3.4 Sửa đổi quy định về điều kiện để có thể
hạn chế quyền cha mẹ, người chăm sóc trẻ em
Nhằm bảo đảm tránh sự chồng chéo,
mâu thuẫn trong quy định về điều kiện để có
thể hạn chế quyền cha mẹ, người chăm sóc
trẻ em, cần sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng:
“Trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị xâm hại đã
được hỗ trợ, can thiệp nhưng chưa bảo đảm
an toàn; trẻ em bị xâm hại nhưng cha, mẹ,
người chăm sóc trẻ em từ chối thực hiện
kế hoạch” thì áp dụng biện pháp “hạn chế
quyền của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em”;
trường hợp “trẻ em bị xâm hại, có nguy cơ
bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi bởi cha, mẹ, người
chăm sóc trẻ em” thì áp dụng biện pháp
“tạm thời cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ, người
chăm sóc hoặc áp dụng biện pháp chăm sóc
thay thế.”
3.5 Bổ sung quy định về bảo đảm trẻ em
không bị cha mẹ, người chăm sóc bạo lực,
bóc lột và bỏ rơi, bỏ mặc
Nhằm bảo vệ trẻ em, kịp thời ngăn
chặn các hành vi xâm hại đặc biệt trong gia
đình, trường học, cần bổ sung quy định về
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân trong việc “kiểm tra, giám sát”
hoạt động CS,ND trẻ em. Cụ thể, “cơ quan,
tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát hoạt động CS,ND trẻ em
và các trường hợp trẻ em có nguy cơ bị xâm
hại để nhằm phát hiện, hỗ trợ kịp thời và hạn
chế trường hợp trẻ em bị xâm hại”
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG CỦA TRẺ EM
Tóm tắt:
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em là một quyền rất
quan trọng, được ghi nhận trong Luật Trẻ em năm 2016. Để bảo
đảm các quyền nêu trên của trẻ em, cần tiếp tục hoàn thiện quy
định của pháp luật về trẻ em.
Huỳnh Thị Cẩm Hồng*
* ThS. Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
Abstract
The children’s right to be raised is a very important right, recorded
in the Law on Children of 2016. In order to ensure further effeciency
of the above right of children, it is necessary to continue reviewing
for further improvements of the provisions of the law on children.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Trẻ em năm 2016,
quyền trẻ em, quyền được chăm sóc,
nuôi dưỡng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/07/2018
Biên tập : 29/07/2019
Duyệt bài : 01/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Law on Children of 2016;
right of the child; right to be raised.
Article History:
Received : 13 Jul. 2019
Edited : 29 Jul. 2019
Approved : 01 Aug. 2019
1. Nội dung của quyền được chăm sóc,
nuôi dưỡng của trẻ em
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
(CS,ND) của trẻ em là khả năng của trẻ em
được hưởng những điều kiện cần thiết về vật
chất và tinh thần trong sự săn sóc ân cần,
chu đáo để lớn lên bình thường và phát triển
toàn diện.
Trẻ em phải được bảo đảm chế độ dinh
dưỡng hợp lý
Chế độ dinh dưỡng hợp lý cung cấp
cho trẻ em điều kiện phát triển một thể lực
và trí lực bình thường và toàn diện. Đây là
một trong những yêu cầu và điều kiện tiên
quyết của quyền. Yêu cầu này đòi hỏi, trẻ
em phải được thụ hưởng một chế độ ăn
uống bảo đảm đủ năng lượng và đủ chất
dinh dưỡng dựa trên nhu cầu của từng giai
đoạn phát triển. Chế độ ăn đủ năng lượng và
dinh dưỡng phải dựa trên sự nghiên cứu về
dưỡng chất và hàm lượng kcal chứa trong
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 14(390) T7/2019
thức ăn nạp vào cơ thể trẻ em mỗi ngày1, đặc
biệt trẻ em phải được bú sữa mẹ trong giai
đoạn đầu đời (đến 24 tháng tuổi). Khoản 2
Điều 98 Luật Trẻ em năm 2016 quy định:
“Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em có trách
nhiệm bảo đảm chế độ dinh dưỡng phù hợp
với sự phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ
em theo từng độ tuổi”. Về cơ bản, cha mẹ,
người chăm sóc trẻ em là chủ thể có trách
nhiệm đầu tiên, chính yếu. Tuy nhiên, vấn
đề này còn phụ thuộc vào phương diện văn
hóa, truyền thống, tập quán nơi mà trẻ sinh
ra và lớn lên, hơn hết là khả năng kinh tế, ý
thức và sự tự giác của cha mẹ, người chăm
sóc trẻ.
