Điều 3 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP.
7 Khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
8 Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 524.
9 Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP.
thủ nguyên tắc: “Bảo đảm tính hợp hiến,
tính hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp
luật”7. Tính thống nhất của hệ thống pháp
luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng
lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân hệ
thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định
pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật
với nhau. Do đó, cần tiến hành rà soát tổng
thể các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt
là các nghị định của Chính phủ quy định về
xử phạt VPHC để lọc ra các quy định về
hình thức xử phạt bổ sung trái với Luật năm
2012 nhằm loại bỏ kịp thời các chế tài này.
2.2. Chồng chéo giữa hình thức xử phạt bổ
sung với các biện pháp khắc phục hậu quả
trong các nghị định
Xét về bản chất pháp lý, mục đích của
việc pháp luật quy định về các biện pháp
khắc phục hậu quả là nhằm khôi phục lại
tình trạng ban đầu mà vi phạm đã gây ra, đã
làm thay đổi, hoặc khôi phục những quyền,
lợi ích hợp pháp bị VPHC xâm hại. Điều này
khác với bản chất pháp lý của hình thức xử
phạt là làm thiệt hại đến tình trạng ban đầu
vốn có của người vi phạm về quyền sở hữu
tài sản hay quyền nhân thân8. Tuy nhiên,
pháp luật về xử phạt VPHC hiện nay vẫn
còn nhiều trường hợp có sự chồng chéo giữa
hình thức xử phạt bổ sung với các biện pháp
khắc phục hậu quả.
Ví dụ, đối với xử phạt VPHC trong
lĩnh vực đất đai, Nghị định số 102/2014/
NĐ-CP quy định có 02 hình thức xử phạt
bổ sung gồm: “Tước quyền sử dụng giấy
phép từ 06 tháng đến 09 tháng hoặc đình
chỉ hoạt động từ 09 tháng đến 12 tháng” và
“Tịch thu tang vật VPHC, phương tiện được
sử dụng để VPHC trong lĩnh vực đất đai”9.
Tuy nhiên, khi quy định về xử phạt đối với
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 21(397) T11/2019
hành vi “đưa chất thải, chất độc hại, vật liệu
xây dựng hoặc các vật khác lên thửa đất của
người khác hoặc thửa đất của mình gây cản
trở cho việc sử dụng đất của người khác”,
“đào bới, xây tường, làm hàng rào gây cản
trở hoặc gây thiệt hại cho việc sử dụng đất
của người khác”, điểm a khoản 3 Điều 11
Nghị định số 102/2014/NĐ-CP lại quy định
chủ thể vi phạm ngoài việc bị áp dụng các
hình thức xử phạt chính còn có thể bị áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả “Tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm”. Trong trường
hợp này, có thể thấy Nghị định số 102/2014/
NĐ-CP đã tự mâu thuẫn khi quy định “Tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm” vừa là hình thức
xử phạt bổ sung, vừa là biện pháp khắc phục
hậu quả10.
Đối với xử phạt VPHC trong lĩnh vực
du lịch, Điều 3 Nghị định số 45/2019/NĐ-
CP quy định chỉ áp dụng 02 hình thức xử
phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, các hình
thức xử phạt bổ sung được áp dụng gồm
“Tước quyền sử dụng có thời hạn”, “Đình
chỉ hoạt động có thời hạn” và “Tịch thu tang
vật VPHC”. Tuy nhiên, điểm a khoản 9 Điều
10 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP quy định
cá nhân, tổ chức có hành vi “không bảo đảm
điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch
quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều
49 của Luật Du lịch” ngoài việc bị áp dụng
các hình thức xử phạt chính là phạt tiền từ
20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng11 còn
có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả “Đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 03
tháng”. Như vậy, cùng một chế tài “Đình chỉ
hoạt động có thời hạn” nhưng Nghị định số
45/2019/NĐ-CP vừa quy định hình thức xử
phạt bổ sung, vừa quy định biện pháp khắc
phục hậu quả là không chính xác.
10 Nguyễn Nhật Khanh, “Biện pháp khắc phục hậu quả trong pháp luật xử phạt VPHC về đất đai - Một số bất cập và kiến
nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (377).
