Trong nhận thức và nghiên cứu lý
luận về kiểm soát quyền lực, cần phải khắc
phục quan điểm cho rằng kiểm soát quyền
lực chỉ có thể khả thi trong cơ chế chính trị
có đảng đối lập như ở các nước tư bản chủ
nghĩa và chỉ khi cần thiết khi quyền lực thật
sự được phân quyền và đối trọng. Nhận thức
này không thực sự chính xác, thiếu cơ sở,
trái với nguyên lý ở đâu có thực thi quyền
lực, ở đó có kiểm soát quyền lực thì ở đó
mới có tự do và dân chủ. Kiểm soát quyền
lực là yêu cầu tự thân của mọi nền dân chủ
trong đó bao gồm cả nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và trưởng
thành. Do vậy, trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền lãnh đạo nhà nước ở nước
ta, sự kiểm soát quyền lực cũng hết sức cần
thiết và thật sự khả thi. Sự khả thi được thể
hiện không chỉ ở chỗ Đảng lãnh đạo mà còn
đồng thời Đảng cũng là một chủ thể kiểm
soát việc thực thi quyền lực của các cơ quan
nhà nước với vị thế, tính chất cầm quyền.
Sự kiểm soát của Đảng đối với việc thực thi
quyền lực nhà nước không thay thế sự kiểm
soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước và
do vậy luôn luôn cần thiết trong mọi quá
trình thực hiện quyền lực theo ủy quyền của
nhân dân. Vì vậy, trong vai trò là Đảng duy
nhất cầm quyền, một mặt Đảng phải tăng
cường sự kiểm tra, giám sát của mình đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, đảm bảo các cơ quan nhà nước luôn
quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối
chính trị của Đảng, phụng sự ý chí, lợi ích
của nhân dân; mặt khác, Đảng phải tạo dư
luận, tạo cơ chế để các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền
tư pháp. Chủ động, sáng tạo và linh hoạt
trong các mối quan hệ kiểm soát lẫn nhau.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng
cao chất lượng kiểm soát quyền lực, đề cao
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhân dân giao phó.
Đối với Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước nói chung, đối với việc
kiểm soát quyền lực nói riêng, không chỉ tập
trung kiểm soát việc thực hiện quyền, chống
độc quyền quyền lực, tha hóa, lạm quyền,
mà còn phải chú trọng giám sát việc thực
hiện trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
trước xã hội, trước cộng đồng doanh nghiệp
và trước nhân dân. Kiểm soát trách nhiệm,
nghiêm túc truy cứu trách nhiệm đối với việc
thực hiện các nghĩa vụ trước xã hội, trước
nhân dân từ phía các cơ quan của Quốc hội,
cơ quan Chính phủ và đội ngũ cán bộ, công
chức cần được Đảng đặc biệt quan tâm trong
việc thực hiện mục tiêu “nhốt quyền lực vào
trong lồng cơ chế”
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quan hệ kiểm soát quyền lực nhà nước giữa quốc hội và chính phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ1
1 Bài viết này được thực hiện trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thuộc Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Hoàn thiện
quy định của pháp luật về quan hệ kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm
2013" do PGS.TS. Lê Minh Thông làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Hiện nay, ở nước ta, kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung,
kiểm soát việc thực hiện quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ
nói riêng đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội quan
tâm. Trên tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Hiến pháp năm 2013, nhiều chủ trương, giải pháp về kiểm soát
quyền lực đang được triển khai và đạt được kết quả tích cực. Bên
cạnh đó, việc kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực
giữa Quốc hội và Chính phủ vẫn còn những hạn chế, bất cập cần
được khắc phục kịp thời.
Lê Minh Thông*
* PGS. TS. Trợ lý Chủ tịch Quốc hội.
Abstract
Currently, controlling of the state power in general, and controlling
of the power exercises between the National Assembly and the
Government in particular are the issues that are concerned by
the Party, the state and the whole society. In the spirit of the
Platform for developing the country to socialism (amendment,
development in 2011) in transition stage and the Constitution in
2013, several guidelines and solutions on power controlling are
being enforced and positive results are reached. In addition, there
are drawbacks and shortcomings in the controlling of the state
power and the power controlling between the National Assembly
and the Government, which are needed to be promptly addressed.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quan hệ kiểm soát, quyền lực,
Quốc hội, Chính phủ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/09/2019
Biên tập : 15/09/2019
Duyệt bài : 17/09/2019
Article Infomation:
Keywords: Controlling relation; power;
National Assembly; Government.
Article History:
Received : 05 Sep. 2019
Edited : 15 Sep. 2019
Approved : 17 Sep. 2019
Hiện nay, ở nước ta, kiểm soát quyền lực nói chung, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa Quốc
hội và Chính phủ nói riêng đang là vấn đề
được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm.