Trẻ em phải được bảo đảm chỗ ở phù hợp
Yêu cầu này đòi hỏi trẻ em phải được
bảo đảm một nơi để sinh sống, phát triển và
bảo vệ phẩm giá. Nơi để sống không chỉ đơn
thuần được hiểu là một nơi mà trẻ trú ngụ
có mái che trên đầu, mà đó là chỗ ở an toàn,
bình yên và xứng đáng với phẩm giá trẻ em.
Chỗ ở có nhiều loại hình: nhà ở thuê mướn,
nhà thuộc sở hữu, nhà tạm thời, nhà tập thể,
trại tị nạn, trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở
trợ giúp trẻ em... Chỗ ở phù hợp có nghĩa
là, phải có sẵn, đáp ứng cho trẻ em tương
ứng theo hoàn cảnh và được chi trả ở mức
hợp lý phù hợp với khả năng của gia đình
trẻ em. Quyền này không nên hiểu một cách
rập khuôn và cứng nhắc là: mọi trẻ em phải
có chỗ ở giống nhau, mà tùy theo hoàn cảnh
của từng trẻ mà bảo đảm chỗ ở cho phù hợp.
Ví dụ, trẻ em phải được cùng ở với cha mẹ
trong căn nhà thuộc sở hữu hợp pháp, hoặc
được ở chỗ ở khác thay thế khác như: trung
tâm bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em
chẳng hạn.
Trẻ em phải được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng
Nói tới CS, ND trẻ em là nói tới vai
trò, trách nhiệm trực tiếp, trước nhất của cha
mẹ. Trẻ em được cha mẹ CS,ND được hiểu
là trẻ em phải được sống và lớn lên trong
1 Xem Nguyễn Công Khẩn, Phạm Văn Hoan (2006), Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nxb. Y học
Hà Nội, tr 98.
sự yêu thương, nuôi nấng, bao bọc và dạy
dỗ của cha mẹ. Vì đó là sự CS, ND tốt nhất.
Trong môi trường gia đình, trẻ mới có điều
kiện phát triển toàn diện. Cha mẹ có thể là
cha mẹ ruột hoặc cha mẹ nuôi. Điều này là
phù hợp với truyền thống đạo đức của dân
tộc và chuẩn mực pháp lý quốc tế. Nguyên
tắc 6 của Tuyên bố của Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em năm 1989 (CRC) khẳng định:
“Vì sự phát triển đầy đủ và đồng bộ về nhân
cách, trẻ cần có sự yêu thương và hiểu biết.
Ở bất cứ đâu có thể, trẻ sẽ lớn lên trong sự
chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ, và
trong bất cứ trường hợp nào phải được chăm
sóc trong bầu không khí yêu thương và an
toàn về vật chất và tinh thần, trẻ trong thời
kỳ được chăm sóc sẽ không, trừ trường hợp
đặc biệt, tách khỏi mẹ của trẻ”.
Trong mọi trường hợp, trẻ em không
bao giờ bị tước bỏ quyền được yêu thương,
CS,ND của cha mẹ. Tuy nhiên, quyền được
cha mẹ CS,ND không hiểu một cách rập
khuôn, máy móc là bắt buộc cha mẹ phải
sống chung trẻ em mà bỏ qua lợi ích tốt nhất
của trẻ. Tùy theo hoàn cảnh mà yêu cầu này
được thực hiện khác nhau. Cụ thể, nếu trẻ
em không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không
thể, không muốn thực hiện nghĩa vụ CS,ND
thì phải tạo điều kiện cho trẻ em được
CS,ND thay thế bởi cha mẹ nuôi, người thân
khác trong gia đình hoặc sự chăm sóc thay
thế. Quyền này còn được hiểu là sự hạn chế
quyền của cha mẹ đối với trẻ em, cách ly cha
mẹ với trẻ em khi cha mẹ vi phạm nghĩa vụ
CS,ND trẻ em, để bảo đảm sự CS,ND của
cha mẹ là tốt nhất.