11 Khoản 7 Điều 10 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP.
12 Khoản 3 Điều 25 Luật XLVPHC 2012.
Theo chúng tôi, đã có sự nhầm lẫn
trong việc soạn thảo bởi “Tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để thực hiện hành
vi vi phạm” hay “Đình chỉ hoạt động có thời
hạn” không có khả năng khôi phục những
quyền, lợi ích hợp pháp bị VPHC xâm hại
nên không thể áp dụng với tư cách là biện
pháp khắc phục hậu quả. Do đó, để phù hợp
với Luật năm 2012, cần xem xét sửa đổi các
điều khoản nêu trên theo hướng chuyển chế
tài “Tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để thực hiện hành vi vi phạm”, “Đình
chỉ hoạt động có thời hạn” từ biện pháp khắc
phục hậu quả trở về đúng vị trí của nó là
hình thức xử phạt bổ sung.
2.3. Chênh lệch quá lớn giữa thời hạn tối
thiểu và tối đa khi áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung “Tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn” trong
các nghị định
Trong số các hình thức xử phạt bổ sung,
“Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động có thời hạn” là các hình thức xử phạt
được Luật năm 2012 quy định về khung thời
hạn áp dụng, cụ thể thời hạn tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thời
hạn đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 24
tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu
lực thi hành12. Trên cơ sở quy định của Luật
năm 2012, các nghị định sẽ căn cứ vào từng
VPHC cụ thể trong từng lĩnh vực để quy
định thời hạn áp dụng các hình thức xử phạt
nêu trên. Qua khảo sát, chúng tôi thấy các
văn bản này thiết kế thời hạn tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc
đình chỉ hoạt động theo hai công thức: i)
Quy định thời hạn tước, đình chỉ theo mức
cố định; ii) Quy định thời hạn tước, đình chỉ
theo khung thời gian từ tối thiểu đến tối đa.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 21(397) T11/2019
Ưu điểm của việc quy định thời hạn
tước, đình chỉ theo mức cố định sẽ giúp
người có thẩm quyền dễ dàng khi áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn. Tuy nhiên, hạn chế của quy định này ở
chỗ không tạo ra được sự phân hóa mức độ
trách nhiệm hành chính của người vi phạm
bởi lẽ các VPHC dù có tính chất, mức độ
khác nhau cũng sẽ áp dụng một thời hạn
tước, đình chỉ giống nhau. Do vậy, việc xây
dựng khung thời gian tước quyền hay đình
chỉ hoạt động để thực hiện các quy định
nêu trên là rất cần thiết trong việc xử phạt
VPHC nhằm tạo ra sự phân hóa mức độ
trách nhiệm hành chính của chủ thể vi phạm
giữa trường hợp VPHC thông thường với
VPHC trong các trường hợp đặc biệt khi có
tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng nhằm
thực hiện nguyên tắc xử phạt “việc xử phạt
VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ,
hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình
tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng”13.
Để bảo đảm việc xử phạt không tạo
ra cách biệt quá lớn giữa những VPHC có
cùng cấu thành vi phạm, khoản 1 Điều 3
13 Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012.
14 Ví dụ: Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng bằng thuyền trưởng hoặc giấy
chứng nhận khả năng chuyên môn của thuyền trưởng từ 02 tháng đến 03 tháng.
15 Ví dụ: Khoản 6 Điều 18 Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
từ 01 đến 03 tháng.
16 Ví dụ: Khoản 5 Điều 8 Nghị định số 42/2019/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng Giấy phép khai thác thủy sản từ 03
tháng đến 06 tháng.
17 Ví dụ: Điểm c khoản 6 Điều 4 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng Giấy tiếp nhận đăng ký bản
công bố sản phẩm từ 20 tháng đến 24 tháng.
18 Ví dụ: Điểm a Khoản 10 Điều 9 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng thẻ hướng dẫn viên du lịch
trong thời hạn từ 01 tháng đến 06 tháng.
19 Ví dụ: Khoản 15 Điều 7 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP quy định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh
dịch vụ lữ hành phụ thuộc vào vi phạm cụ thể với thời hạn tước từ 06 tháng đến 12 tháng, từ 12 tháng đến 18 tháng, từ
18 tháng đến 24 tháng.
20 Ví dụ: Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định tước quyền sử dụng giấy phép xây dựng trong thời
hạn từ 12 tháng đến 24 tháng.