Trên tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp
năm 2013, nhiều chủ trương, giải pháp về
kiểm soát quyền lực đang được triển khai và
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 19(395) T10/2019
đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, việc
kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt
động của cả hệ thống chính trị vẫn đang đặt
ra không ít vấn đề bất cập. Văn kiện Đại hội
XII của Đảng đã chỉ rõ: “...Chưa chế định
rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực ở các cấp. Tổ
chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các
thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn
những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực,
hiệu quả Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý
nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu
kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu
đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành
chính còn phức tạp, phiền hà đang là rào cản
lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội,
môi trường kinh doanh lành mạnh, minh
bạch, hiệu quả cho sự phát triển Công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn
nghiêm trọng,...”2. Những hạn chế, yếu kém
nêu trên đang là cản trở cho việc kiểm soát
quyền lực nhà nước, làm cho các giải pháp,
các nỗ lực kiềm soát quyền lực nhà nước nói
chung, kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội
và Chính phủ nói riêng chưa đạt được các
mục tiêu và kết quả mong muốn. Để khắc
phục những hạn chế nêu trên, trong thời gian
tới, các quy định của pháp luật về quan hệ
kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính
phủ cần được hoàn thiện:
1. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn về kiểm soát quyền lực để
đổi mới tư duy về mối quan hệ kiểm soát
quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ
- Hiến pháp 2013 đã cơ bản hoàn thiện
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước với 4
nội hàm quan trọng của quyền lực nhà nước:
thống nhất, phân công, phối hợp và kiểm
2 Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2016. tr. 173-174.
soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Có thể xem đây là một bước phát triển tư
duy và quan điểm về nguyên tắc tổ chức
quyền lực trong nhà nước pháp quyền, vừa
thể hiện tính đặc thù của Nhà nước ta trong
điều kiện nhất nguyên chính trị. Tuy nhiên,
trong nhận thức lý luận, vẫn còn không ít vấn
đề liên quan đến nguyên tắc này chưa được
lý giải một cách cụ thể, thuyết phục tạo cơ
sở để thống nhất nhận thức. Sự phủ định các
luận điểm của học thuyết phân quyền vốn là
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước cơ
bản đang được áp dụng tại nhiều nhà nước
pháp quyền trên thế giới cần được nghiên
cứu cơ bản hơn để dễ dàng phân biệt được
không chỉ về phương diện lý luận mà còn
cả phương diện thực tiễn. Sự phân biệt giữa
nguyên tắc phân quyền, kiểm soát quyền
lực đang được thực hiện ở nhiều nước và
nguyên tắc tổ chức quyền lực được áp dụng
trong mô hình tổng thể bộ máy nhà nước ta.
Trong điều kiện hội nhập sâu rộng
vào tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế,
việc nghiên cứu các giá trị phổ quát để vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn nước ta là rất
cần thiết. Do vậy, những nghiên cứu so sánh
kinh nghiệm quốc tế trong đó có lý luận và
thực tiễn về nhà nước pháp quyền cần được
đẩy mạnh ở nước ta, nhằm một mặt là tiếp
thu được các giá trị phổ quát đang được áp
dụng sâu rộng ở nhiều nước và mặt khác là
khắc phục các biểu hiện áp dụng máy móc,
giáo điều theo kiểu sao chép mô hình hoặc
phủ định sạch trơn có ý nghĩa lớn đối với đổi
mới tư duy. Chính vì vậy, cần nghiên cứu lý
luận sâu sắc về nguyên tắc tổ chức quyền
lực ở nước ta để:
Một mặt, làm rõ tính chất, đặc điểm,
nội dung, phương thức của phân công, phối
hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 19(395) T10/2019
là sự tương quan giữa tính thống nhất và sự
phân công (mà không phải là phân quyền),
sự tương quan giữa phối hợp và kiểm soát
quyền lực; các nội dung, phương thức, phạm
vi, các điều kiện để thực hiện việc kiểm soát
quyền lực; mối tương quan giữa vị trí, vai
trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm
quyền với vị trí, vai trò của các cơ quan
nhà nước, đặc biệt là của Quốc hội, Chính
phủ trong việc thực thi quyền lực và kiểm
soát quyền lực nhà nước theo yêu cầu của
Hiến pháp. Dĩ nhiên, các nghiên cứu lý luận
phải luôn gắn liền với tổng kết thực tiễn về
kiểm soát quyền lực giữa các thiết chế thực
thiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Tổng kết thực tiễn về kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện
quyền lực nhà nước theo ủy quyền của nhân
dân, đặc biệt là quan hệ kiểm soát quyền
lực giữa Quốc hội và Chính phủ không chỉ
nhằm đánh giá rõ được thực trạng mối quan
hệ này mà điều quan trọng để phát hiện mức
độ phù hợp giữa nhận thức lý luận, các quy
định của pháp luật và thực tiễn triển khai,
đánh giá tính khả thi và những mâu thuẫn
đang tồn tại nảy sinh từ bất cập về lý luận và
từ chính các quy định của pháp luật.
Mặt khác, các nghiên cứu này phải
góp phần lý giải, làm sáng tỏ vì sao phải phủ
định học thuyết tam quyền phân lập trong
điều kiện cụ thể của nước ta. Có như vậy
mới có thể hình thành một cơ sở lý luận vững
chắc, có căn cứ thực tiễn để thống nhất được
nhận thức và hành động trong triển khai các
nội hàm của nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nước: thống nhất, phân công, phối hợp
và kiểm soát quyền lực trong điều kiện cụ
thể ở nước ta.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam đã đạt được không ít
thành tựu. Tuy nhiên, bối cảnh mới của thời
đại mới vẫn đang đòi hỏi một tư duy mới về
Nhà nước nói chung và về kiểm soát quyền
lực nhà nước nói riêng.