Trẻ em không bị cha mẹ, người chăm sóc
bạo lực, bóc lột hoặc bỏ rơi, bỏ mặc
Yêu cầu này được hiểu là trẻ em được
bảo vệ chống lại các hành vi bạo lực, bóc
lột hoặc bỏ rơi, bỏ mặc bởi người trực tiếp
nuôi dưỡng mình. Hoạt động CS,ND của trẻ
em được thực hiện bởi cha mẹ, người chăm
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 14(390) T7/2019
sóc trẻ em trong môi trường gia đình, trường
học nên cha mẹ, người CS,ND là những
người có điều kiện nhất để thực hiện hành vi
nêu trên. Điều 19 CRC2 quy định “các quốc
gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện
pháp... để bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức
bạo lực về thân thể hoặc tinh thần, bị tổn
thương hay lạm dụng, bị bỏ mặc hay chăm
sóc sao nhãng, bị ngược đãi hay bóc lột gồm
cả lạm dụng tình dục ngay khi trẻ em nằm
trong vòng chăm sóc của cha mẹ, cha lẫn
mẹ, một hoặc nhiều người giám hộ pháp lý
hoặc bất cứ ai được giao việc chăm sóc trẻ
em”. Bất cứ một sự tổn hại nào từ hành vi
bạo lực, bóc lột, bỏ mặc, bỏ rơi của cha mẹ,
người chăm sóc trẻ em cũng gây ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến thể chất và tinh thần
của trẻ, ảnh hưởng chất lượng hoạt động
CS,ND trẻ em.
2. Quy định pháp luật về quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em
2.1 Quy định pháp luật về bảo đảm chế độ
dinh dưỡng cho trẻ em
Trong những yêu cầu về bảo đảm chế
độ dinh dưỡng thì quyền bú sữa mẹ là nội
dung quan trọng nhất. Sữa mẹ là tốt nhất cho
sức khỏe của trẻ em trong giai đoạn đầu đời
(đến 24 tháng tuổi). Sữa mẹ bảo đảm cho trẻ
nhỏ chế độ dinh dưỡng, phòng chống suy
dinh dưỡng và tăng cường sức đề kháng.
Điều 3 Nghị định 100/2014/NĐ-CP ngày
6/11/2014 của Chính phủ quy định về kinh
doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng cho
trẻ nhỏ, bình bú và vú ngậm nhân tạo yêu cầu:
trong chương trình thông tin, giáo dục, truyền
thông về bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, về
cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở trẻ nhỏ cần
phải “thông tin, giáo dục, truyền thông về lợi
ích của việc nuôi trẻ bằng sữa mẹ”. Quy định
này nhằm bảo đảm sự tác động đến nhận thức
của cha mẹ, người chăm sóc trẻ về tầm quan
trọng của sữa mẹ cũng như phương pháp nuôi
dưỡng trẻ nhỏ tốt nhất.
2 Convention on the Rights of the Child 1989.
3 Khoản 2 Điều 4 Nghị định 100/2014/NĐ-CP
4 Điều 6 Nghị định 100/2014/NĐ-CP
Bên cạnh đó, Nghị định còn yêu cầu
các tài liệu thông tin, giáo dục về nuôi dưỡng
trẻ nhỏ phải “khẳng định sữa mẹ là thức ăn
tốt nhất cho sức khoẻ và sự phát triển toàn
diện của trẻ nhỏ; sự bất lợi khi không nuôi
trẻ bằng sữa mẹ”3 và nghiêm cấm “quảng
cáo sữa dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, thức
ăn dùng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi, bình bú
với đầu vú nhân tạo và núm vú giả dưới mọi
hình thức. Việc quảng cáo các loại thức ăn
bổ sung dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi phải
có nội dung: "Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho
sức khoẻ và sự phát triển toàn diện của trẻ
nhỏ”4. Chế tài đối với hành vi vi phạm quy
định này được quy định tại điểm c khoản
1 Điều 50 Nghị định số 158/2013/NĐ-CP
của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao,
du lịch và quảng cáo. Theo đó, phạt tiền từ
40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối
với những hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều
lý do mà các bà mẹ không cho con bú, trẻ
em mồ côi, hoặc các bà mẹ không có sữa mà
pháp luật chưa có quy định cách thức, biện
pháp hỗ trợ.