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy
định: “Thời hạn tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề đối với hành
vi VPHC phải được quy định thành khung
thời gian cụ thể, khoảng cách giữa thời gian
tước tối thiểu và tối đa không quá lớn”. Quy
định rất cần thiết để hạn chế tình trạng lạm
quyền, tùy tiện của chủ thể có thẩm quyền
khi xử phạt; đáng tiếc rằng Nghị định trên
chỉ quy định cho hình thức xử phạt “tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề” nhưng lại không quy định đối với
hình thức xử phạt “đình chỉ hoạt động có
thời hạn”.
Khảo sát các nghị định của Chính phủ
quy định về xử phạt VPHC trong các lĩnh
vực, chúng tôi nhận thấy việc quy định thời
hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề rất đa dạng, có những vi phạm
thời hạn tước tối thiểu và tối đa cách nhau 01
tháng14, 02 tháng15, 03 tháng16, 04 tháng17,
05 tháng18, 06 tháng19, thậm chí có những
vi phạm cách nhau đến 12 tháng20. Đối với
hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt
động có thời hạn cũng được các nghị định
quy định thành các khung thời hạn đình chỉ
với sự chênh lệch tối thiểu và tối đa khác
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 21(397) T11/2019
nhau như 02 tháng21, 03 tháng22, 05 tháng23,
06 tháng24, 09 tháng25, 12 tháng26.
Theo chúng tôi, đối với những vi phạm
có chênh lệch giữa thời hạn tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc
đình chỉ hoạt động dưới 03 tháng khá hợp lý,
đáp ứng yêu cầu của việc phân hóa mức độ
trách nhiệm hành chính theo tính chất, mức
độ của hành vi vi phạm cũng như các điều
kiện, hoàn cảnh của chủ thể vi phạm. Tuy
nhiên, đối với những trường hợp có chênh
lệch giữa thời hạn tước, đình chỉ tối thiểu
và tối đa trên 03 tháng rất dễ dẫn đến tình
trạng tiêu cực, nhũng nhiễu trong quá trình
áp dụng pháp luật.
Do vậy, Chính phủ cần tiến hành rà
soát đối với tất cả các VPHC hiện nay có
mức chênh lệch quá lớn giữa thời hạn tối
thiểu và tối đa khi áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động
nhằm thực hiện yêu cầu của Nghị định số
81/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định số 97/2017/NĐ-CP). Theo đó, cần rút
ngắn “biên độ dao động” giữa thời hạn tước,
đình chỉ tối thiểu và tối đa nhằm bảo đảm
mức chênh lệch không quá lớn, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất cần giới hạn mức chênh
lệch này tối đa là 03 tháng. Việc làm này
là hết sức cần thiết vừa thực hiện mục tiêu
phân hóa mức độ trách nhiệm hành chính,
21 Ví dụ: Điểm a, b khoản 6 Điều 4 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP quy định đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động
sản xuất, chế biến thực phẩm từ 01 tháng đến 03 tháng, từ 10 tháng đến 12 tháng đối với vi phạm quy định về sử dụng
nguyên liệu để sản xuất, chế biến, cung cấp thực phẩm.
22 Ví dụ: Điểm b, c, d, đ khoản 7 Điều 7 Nghị định số 55/2018/NĐ-CP quy định đình chỉ hoạt động buôn bán phân bón từ
03 tháng đến 06 tháng, từ 06 tháng đến 09 tháng, từ 09 tháng đến 12 tháng, từ 12 tháng đến 15 tháng.
23 Ví dụ: Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP quy định đình chỉ hoạt động thực hiện đề án, dự án điều tra cơ
bản, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước trong thời hạn từ 01 tháng đến 06 tháng.
24 Ví dụ: Điểm a khoản 4 Điều 19 Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối
với hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
25 Ví dụ: Khoản 5 Điều 44 Nghị định số 142/2017/NĐ-CP quy định đình chỉ một phần hoạt động dẫn tàu của tổ chức hoa
tiêu có thời hạn từ 03 tháng đến 12 tháng.
26 Ví dụ: Điểm d khoản 9 Điều 23 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 12 tháng đến
24 tháng khi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động xử lý chất thải nguy hại.
27 Khoản 4 Điều 23 Luật XLVPHC 2012.
vừa hạn chế tình trạng lợi dụng các quy định
này vào mục đích bất hợp pháp.