Tư duy lại vai trò của Nhà nước trong
điều kiện hiện nay ở nước ta, cần đổi mới
nhận thức trên những vấn đề cơ bản sau:
- Nhà nước là một thiết chế chính trị
trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng trong
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, dù
vai trò của Nhà nước quan trọng, to lớn đến
nhường nào cũng không thể tạo ra một nhà
nước toàn trị, quyết định mọi vấn đề và bao
cấp toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước luôn
có giới hạn trong mối quan hệ với các thiết
chế chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính
trị, mối quan hệ với kinh tế thị trường, xã hội
và mối quan hệ với công dân.
- Nghiên cứu sự thay đổi trong vai
trò của Nhà nước cần được quán triệt cả hai
xu hướng: Thứ nhất, tăng cường sức mạnh
của Nhà nước thông qua các biện pháp cải
tổ mạnh mẽ bộ máy nhà nước từ việc quan
niệm lại kết cấu và tổ chức quyền lực, thực
hiện công quyền của các nhánh quyền lực
đến việc cải cách nền hành chính quốc gia,
cải cách tư pháp... làm cho Nhà nước thực
sự thích ứng với cơ chế kinh tế - xã hội mới
là để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ
đặt ra của thời kỳ quá độ; Thứ hai, xu hướng
phi nhà nước hóa, từng bước loại bỏ dần
sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh
vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng
không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường
các khả năng độc lập của các thiết chế chính
trị xã hội khác theo hướng giải phóng họ
khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà nước từ
tài chính đến tổ chức.
- Những nhiệm vụ mới phải được nhà
nước thực hiện, phải được thể hiện trong
những yêu cầu mới của hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Hoạt động lập pháp của Nhà nước
trong thời đại ngày nay không hướng trọng
tâm vào thể chế hóa quyền quản lý của bộ
máy nhà nước (quyền cai trị) mà phải hướng
trọng tâm vào việc tạo dựng khuôn khổ pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 19(395) T10/2019
lý vững chắc cho một nền dân chủ xã hội
và tự do của công dân. Điều này có nghĩa
là, hoạt động lập pháp chuyển trọng tâm từ
quy định quyền của bộ máy nhà nước sang
xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các
cơ quan này, từ quyền cho phép của công
quyền sang quyền của công dân trong mối
quan hệ với nhà nước.
Hoạt động tư pháp chuyển từ nhân
danh nhà nước sang nhân danh luật pháp và
công lý để phán quyết các vi phạm luật pháp
và xử lý các tranh chấp, xung đột pháp lý
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự thay đổi mục tiêu, nội hàm hoạt
động của lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ
dẫn đến đương nhiên phải cơ cấu lại chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và phương
thức hoạt động của bộ máy nhà nước từ
Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp
đến chính quyền địa phương.
Tư duy mới về Nhà nước trong điều
kiện hiện nay dĩ nhiên kéo theo sự thay đổi
về quan hệ kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Để nhận diện rõ sự thay đổi này,
rất cần một tư duy mới về kiểm soát quyền
lực, đặc biệt việc kiểm soát quyền lực giữa
Quốc hội và Chính phủ.
2. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, tạo
sự cân bằng hơn, hợp lý hơn trong mối
quan hệ kiểm soát quyền lực giữa Quốc
hội và Chính phủ
Hiến pháp 2013 đã xác định rõ tính
chất, vị trí của các thiết chế quyền lực
trong bộ máy nhà nước ta: Quốc hội thực
hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp và Tòa án nhân dân thực
hiện quyền tư pháp. Như vậy, quyền lực của
mỗi một thiết chế được hạn định trong từng
lĩnh vực cụ thể, phù hợp với sự ủy quyền
của nhân dân, đảm bảo không một cơ quan
nào có thể nắm toàn bộ quyền lực, trở thành
cơ quan độc quyền quyền lực. Yêu cầu của
nguyên tắc tổ chức quyền lực trong nhà
nước pháp quyền luôn là chống độc quyền
quyền lực, nội hàm của các quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp cần được
phân định rành mạch để không một cơ quan
nào có thể lấn sân vào thẩm quyền của cơ
quan khác, hay được tạo ưu thế vượt trội hơn
trong quá trình thực hiện quyền lực. Do vậy,
dù lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp có
tính chất, phạm vi, phương thức thực hiện
khác nhau nhưng không vì vậy mà vị thế của
các cơ quan này không bình đẳng trong các
quan hệ quyền lực. Lý luận và thực tiễn tổ
chức quyền lực cho thấy, sự bất bình đẳng
về địa vị không thể tạo được sự cân bằng
trong quyền lực và từ đó không thể tạo được
sự cần bằng trong khả năng kiểm soát quyền
lực của từng cơ quan.