2.2 Quy định pháp luật về bảo đảm chỗ ở
phù hợp cho trẻ em
Pháp luật hiện hành chưa có quy định
về biện pháp hỗ trợ hoặc ưu đãi đối với hộ
gia đình, cá nhân nuôi dưỡng trẻ em được
mua nhà ở xã hội. Điều 49 Luật Nhà ở năm
2014 liệt kê các đối tượng được hưởng chính
sách hỗ trợ về nhà ở xã hội gồm: “Người có
công với cách mạng; hộ gia đình nghèo hoặc
cận nghèo ở khu vực nông thôn; người lao
động đang làm việc trong và ngoài khu công
nghiệp; cán bộ, công chức, viên chức; các
đối tượng đã trả lại nhà ở công vụ” nhưng
không có đối tượng là hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em. Ngoài ra, tại
khoản 2 Điều 16 Thông tư số 19/2016/BXD
của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 14(390) T7/2019
số nội dung của Luật Nhà ở và Nghị định số
99/2015/NĐ-CP của Chính phủ có quy định
về tiêu chí chấm điểm để ưu tiên xét duyệt
đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở
xã hội cũng không có tiêu chí chấm điểm
cho hộ gia đình, cá nhân có trẻ em.
Bên cạnh đó, trường hợp cha mẹ, người
CS,ND trẻ em có chỗ ở hợp pháp nhưng
thuộc diện phải di dời, thu hồi nhưng pháp
luật hiện hành cũng không có quy định biện
pháp ưu đãi, hỗ trợ. Cụ thể, điểm a khoản
1 Điều 79 Luật Đất đai năm 2013 quy định
“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở có
đủ điều kiện được bồi thường theo quy định
của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất thì
được bồi thường như sau: trường hợp không
còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã,
phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được
bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở, trường
hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất
ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng
tiền”; “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy
định của Luật còn được Nhà nước xem xét
hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu
hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân” (điểm
c khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013).
Như vậy, trong trường hợp hộ gia đình,
cá nhân CS,ND trẻ em có đất bị Nhà nước
thu hồi, có đủ điều kiện được bồi thường mà
không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa
bàn xã, phường, thị trấn, chọn phương án
bồi thường bằng tiền thì trẻ em sẽ rơi vào
cảnh không còn chỗ ở.
2.3 Quy định pháp luật về trách nhiệm cha
mẹ CS,ND trẻ em
Trẻ em phải được sống chung với cha
mẹ - đó không những là quyền của trẻ em
mà còn là nghĩa vụ của cha mẹ, tuy nhiên,
được sống chung với cha mẹ không đồng
nghĩa là được cha mẹ CS,ND. Vì vậy, Điều
22 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền
được sống chung với cha, mẹ; được cả cha
và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Khoản
3 Điều 52 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em
bị xâm hại, có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột,
bỏ rơi bởi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em;
trẻ em bị xâm hại đã được hỗ trợ, can thiệp
nhưng chưa bảo đảm an toàn; trẻ em bị xâm
hại nhưng cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em
từ chối thực hiện kế hoạch thì Cơ quan lao
động - thương binh và xã hội cấp huyện
yêu cầu Tòa án cùng cấp ra quyết định hạn
chế quyền của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ
em hoặc tạm thời cách ly trẻ em khỏi cha,
mẹ, người chăm sóc và áp dụng biện pháp
chăm sóc thay thế”. Quy định này không
thống nhất, mâu thuẫn với quy định trong
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (HN&GĐ
2014), bởi lẽ, Điều 86 Luật HN&GĐ 2014
quy định quyền yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ với con chưa thành niên
gồm “cha, mẹ, người giám hộ; người thân
thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên
hiệp phụ nữ”.
Ngoài ra, điều kiện để hạn chế quyền của
cha mẹ đối với con chưa thành niên được quy
định tại khoản 1 Điều 85 Luật HN&GĐ 2014
“Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
với lỗi cố ý” và “có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ trông nom, CS,ND, giáo dục
con” mới đủ điều kiện để hạn chế quyền là
điều không thể chấp nhận được, vì khi đó trẻ
em sẽ rơi vào hoàn cảnh rất nguy hiểm đến
tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm. Trong khi
đó, theo Luật Trẻ em 2016, chỉ cần “trẻ em bị
xâm hại, có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi
bởi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em” thì cha
mẹ đã bị hạn chế quyền.
2.4 Quy định pháp luật bảo đảm trẻ em
không bị cha mẹ, người chăm sóc bạo lực,
bóc lột hoặc bỏ rơi, bỏ mặc
Ở nước ta, để thực thi CRC, tạo cơ sở
bảo vệ, ngăn chặn và loại trừ các hành vi
xâm hại trẻ em, khoản 1 Điều 37 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc
lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em”. Luật Trẻ em quy định
trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân
phẩm, danh dự của trẻ em là của “cha, mẹ,
giáo viên, người chăm sóc trẻ em và các
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 14(390) T7/2019
thành viên trong gia đình”5. Theo đó, những
người này có trách nhiệm “phát hiện, tố giác,
thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền các hành vi xâm hại trẻ em”.