2.4. Về xác định thời hạn cụ thể khi áp
dụng hình thức xử phạt bổ sung “Tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn”
Để kiểm soát tính tùy nghi trong áp
dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền,
Luật năm 2012 quy định hướng dẫn cách
xác định mức tiền phạt cụ thể đối với một
VPHC như sau: “Mức tiền phạt cụ thể đối
với một hành vi VPHC là mức trung bình
của khung tiền phạt được quy định đối với
hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức
tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không
được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền
phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền
phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt
quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền
phạt”27. Tuy nhiên, đối với các hình thức xử
phạt bổ sung có quy định về khung phạt như
“Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động có thời hạn” thì Luật năm 2012 lại
chưa quy định để hướng dẫn cách xác định
thời hạn tước, đình chỉ cụ thể, do vậy tạo ra
cơ hội cho các chủ thể có thẩm quyền tùy
tiện quyết định khi áp dụng các hình thức xử
phạt này trong thực tế.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 21(397) T11/2019
Ví dụ, theo quy định Nghị định số
159/2013/NĐ-CP, hành vi “Đăng, phát
thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng rất
nghiêm trọng” sẽ bị áp dụng hình thức xử
phạt chính là phạt tiền từ 20.000.000 đồng
đến 30.000.000 đồng (đối với cá nhân),
40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng (đối
với tổ chức); đồng thời có thể áp dụng hình
thức xử phạt bổ sung “Tịch thu tang vật
VPHC”, “Tước quyền sử dụng giấy phép từ
01 đến 03 tháng” và áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả “Buộc cải chính, xin lỗi”28.
Áp dụng quy định trên, ngày
11/10/2019, Cục trưởng Cục Báo chí, Bộ
Thông tin và Truyền thông ban hành Quyết
định số 184/QĐ-XPVPHC xử phạt VPHC
đối với Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
vì thông tin sai sự thật. Cụ thể, Tạp chí điện
tử Luật sư Việt Nam đã thông tin sai sự thật
“gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng” trong bài
viết “Biệt phủ lấn sông của gia đình Thiếu
tướng Đỗ Hữu Ca - nguyên Giám đốc Công
an TP Hải Phòng” đăng ngày 10/8/2019.
Với hành vi này, tổ chức này bị phạt tiền
50.000.000 đồng, đồng thời bị tước quyền
sử dụng giấy phép hoạt động báo chí số 164/
GP-BTTT ngày 20/4/2017 do Bộ Thông tin
và Truyền thông cấp trong thời hạn 02 tháng
và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
buộc cải chính thông tin sai sự thật.
Tuy nhiên, cũng với vi phạm trên,
ngày 22/02/2019, Phó Cục trưởng Cục Báo
chí, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành
Quyết định số 17/QĐ-XPVPHC để xử phạt
VPHC đối với Báo điện tử Người tiêu dùng.
Theo nội dung Quyết định xử phạt, đối với
hành vi thông tin quy kết tội danh khi chưa có
bản án của Tòa án, sai sự thật gây ảnh hưởng
rất nghiêm trọng trong bài viết “Nhiều cấp
dưới bị bắt giam và kỷ luật nặng, bao giờ
ông Lê Thanh Hải và ông Lê Hoàng Quân
28 Điểm a khoản 5, khoản 7, khoản 8 Điều 8 Nghị định số 159/2013/NĐ-CP.
29 Điểm b khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC 2012.
vào lò?”, Báo điện tử Người tiêu dùng bị áp
dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền
50.000.000 đồng, áp dụng hình thức xử phạt
bổ sung tước quyền sử dụng Giấy phép hoạt
động báo điện tử số 141/GP-BTTTT ngày
23/3/2016 do Bộ Thông tin và Truyền thông
cấp cho Báo điện tử Người tiêu dùng trong
thời gian 03 tháng kể từ ngày Quyết định xử
phạt có hiệu lực và biện pháp khắc phục hậu
quả buộc cải chính, xin lỗi đối với thông tin
sai sự thật. Có thể thấy rằng trong vi phạm
nêu trên, do không có tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ nên người có thẩm quyền
đã áp dụng mức phạt tiền trung bình đối với
Báo điện tử Người tiêu dùng là 50.000.000
đồng. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung, người có thẩm quyền xử phạt
lại áp dụng thời hạn tước quyền sử dụng
giấy phép dài nhất là 03 tháng.