Quán triệt tinh thần Hiến pháp 2013
về kiểm soát quyền lực, cần tiếp tục đổi mới
tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng làm rõ
hơn, cụ thể hơn tính chất, phạm vi, giới hạn,
nội hàm và hình thức, phương thức thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp nhằm đảm bảo không một cơ quan
nào nằm ngoài sự kiểm soát quyền lực và
mỗi một cơ quan có đủ quyền hạn, khả năng
và phương thức phù hợp để thực hiện quyền
kiểm soát trở lại đối với các cơ quan tương
ứng. Để đảm bảo được khả năng này, cần
tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của từng
cơ quan, trước hết là Quốc hội và Chính phủ
để một mặt đảm bảo cho Quốc hội khả năng
kiểm soát việc thực thi quyền lực của Chính
phủ trong quá trình thực hiện chức năng lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và giám sát tối cao. Mặt khác, đảm
bảo cho Chính phủ khả năng, điều kiện và
phương thức phù hợp để kiểm soát quyền
lực giữa Quốc hội và Chính phủ cần phải
khắc phục tình trạng “bất đối xứng” trong
mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa 2
thiết chế quyền lực quan trọng này. Theo đó,
cần tạo lập sự cân bằng trong quan hệ quyền
lực giữa Quốc hội và Chính phủ. Cần phải
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 19(395) T10/2019
có bước chuyển biến từ nhận thức lý luận
về phân công quyền lực để khắc phục quan
điểm toàn bộ quyền lực thuộc về Quốc hội
như đã tồn tại trước đây trong cơ chế quyền
lực cũ đến một cơ chế phân công quyền lực
cân bằng. Sự cân bằng trong quan hệ quyền
lực giữa Quốc hội và Chính phủ để đảm bảo
vai trò giám sát của từng thiết chế quyền lực
trong từng hoạt động thực hiện quyền lực
cụ thể. Nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành cho thấy, quyền kiểm soát của
Quốc hội đã được cụ thể hóa khá đầy đủ và
toàn diện, tạo được khả năng tác động mạnh
mẽ đến hoạt động của Chính phủ. Tuy nhiên,
quyền và khả năng kiểm soát, tác động, phản
hồi trở lại các hoạt động của Quốc hội từ
phía Chính phủ lại chưa được quy định rõ
ràng, nên việc thực hiện quyền kiểm soát
quyền lực của Chính phủ đối với hoạt động
của Quốc hội còn khá mờ nhạt. Tình trạng
này dẫn đến một hệ quả là, Chính phủ chỉ
luôn là đối tượng của kiểm soát quyền lực
và ít có cơ hội tác động trở lại hoạt động
của Quốc hội với vai trò là chủ thể của một
nhánh quyền lực có quyền kiểm soát việc
thực hiện quyền lực của nhánh quyền lực
khác. Để khắc phục hệ quả này, cần tiếp tục
nghiên cứu, làm rõ tính chất, phạm vi quyền
hành pháp và quyền độc lập của Chính phủ
trong vai trò là cơ quan thực hiện quyền
hành pháp. Đồng thời với việc làm rõ quyền
hành pháp và vai trò độc lập của Chính phủ
trong việc thực hiện quyền hành pháp, cần
tiếp tục làm rõ vị trí, tính chất chấp hành của
Chính phủ trong mối quan hệ với Quốc hội.
Thật ra sự không rõ ràng về phương diện lý
luận về 3 vai trò, vị trí của Chính phủ: cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất; cơ quan
thực hiện quyền hành pháp; cơ quan chấp
hành của Quốc hội đang tạo ra nhiều phức
tạp, thiếu thống nhất trong nhận thức và quy
định của pháp luật về Chính phủ. Sự không
rõ ràng, cụ thể về vấn đề này khó đảm bảo
một vị thế cân bằng và khả năng độc lập của
Chính phủ đối với việc thực thi quyền lực
nói chung và kiểm soát quyền lực nói riêng.
Vấn đề đang đặt ra là, cần tiếp tục
nghiên cứu để có quy định phù hợp, tăng
cường tính độc lập, chủ động của Chính
phủ trong mối quan hệ kiểm soát quyền lực
với Quốc hội, tạo thế cân bằng hơn trong
các quan hệ lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng và giám sát tối cao.
Trong hoạt động lập pháp của Quốc
hội, cần tăng cường vai trò của Chính phủ
không chỉ trong việc đề xuất chính sách
pháp luật, xây dựng dự thảo luật, nghị quyết
mà cần tăng cường các khả năng tác động
trở lại của Chính phủ đối với cả quá trình
thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và thông
qua dự thảo. Với tinh thần đó, Chính phủ
phải chịu trách nhiệm đến cùng đối với mọi
dự thảo luật do Chính phủ xây dựng trong
suốt quá trình làm luật. Chính phủ phải được
quyền rút dự thảo luật ra khỏi chương trình
làm luật của Quốc hội trong Chương trình
xây dựng pháp luật hằng năm, thậm chí
chương trình của kỳ họp nếu Chính phủ có
cơ sở để cho rằng, dự thảo luật không đáp
ứng yêu cầu quản trị và Chính phủ khó triển
khai trên thực tiễn. Đối với các dự thảo luật
không do Chính phủ trình mà do các chủ thể
khác trình Quốc hội, Chính phủ cần được
thể hiện rõ quan điểm của mình với tư cách
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp về
các chính sách trong quy định trong dự thảo
và quan điểm của Chính phủ đối với các
dự thảo này phải được công bố trước Quốc
hội và là một căn cứ quan trọng để đại biểu
Quốc hội xem xét, cân nhắc khi thảo luận
về các dự thảo luật không do Chính phủ xây
dựng và trình.