Tuy nhiên, trên thực tế, trẻ em có khả
năng bị bóc lột, bạo lực và bỏ rơi, bỏ mặc
bởi chính cha mẹ, giáo viên, thành viên gia
đình là rất cao. Vì vậy, bên cạnh trách nhiệm
của những chủ thể nêu trên, Điều 51 Luật
Trẻ em quy định trách nhiệm cung cấp thông
tin cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố
giác hành vi xâm hại trẻ em tại là của “cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách
nhiệm thông tin, thông báo, tố giác hành vi
xâm hại trẻ em, trường hợp trẻ em bị xâm
hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ
rơi đến cơ quan có thẩm quyền”. Cơ quan
lao động - thương binh và xã hội, cơ quan
công an các cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã
có trách nhiệm “tiếp nhận, xử lý thông tin,
thông báo, tố giác; phối hợp xác minh, đánh
giá, điều tra”.
Những quy định trên đã tạo nên mạng
lưới bảo vệ trẻ em từ gia đình, trường học và
xã hội. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn
còn thiếu quy định về trách nhiệm của chủ
thể trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động
CS,ND trẻ em để phát hiện các hành vi xâm
hại trẻ em bởi cha mẹ, người trực tiếp chăm
sóc trẻ em, dù điều này sẽ góp phần hỗ trợ
ngăn chặn, phát hiện kịp thời các hành vi
xâm hại trẻ em, loại bỏ suy nghĩ “nuôi dạy
trẻ em là việc riêng của mỗi gia đình”.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật về quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng của trẻ em
3.1 Bổ sung “Quyền trẻ em” trong Hiến pháp
Mặc dù Việt Nam là một trong những
quốc gia phê chuẩn và trở thành thành viên
của CRC sớm nhất nhưng tới thời điểm này,
“Quyền trẻ em” vẫn chưa được ghi nhận
trong Hiến pháp như là nghĩa vụ của Nhà
nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
thực hiện. Quyền trẻ em chính là quyền con
người áp dụng cho người dưới 16 tuổi (theo
5 Điều 100 Luật Trẻ em 2016
6 Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013
pháp luật Việt Nam). Tuy nhiên, Điều 37
Hiến pháp 2013 chỉ quy định “Nghiêm cấm
xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm
dụng, bóc lột sức lao động và những hành
vi khác vi phạm quyền trẻ em”6 mà chưa đề
cập đến các quyền căn bản khác của trẻ em.
Vì vậy, việc bổ sung quy định “Nhà nước
tôn trọng và bảo đảm cho các quyền trẻ em”
trong Hiến pháp là điều hợp lý và phù hợp,
thể hiện sự thái độ nghiêm túc của Nhà nước
trong việc tôn trọng quyền trẻ em, thể hiện
sự cam kết chắc chắn về việc bảo đảm thực
hiện quyền trẻ em ở Việt Nam.
3.2 Bổ sung quy định về bảo đảm nguồn
sữa mẹ cho trẻ em
Bảo đảm cho trẻ em được nuôi bằng
sữa mẹ trong giai đoạn đầu đời rất quan
trọng, đòi hỏi Nhà nước không những tác
động đến cơ sở sản xuất, phân phối sản phẩm
dinh dưỡng thay thế sữa mẹ, mà còn phải tác
động trực tiếp đến nhận thức của cộng đồng,
gia đình đặc biệt là người mẹ. Chúng tôi cho
rằng, pháp luật cần quy định biện pháp, cách
thức huy động “nguồn sữa dự trữ” để hỗ trợ
khi cần thiết, ví dụ: trẻ em mồ côi, trẻ em bị
bỏ rơi hoặc khi người mẹ không có sữa...
3.3 Bổ sung quy định về bảo đảm chỗ ở cho
trẻ em
Để bảo đảm quyền được có chỗ ở của
trẻ em, cần bổ sung quy định “trẻ em có
quyền được có chỗ ở, được bảo đảm chỗ ở an
toàn”. Bên cạnh đó, cần bổ sung trách nhiệm
của Nhà nước và cha mẹ, người nuôi dưỡng
bảo đảm chỗ ở cho trẻ em theo hướng: “Nhà
nước và cha mẹ, người nuôi dưỡng trẻ em có
trách nhiệm bảo đảm chỗ ở an toàn cho trẻ
em” vào Luật Trẻ em.