Nếu căn cứ vào Luật năm 2012 và
Nghị định số 159/2013/NĐ-CP thì việc
người có thẩm quyền áp dụng thời hạn tước
quyền sử dụng giấy phép là 02 tháng hay 03
tháng nêu trên là phù hợp vì không có quy
định nào để xác định thời hạn tước cụ thể,
do vậy việc quyết định thời hạn tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề bao
lâu hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của người có thẩm quyền mà không dựa
trên bất cứ một tiêu chí cụ thể nào. Do vậy,
dẫn đến hệ quả các VPHC tuy có cấu thành
giống nhau nhưng lại bị áp dụng hình thức
xử phạt bổ sung với thời hạn khác nhau, điều
này hoàn toàn không phù hợp với nguyên
tắc “Việc xử phạt VPHC được tiến hành
nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng
thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy
định của pháp luật”29.
Bên cạnh đó, Luật năm 2012 cũng
không bao hàm bất cứ quy định nào để xác
định thời hạn tước, đình chỉ đối với trường
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 21(397) T11/2019
hợp người vi phạm thực hiện nhiều VPHC
có áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề hoặc đình chỉ hoạt động. Liên quan đến
vấn đề này, hiện nay Nghị định số 81/2013/
NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
97/2017/NĐ-CP) quy định: “Trường hợp
một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành
vi VPHC mà bị xử phạt trong cùng một lần,
trong đó có từ hai hành vi trở lên bị áp dụng
hình thức xử phạt tước quyền sử dụng cùng
một loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề,
thì áp dụng thời hạn tước quyền sử dụng
giấy phép; chứng chỉ hành nghề của hành
vi VPHC có thời hạn tước dài nhất”30. Quy
định này khác với trường hợp người vi phạm
cùng lúc thực hiện nhiều VPHC bị áp dụng
hình thức phạt tiền vì tổng số tiền phạt người
vi phạm phải nộp bằng tổng số tiền phạt của
tất cả các VPHC cộng lại. Tuy nhiên, hướng
dẫn trên chỉ áp dụng đối với hình thức xử
phạt bổ sung là “tước quyền sử dụng giấy
phép; chứng chỉ hành nghề” mà không áp
dụng cho hình thức xử phạt bổ sung “đình
chỉ hoạt động”. Do vậy, trong trường hợp
người vi phạm cùng lúc thực hiện nhiều
VPHC bị áp dụng hình thức xử phạt bổ
sung “đình chỉ hoạt động” thì người có thẩm
quyền sẽ không biết dựa vào quy định nào
để xác định thời hạn đình chỉ hoạt động cho
tất cả các vi phạm đó.
Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất
trong áp dụng pháp luật, chúng tôi kiến nghị
cần bổ sung quy định về cách xác định thời
hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề, thời hạn đình chỉ hoạt động
cụ thể đối với VPHC bị áp dụng các hình
thức xử phạt này như sau:
“Thời hạn tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề, thời hạn đình chỉ
hoạt động cụ thể đối với một VPHC là mức
30 Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).
31 Khoản 2 Điều 21 Luật XLVPHC 2012.
trung bình của khung thời gian tước, đình
chỉ được quy định đối với hành vi đó; nếu
có tình tiết giảm nhẹ thì thời hạn được giảm
xuống so với mức trung bình của khung thời
gian tước, đình chỉ nhưng không được giảm
quá mức tối thiểu của khung thời gian tước,
đình chỉ; nếu có tình tiết tăng nặng thì thời
hạn được tăng lên so với mức trung bình của
khung thời gian tước, đình chỉ nhưng không
được vượt quá mức tối đa của khung thời
gian tước, đình chỉ.
Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực
hiện nhiều VPHC mà bị xử phạt trong cùng
một lần, trong đó có từ hai hành vi trở lên
bị áp dụng hình thức xử phạt tước quyền
sử dụng cùng một loại giấy phép, chứng
chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động thì
áp dụng thời hạn tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề; thời hạn đình
chỉ hoạt động của VPHC có thời hạn tước,
đình chỉ dài nhất”.