Trong hoạt động quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước, Chính phủ cần
được chủ động giải trình trước Quốc hội về
các vấn đề liên quan, về các ý kiến của đại
biểu Quốc hội, thậm chí được tranh luận,
được quyền bảo lưu ý kiến của mình và đặc
biệt phải là cơ quan có quyền nêu ý kiến
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 19(395) T10/2019
cuối cùng về các vấn đề quan trọng của đất
nước trước khi các đại biểu Quốc hội bỏ
phiếu quyết định.
Trong hoạt động giám sát tối cao,
Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ
không chỉ là đối tượng chịu giám sát mà
còn phải là chủ thể tác động tích cực trở lại
các hoạt động giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội. Sự tác động trở lại
này không chỉ thể hiện trong báo cáo về việc
thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh
vực giám sát mà còn phải được giải trình,
được tranh luận trước các vấn đề đoàn giám
sát nêu ra. Đặc biệt đối với các báo cáo giám
sát, các kết luận giám sát, Chính phủ cần
được quyền nêu quan điểm của mình về các
nội dung của báo cáo, nội dung các kết luận
giám sát, bảo lưu các ý kiến của mình về các
vấn đề không thống nhất. Dĩ nhiên báo cáo
ý kiến của Chính phủ về báo cáo, kết luận
giám sát cũng phải được công bố khi các đại
biểu thảo luận và là một bộ phận trong hồ sơ
giám sát của Quốc hội.
3. Tăng cường dân chủ, bảo đảm tính
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình của Quốc hội và Chính phủ trong
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân là thuộc tính,
bản chất của Nhà nước ta. Trong suốt chiều
dài phát triển của đất nước, dân chủ là tiền
đề, đồng thời là động lực để Nhân dân ta
đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
phát triển đất nước. Trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu phát huy
dân chủ càng đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan
nhà nước xây dựng môi trường dân chủ, bảo
đảm Nhân dân thực hiện, kiểm soát được
việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Thực
tế chỉ ra cho thấy, nếu Nhà nước không tạo
dựng được môi trường dân chủ thực sự thì
Nhân dân không thể thực hiện được quyền
lực Nhân dân, không thể kiểm soát được
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy,
tạo lập môi trường dân chủ vừa là phương
tiện, vừa là giải pháp bảo đảm để Nhân dân
thưc hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Như vậy, tăng cường dân chủ trong hoạt
động của Quốc hội, Chính phủ đòi hỏi một
mặt, bảo đảm cho Nhân dân kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước; mặt khác,
bảo đảm cho sự kiểm soát giữa Quốc hội và
Chính phủ trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp.
Để có môi trường dân chủ thực sự,
phát huy được đầy đủ quyền lực Nhân dân
trong hoạt động của Quốc hội và Chính phủ
thì trong hoạt động thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, Quốc hội, Chính phủ cần
bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình. Công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trước hết là nhằm bảo
đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện
quyền của người dân trong việc tham gia
quản lý nhà nước và xã hội. Đồng thời, công
khai, minh bạch và giải trình là một trong
những giải pháp quan trọng để khắc phục
tệ quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ
máy nhà nước, là điều kiện không thể thiếu
để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của nhân
dân đóng góp cho các hoạt động quản lý và
là một yêu cầu cần thiết để thành công trong
hội nhập quốc tế.
Công khai, minh bạch, giải trình trong
hoạt động của Quốc hội và Chính phủ đòi
hỏi sự công khai minh bạch về các thông
tin liên quan đến việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Chính
phủ. Công khai, minh bạch thông tin về hoạt
động của Quốc hội và Chính phủ không
những giúp cho người dân nắm bắt được
đầy đủ thông tin về hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ, làm cơ sở cho việc kiểm soát
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, mà còn
bảo đảm cho hoạt động kiểm soát quyền lực
giữa Quốc hội và Chính phủ.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 19(395) T10/2019
Trách nhiệm giải trình của các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức, người có trách
nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ cũng đã được đề cập đến trong nhiều văn
bản của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí” đã đặt
ra yêu cầu: “Thực hiện nghiêm các quy định
về công khai, minh bạch; bổ sung quy định
bảo đảm minh bạch quá trình ra quyết định,
bao gồm cả chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật và quyết định giải quyết một vụ
việc cụ thể của cơ quan nhà nước các cấp”.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng cũng chỉ rõ: “...tăng cường tính
công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt
động công vụ”. Triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Hội nghị
Trung ương 5 (khóa XI) tiếp tục xác định
“thực hiện việc công khai, minh bạch hoạt
động của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng
viên, nhất là trong những lĩnh vực dễ xảy ra
tiêu cực, tham nhũng, lãng phí”. Việc thực
hiện đầy đủ trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Quốc hội, Chính phủ góp phần
nâng cao tính công khai, minh bạch hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức cá nhân
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được giao. Thực hiện trách nhiệm giải
trình sẽ buộc Quốc hội, Chính phủ, cán bộ,
công chức trong các cơ quan của Quốc hội,
Chính phủ phải công khai thông tin về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
đến với người dân, xã hội và phải chịu trách
nhiệm về tính trung thực của các thông tin
đó. Việc làm này góp phần nâng cao tính
trách nhiệm Quốc hội, Chính phủ những hệ
quả xảy ra do quyết định, hành vi của mình.