Sửa đổi quy định của điểm c khoản 2
Điều 83 Luật Đất đai theo hướng “xem xét
trường hợp trẻ em thuộc hộ gia đình, cá nhân
có đất bị thu hồi nhưng chưa được bố trí tái
định cư được xét duyệt học tại trường trên
cùng địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất
bị thu hồi”.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 14(390) T7/2019
Sửa đổi Điều 49 Luật Nhà ở về các đối
tượng được hưởng chính sách hỗ trợ mua
nhà ở xã hội theo hướng đề bổ sung thêm
“hộ gia đình, cá nhân trực tiếp nuôi dưỡng
trẻ em” được hưởng chính sách hỗ trợ mua
nhà ở xã hội.
3.4 Sửa đổi quy định về điều kiện để có thể
hạn chế quyền cha mẹ, người chăm sóc trẻ em
Nhằm bảo đảm tránh sự chồng chéo,
mâu thuẫn trong quy định về điều kiện để có
thể hạn chế quyền cha mẹ, người chăm sóc
trẻ em, cần sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng:
“Trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị xâm hại đã
được hỗ trợ, can thiệp nhưng chưa bảo đảm
an toàn; trẻ em bị xâm hại nhưng cha, mẹ,
người chăm sóc trẻ em từ chối thực hiện
kế hoạch” thì áp dụng biện pháp “hạn chế
quyền của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em”;
trường hợp “trẻ em bị xâm hại, có nguy cơ
bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi bởi cha, mẹ, người
chăm sóc trẻ em” thì áp dụng biện pháp
“tạm thời cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ, người
chăm sóc hoặc áp dụng biện pháp chăm sóc
thay thế.”
3.5 Bổ sung quy định về bảo đảm trẻ em
không bị cha mẹ, người chăm sóc bạo lực,
bóc lột và bỏ rơi, bỏ mặc
Nhằm bảo vệ trẻ em, kịp thời ngăn
chặn các hành vi xâm hại đặc biệt trong gia
đình, trường học, cần bổ sung quy định về
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân trong việc “kiểm tra, giám sát”
hoạt động CS,ND trẻ em. Cụ thể, “cơ quan,
tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát hoạt động CS,ND trẻ em
và các trường hợp trẻ em có nguy cơ bị xâm
hại để nhằm phát hiện, hỗ trợ kịp thời và hạn
chế trường hợp trẻ em bị xâm hại”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyên bố Giơnevơ về Quyền trẻ em năm 1924;
2. Tuyên ngôn Đại hội đồng Liên hiệp quốc về các Quyền của trẻ em năm 1959;
3. Công ước quốc tế Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1989;
4. Hiến pháp năm 2013;
5. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Luật số 25/2004/QH11) ngày 15/6/2004;
6. Luật Đất đai (Luật số 45/2013/QH13)ngày 29/11/2013;
7. Luật Nhà ở (Luật số 65/2014/QH13) ngày 25/11/2014;
8. Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật số 52/2014/QH13) ngày 19/06/2014;
9. Luật Trẻ em (Luật số 102/2016/QH13) ngày 05/4/2016;
10. Nguyễn Như Ý, Đại Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin Hà Nội, 1998;
11. Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nguyễn Đăng Dung, Vũ
Công Giao, Lả Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2009;
12. ALFHILD PETRÉN và ROGER HART, “Quyền được phát triển của trẻ em”, Quyền trẻ em – Biến
nguyên tắc thành hành động, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005;
13. Nguyễn Công Khẩn, Phạm Văn Hoan, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nxb. Y
học, Hà Nội, 2006;
14. Nghị định 144/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ,
chăm sóc trẻ em;
15. Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao,
du lịch và quảng cáo;
16. Nghị định 100/2014/NĐ-CP quy định về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, bình
bú và vú ngậm nhân tạo;
17. Thông tư số 19/2016/BXD của Bộ Xây dựng ngày 30/6/2016 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của
Luật Nhà ở và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở năm
2014;
18. Quyết định số 548/QĐ-LĐTBXH ngày 06/5/2011 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
về Ban hành tiêu chí ngôi nhà an toàn phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em;
19. Báo cáo số 59/BC-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về Tổng kết đánh giá 10 năm
thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2015.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 14(390) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_quyen_duoc_cham_soc_nuoi_duong_cua_t.pdf