2.5. Quy định về việc áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung “trục xuất”
Theo quy định của Luật năm 2012,
trục xuất là một hình thức xử phạt đặc biệt,
được áp dụng để buộc người nước ngoài có
hành vi VPHC tại Việt Nam phải rời khỏi
lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Hình thức xử phạt này vừa được
áp dụng với tư cách là hình thức xử phạt
chính hoặc hình thức xử phạt bổ sung31. Qua
khảo sát các Nghị định quy định về xử phạt
VPHC trong các lĩnh vực có áp dụng hình
thức xử phạt trục xuất, chúng tôi nhận thấy
đa số trường hợp đều quy định áp dụng trục
xuất với tư cách là hình thức xử phạt bổ
sung. Theo thống kê đến năm 2018, trong
số các nghị định quy định về xử phạt VPHC
đang có hiệu lực thi hành chỉ có 11 nghị định
quy định về hình thức xử phạt “trục xuất”,
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
45Số 21(397) T11/2019
trong đó có 01 Nghị định quy định là hình
thức xử phạt chính, 07 Nghị định áp dụng
với tư cách là hình thức xử phạt bổ sung, còn
03 Nghị định quy định trục xuất có thể áp
dụng là hình thức xử phạt chính hoặc hình
thức xử phạt bổ sung32.
Tuy nhiên, quy định về việc áp dụng
hình thức xử phạt trục xuất hiện nay còn mơ
hồ, không có tiêu chí cụ thể để xác định dẫn
đến nhiều khó khăn khi áp dụng trong thực
tế. Tra cứu các nghị định có quy định áp
dụng hình thức xử phạt trục xuất, chúng tôi
nhận thấy một số văn bản quy định rõ hành
vi cụ thể để áp dụng hình thức xử phạt trục
xuất, trong khi đó một số văn bản lại sử dụng
công thức “tùy theo mức độ vi phạm có thể
bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất”33.
Thực tiễn đặt ra là việc xác định “mức độ
vi phạm” sẽ căn cứ vào tiêu chí nào? Luật
năm 2012 và các nghị định có quy định về
hình thức xử phạt trục xuất đều không có
bất kỳ điều khoản nào quy định về “mức độ
vi phạm” để làm căn cứ áp dụng hình thức
xử phạt này. Vậy khi gặp trường hợp người
nước ngoài vi phạm các điều khoản có quy
định áp dụng hình thực xử phạt trục xuất thì
người có thẩm quyền sẽ dựa tiêu chí nào để
xác định “mức độ vi phạm” làm căn cứ ban
hành quyết định trục xuất. Tất nhiên, mọi
vi phạm phải bị xử phạt, thế nhưng, việc áp
dụng hình thức xử phạt đúng với mức độ vi
phạm có tác dụng răn đe, giáo dục cao hơn
là việc áp dụng mang tính tùy tiện, võ đoán.
Thậm chí, với quy định này có thể thấy, trong
nhiều trường hợp, người có thẩm quyền
cũng sẽ băn khoăn, lo lắng khi đưa ra quyết
định trục xuất vì rất dễ vi phạm nguyên tắc
32 Cao Vũ Minh, Hình thức xử phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2018, tr. 43.
33 Các điều khoản trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định về việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với
người nước ngoài vi phạm với công thức như sau: “người nước ngoài có hành vi vi phạm thì tùy theo mức độ vi phạm
có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
34 Cao Vũ Minh – Nguyễn Nhật Khanh (2018), “Hoàn thiện pháp luật xử phạt VPHC về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh,
cư trú và đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 09 (121).
35 Khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC 2012.
“khách quan, bảo đảm công bằng, đúng quy
định của pháp luật” được nêu tại khoản 1
Điều 3 Luật năm 201234.
Có thể thấy rằng, công thức “tùy theo
mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức
xử phạt trục xuất” là một quy định rất tùy
nghi và dễ tạo ra sự lạm quyền, tùy tiện. Do
đó, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật năm
2012 cần quy định rõ ràng các tiêu chí, điều
kiện cụ thể để áp dụng hình thức xử phạt
trục xuất. Trên cơ sở đó, các nghị định của
Chính phủ sẽ quy định cụ thể về hành vi vi
phạm bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất
trong lĩnh vực tương ứng.
2.6. Quy định về thẩm quyền áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm”
Luật năm năm 2012 quy định: “Xử
phạt VPHC là việc người có thẩm quyền xử
phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi VPHC theo quy định của
pháp luật về xử phạt VPHC”35. Như vậy, khi
xử phạt đối với một VPHC cụ thể đòi hỏi
người có thẩm quyền xử phạt phải có thẩm
quyền áp dụng đầy đủ các hình thức xử phạt
và biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối
với VPHC đó, nếu thiếu một trong hai điều
kiện thì người đó không có thẩm quyền xử
phạt.