Trách nhiệm giải trình giúp cho người
dân thực hiện việc giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, việc thực
hiện trách nhiệm giải trình còn giúp Nhân
dân nhận thức được vai trò của mình trong
việc tham gia vào việc hoạch định các chính
sách của cơ quan nhà nước, thực hiện quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội của
công dân.
Thực hiện trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ còn
góp phần phòng, chống tham nhũng. Trách
nhiệm giải trình sẽ tạo ra sự ràng buộc đối
với những người có chức vụ, quyền hạn
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình theo quy định của pháp luật. Điều
này góp phần giảm thiểu nguy cơ tham
nhũng, lãng phí trong hoạt động của Quốc
hội, Chính phủ.
4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với Quốc hội và Chính phủ trong hoạt
động kiểm soát quyền lực
- Sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất
cầm quyền trong điều kiện nhất nguyên chính
trị đối với Nhà nước là một trong những đặc
điểm quan trọng của tổ chức và hoạt động
bộ máy nhà nước ta. Sự lãnh đạo ấy là một
trong những yếu tố quan trọng chi phối mọi
hoạt động của Nhà nước nói chung và các
mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa các
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp nói riêng.
Đặc điểm yêu cầu của quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân ở nước ta đòi hỏi phải tăng
cường sự lãnh đạo chính trị của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, đồng thời tôn trọng vị trí, vai trò độc
lập của bộ máy nhà nước, không bao biện
làm thay Nhà nước trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước do nhân dân ủy quyền.
Do đó, về phương diện lý luận và thực tiễn,
chế độ pháp quyền đòi hỏi phải xác định rõ
vị trí, vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm
quyền và của Nhà nước. Theo đó, nội dung
lãnh đạo của Đảng cầm quyền, phương thức
lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà
nước và xã hội cần có nhận thức và xác định
rõ ràng. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng phải
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 19(395) T10/2019
được phân biệt rành mạch với nội dung, tính
chất quản lý, điều hành đất nước, xã hội
của bộ máy nhà nước. Mô hình tổ chức và
hoạt động của bộ máy Đảng phải thể hiện
được yêu cầu, đặc điểm của sự lãnh đạo
chính trị của một Đảng duy nhất cầm quyền
thông qua các phạm vi giới hạn hình thức
và phương pháp đặc thù khác với mô hình
tổ chức và phương thức hoạt động của bộ
máy nhà nước pháp quyền. Do vậy, yêu cầu
của nhà nước pháp quyền là phải thật sự đổi
mới mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và
Nhà nước trên tất cả các phương diện từ tính
chất, phạm vi, quyền hạn, chức năng nhiệm
vụ, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đến
tổ chức và hoạt động của bộ máy và phương
thức hoạt động.
- Đảng cầm quyền là nắm quyền lãnh
đạo chính trị để Nhà nước thực hiện quyền
lực nhà nước, Đảng không làm thay công
việc của Nhà nước. Vì vậy, không có sự
phân định thẩm quyền giữa Đảng và Nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Nội dung sự lãnh đạo chính trị của
Đảng cầm quyền chính là quyền xác định
đường lối chính trị, các chủ trương, chính
sách, làm cơ sở cho các hoạt động nhà nước.
Đảng cầm quyền thông qua bộ máy
nhà nước. Bộ máy nhà nước là công cụ,
phương tiện cầm quyền cơ bản nhất của
Đảng. Do đó, để cầm quyền tốt, Đảng phải
chăm lo xây dựng, củng cố bộ máy nhà
nước, đảm bảo cho bộ máy nhà nước thực
hiện đúng các nhiệm vụ, chức năng theo luật
định của mình.
Nghệ thuật cầm quyền của Đảng chính
là nghệ thuật sử dụng bộ máy nhà nước, nghệ
thuật phát huy các thế mạnh ưu việt của bộ
máy nhà nước để tham mưu cho Đảng, để
trực tiếp tổ chức việc thực hiện các mục tiêu
chính trị của Đảng.
Vấn đề đặt ra là cần khắc phục nguy
cơ đồng nhất Đảng với Nhà nước theo kiểu
“Nhà nước trong Đảng” hay Đảng - Nhà
nước và nguy cơ tuyệt đối hóa ranh giới
giữa bộ máy đảng và bộ máy nhà nước theo
kiểu tách bạch bộ máy đảng với bộ máy nhà
nước, thậm chí đối lập bộ máy đảng với bộ
máy nhà nước.