Về nguyên tắc, hình thức xử phạt bổ
sung phải phụ thuộc vào hình thức xử phạt
chính, điều này cũng tỷ lệ thuận với quy
định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt. Do đó, Luật năm 2012 đã thiết kế thẩm
quyền xử phạt bổ sung phụ thuộc vào hình
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
46 Số 21(397) T11/2019
thức xử phạt chính, trong đó nổi bật là việc
giới hạn thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung theo giới hạn về thẩm quyền
áp dụng hình thức phạt tiền. Tuy nhiên, thực
tiễn xử phạt VPHC cho thấy cách quy định
này đã phát sinh nhiều bất cập dẫn đến hiện
tượng vô hiệu hóa thẩm quyền xử phạt.
Ví dụ, theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 27 Nghị định số 185/2013/
NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
124/2015/NĐ-CP), người nào có hành vi
“Nhập khẩu thuốc lá không bảo đảm yêu cầu
vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định” sẽ
bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt
tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000
đồng, đồng thời có thể áp dụng hình thức
xử phạt bổ sung tịch thu tang vật vi phạm.
Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 101 Nghị
định số 185/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP), Chủ
tịch UBND cấp huyện có quyền phạt tiền
đến 50.000.000 đồng và tịch thu tang vật,
phương tiện VPHC có giá trị không vượt
quá 50.000.000 đồng. Như vậy, đối với vi
phạm nêu trên, Chủ tịch UBND cấp huyện
có đủ thẩm quyền để áp dụng hình thức phạt
tiền. Tuy nhiên, đối với hình thức xử phạt
tịch thu tang vật vi phạm, chủ thể này chỉ có
thể áp dụng nếu lô thuốc lá nhập lậu không
bảo đảm yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm
có giá trị không vượt quá 50.000.000 đồng.
Nếu vượt quá 50.000.000 đồng thì Chủ tịch
UBND cấp huyện sẽ không có thẩm quyền
xử phạt mà phải chuyển cho chủ thể có thẩm
quyền đó là Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Thực
trạng này dẫn đến hệ quả là nhiều vụ VPHC
cấp dưới không thể xử lý mà phải chuyển
lên cho cấp trên, làm phát sinh tình trạng
ùn ứ hồ sơ, chậm xử phạt do số vụ vi phạm
được chuyển lên quá nhiều. Vì lý do này mà
nguyên tắc “Việc xử phạt VPHC được tiến
hành nhanh chóng, công khai, khách quan,
36 Điều 2 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).
đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng
quy định của pháp luật” trong nhiều trường
hợp không đạt được.
Việc xây dựng các VPHC, hình thức
xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả tại các nghị định xử phạt VPHC
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước phải
chú ý việc bảo đảm trật tự quản lý hành
chính nhà nước; mức độ giáo dục, răn đe
và tính hợp lý, tính khả thi của việc áp dụng
hình thức, mức phạt; đáp ứng yêu cầu khôi
phục lại trật tự quản lý hành chính nhà nước
do VPHC gây ra36. Vì vậy, để đáp ứng yêu
cầu đấu tranh, ngăn chặn, phòng chống và
xử phạt VPHC, chúng tôi cho rằng, Luật
năm 2012 và các nghị định quy định về xử
phạt VPHC trong các lĩnh vực cần cân nhắc
loại bỏ việc giới hạn thẩm quyền áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để VPHC do giới
hạn bởi thẩm quyền áp dụng phạt tiền. Bởi
lẽ mục đích chính của hình thức xử phạt
bổ sung như tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để VPHC hướng đến mục tiêu
loại trừ khả năng chủ thể vi phạm sử dụng
tang vật, phương tiện đó để tiếp tục vi phạm
nhiều hơn là trừng trị, răn đe hay tước đi
khoản lợi ích vật chất của người vi phạm
như hình thức phạt tiền. Việc cho phép chủ
thể có thẩm quyền trong giới hạn áp dụng
mức tiền phạt có thể áp dụng các hình thức
xử phạt này sẽ không dẫn đến tình trạng lạm
quyền. Do vậy, cần rà soát tổng thể các quy
định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung “Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để VPHC” trong Luật năm
2012 để sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ đi
giới hạn thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung theo thẩm quyền áp dụng hình
thức phạt tiền của chủ thể có thẩm quyền để
kịp thời khắc phục các bất cập như đã nêu
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
47Số 21(397) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_cac_hinh_thuc_xu_phat_bo_sung_trong.pdf