Các nguy cơ này thường dẫn đến
những hệ quả là hạ thấp vai trò của bộ máy
nhà nước, hình thức hóa bộ máy nhà nước,
với tâm lý cho rằng đề cao vai trò và tính
độc lập của Nhà nước pháp quyền sẽ làm
suy yếu vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền
của Đảng; hoặc là tinh gọn bộ máy đảng sẽ
tạo nguy cơ làm suy yếu năng lực lãnh đạo
của Đảng, vấn đề có ý nghĩa lý luận và nhận
thức cần quán triệt là Đảng chỉ có thể thực
hiện tốt và đúng đắn vai trò lãnh đạo của
mình khi thật sự có được bộ máy nhà nước
mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Do
vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây
dựng, củng cố bộ máy nhà nước đề cao vai
trò, trách nhiệm của bộ máy nhà nước trong
việc tổ chức thực hiện đường lối chính trị
của Đảng. Trong vai trò là Đảng duy nhất
cầm quyền, một mặt, Đảng tăng cường sử
dụng bộ máy nhà nước trong việc tham
mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách,
thẩm định, phản biện các dự thảo, các đề
xuất về chủ trương, chính sách trước khi các
cơ quan đảng có thẩm quyền xem xét, quyết
định. Mặt khác, các cơ quan thuộc bộ máy
đảng cần tập trung vào công tác xây dựng
Đảng, tham mưu cho Đảng, các cấp ủy đảng
về các vấn đề thuộc công tác xây dựng Đảng
và những vấn đề thuộc quyền lãnh đạo tuyệt
đối và toàn diện của Đảng. Dĩ nhiên trong
quá trình thực hiện chức năng tham mưu cho
các cấp ủy đảng, các cơ quan trong bộ máy
đảng luôn phải phối hợp với các cơ quan
nhà nước nhưng không thực hiện các công
việc thuộc quyền quản lý điều hành của
các cơ quan nhà nước, đảm bảo cho các cơ
quan nhà nước thực hiện đúng thẩm quyền,
chức năng của mình theo các quy định của
pháp luật.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 19(395) T10/2019
Về phương diện lý luận, Quốc hội chịu
sự lãnh đạo của Đảng, song Đảng không thể
làm thay công việc của Quốc hội. Quan hệ
giữa Đảng với Quốc hội không phải là quan
hệ cấp trên và cấp dưới, do đó, tổ chức đảng
không áp đặt ý chí của mình cho Quốc hội.
Đảng định hướng về chính sách, giới thiệu
cán bộ ứng cử, Quốc hội thảo luận và thông
qua các đạo luật, nghị quyết theo trình tự
luật định. Tính chất mối quan hệ giữa Đảng
với Quốc hội thể hiện quan hệ đặc thù giữa
Đảng chính trị với cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, luôn thể hiện ý chí, nguyện
vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc
hội càng có nhiều đặc thù so với sự lãnh đạo
của Đảng đối với Chính phủ hoặc đối với
các cơ quan tư pháp. Sự đặc thù này được
thể hiện thông qua phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Quốc hội. Theo đó, Đảng
lãnh đạo Quốc hội bằng các đường lối, chủ
trương, chính sách được thể hiện tại Cương
lĩnh, các nghị quyết và các văn kiện khác
của Đảng. Đồng thời, Đảng lãnh đạo Quốc
hội bằng các hình thức tổ chức, thông qua
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các tổ chức Đảng
được thành lập tại Quốc hội như Đảng đoàn
Quốc hội, các tổ đảng tại Hội đồng dân tộc,
các ủy ban của Quốc hội, các tổ đảng đoàn
đại biểu Quốc hội và các đảng viên là đại
biểu Quốc hội.
Sự đặc thù trong mối quan hệ giữa
Đảng và Quốc hội còn được thể hiện rõ nét
trong sự tác động trở lại của hoạt động Quốc
hội đối với sự lãnh đạo của Đảng. Là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội khi
thảo luận và thông qua các đạo luật, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao tác động rất lớn đến việc điều
chỉnh chính sách, chủ trương của Đảng, đặc
biệt là những chính sách, chủ trương chưa
thuận lòng dân, “ý đảng”, nhưng chưa phải
“lòng dân”. Đảng lắng nghe sự thảo luận của
các đại biểu về các chính sách pháp luật, trên
cơ sở đó điều chỉnh chính sách để đảm bảo
“ý đảng”, “lòng dân” trong từng quyết định
của Quốc hội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính
phủ có ý nghĩa đặc biệt, với Chính phủ là
cơ quan có trách nhiệm khởi sự, chủ trì đề
xuất và xây dựng nhiều chính sách quốc gia
trình các có quan có thẩm quyền của Đảng
để xem xét quyết định trong điều kiện xây
dựng một Chính phủ kiến tạo với các chuẩn
mực của chế độ pháp quyền, đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với Chính phủ đang là một
đòi hỏi có tính khách quan. Sự đổi mới đó
một mặt tiếp tục nâng cao hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
Chính phủ vừa tạo cho Chính phủ chủ động,
linh hoạt và sáng tạo trong các hoạt động
quản trị quốc gia.
- Đối với Chính phủ, cần xác định rõ
thẩm quyền đề xuất và quyết định chính sách
giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính
phủ, các loại việc phân công quyết định giữa
các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư với Chính phủ; xác định những
loại việc ở tầm Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quyết
định; loại việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho
ý kiến để Chính phủ quyết định; và loại việc
Chính phủ chủ động quyết định. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lãnh đạo Chính phủ
thông qua tổ chức đảng (Ban cán sự đảng)
và đảng viên, trực tiếp là người đứng đầu
Chính phủ (Thủ tướng Chính phủ). Do vậy,
cần quy định rõ hơn mối quan hệ công tác
giữa Thủ tưởng, các Phó thủ tướng và Ban
cán sự đảng Chính phủ để tránh sự trùng lặp.
Đồng thời, không cần thiết phải lập Ban cán
sự đảng tại các Bộ để đảm bảo sự lãnh đạo
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối
với các Bộ, vì dã có Ban cản sự đảng Chính
phủ, có nhiều uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên
Trung ương là Thủ tướng, Phó Thủ tướng và
thành viên Chính phủ.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 19(395) T10/2019
- Trong các quan hệ kiểm soát quyền
lực, cần tiếp tục đổi mới, tăng cường công
tác giám sát, kiểm tra của Đảng đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước, trong việc thực
hiện đường lối, chính sách và các nghị quyết
của Đảng trên tất các lĩnh vực của đời sống
xã hội; có các giải pháp nâng cao trách nhiệm
kiểm tra, năng lực kiểm tra, giám sát của các
cấp uỷ đảng, của người đứng đầu các cấp uỷ
đảng đối với các tổ chức đảng, các cơ quan,
tổ chức nhà nước trong việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ quan, tổ chức.
Đồng thời, cần đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống các uỷ ban kiểm tra
đảng, các cơ quan thanh tra nhà nước theo
hướng mở rộng thẩm quyền, cơ cấu lại tổ
chức và phương thức hoạt động; đa dạng
hoá các hình thức kiểm tra, giám sát đảm
bảo công tác kiểm tra, giám sát vừa thường
xuyên vừa có trọng tâm, trọng điểm, đảm
bảo thực hiện nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng,
pháp luật của Nhà nước, không gây cản trở,
phiền hà cho các đối tượng được kiểm tra;
đồng thời chủ động phát hiện các vi phạm
kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
xử lý kiên quyết và đích đáng những cán
bộ, đảng viên có hành vi vi phạm kỷ luật
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở bất kỳ
cương vị nào.
Trong nhận thức và nghiên cứu lý
luận về kiểm soát quyền lực, cần phải khắc
phục quan điểm cho rằng kiểm soát quyền
lực chỉ có thể khả thi trong cơ chế chính trị
có đảng đối lập như ở các nước tư bản chủ
nghĩa và chỉ khi cần thiết khi quyền lực thật
sự được phân quyền và đối trọng. Nhận thức
này không thực sự chính xác, thiếu cơ sở,
trái với nguyên lý ở đâu có thực thi quyền
lực, ở đó có kiểm soát quyền lực thì ở đó
mới có tự do và dân chủ. Kiểm soát quyền
lực là yêu cầu tự thân của mọi nền dân chủ
trong đó bao gồm cả nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và trưởng
thành. Do vậy, trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền lãnh đạo nhà nước ở nước
ta, sự kiểm soát quyền lực cũng hết sức cần
thiết và thật sự khả thi. Sự khả thi được thể
hiện không chỉ ở chỗ Đảng lãnh đạo mà còn
đồng thời Đảng cũng là một chủ thể kiểm
soát việc thực thi quyền lực của các cơ quan
nhà nước với vị thế, tính chất cầm quyền.
Sự kiểm soát của Đảng đối với việc thực thi
quyền lực nhà nước không thay thế sự kiểm
soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước và
do vậy luôn luôn cần thiết trong mọi quá
trình thực hiện quyền lực theo ủy quyền của
nhân dân. Vì vậy, trong vai trò là Đảng duy
nhất cầm quyền, một mặt Đảng phải tăng
cường sự kiểm tra, giám sát của mình đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, đảm bảo các cơ quan nhà nước luôn
quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối
chính trị của Đảng, phụng sự ý chí, lợi ích
của nhân dân; mặt khác, Đảng phải tạo dư
luận, tạo cơ chế để các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền
tư pháp. Chủ động, sáng tạo và linh hoạt
trong các mối quan hệ kiểm soát lẫn nhau.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng
cao chất lượng kiểm soát quyền lực, đề cao
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhân dân giao phó.
Đối với Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước nói chung, đối với việc
kiểm soát quyền lực nói riêng, không chỉ tập
trung kiểm soát việc thực hiện quyền, chống
độc quyền quyền lực, tha hóa, lạm quyền,
mà còn phải chú trọng giám sát việc thực
hiện trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
trước xã hội, trước cộng đồng doanh nghiệp
và trước nhân dân. Kiểm soát trách nhiệm,
nghiêm túc truy cứu trách nhiệm đối với việc
thực hiện các nghĩa vụ trước xã hội, trước
nhân dân từ phía các cơ quan của Quốc hội,
cơ quan Chính phủ và đội ngũ cán bộ, công
chức cần được Đảng đặc biệt quan tâm trong
việc thực hiện mục tiêu “nhốt quyền lực vào
trong lồng cơ chế”
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 19(395) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_quan_he_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc.pdf