Hoàn thiện quy định về quyền
thương lượng tập thể
Pháp luật hiện hành đã quy định nội
dung thương lượng tập thể chung bao gồm
cả thương lượng tập thể cấp doanh nghiệp và
cấp ngành. Tuy nhiên, do đặc thù mỗi doanh
nghiệp khác nhau, mỗi cấp thương lượng tập
thể khác nhau sẽ có những nội dung khác
nhau. Chính vì vậy, pháp luật cần quy định
rõ nội dung thương lượng tập thể theo phạm
vi cấp độ của thương lượng tập thể.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng
chưa quy định các nội dung thương lượng
tập thể mang tính chuyên sâu theo từng
nhóm lĩnh vực. Chính vì vậy, pháp luật cần
bổ sung nội dung thương lượng tập thể mang
tính chuyên biệt như: các nội dung thương
lượng tập thể về lương, về an toàn, vệ sinh
lao động, về bảo đảm các điều kiện lao động
của doanh nghiệp hay thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động khi thực thi CPTPP, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO LIÊN KẾT
VÀ THƯƠNG LƯỢNG TẬP THỂ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI THỰC THI CPTPP
Tóm tắt:
Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể được xem là một
nhóm quyền giữ vai trò quan trọng của người lao động trong quan
hệ lao động. Với tư cách là một nhóm quyền về kinh tế xã hội và
văn hóa được quy định trong hành lang pháp lý quốc tế, quyền tự
do liên kết và thương lượng tập thể được pháp luật các quốc gia
ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Về cơ bản, pháp luật lao động Việt
Nam về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể vẫn còn nhiều
điểm chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, để thực thi Hiệp định đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Việt Nam cần hoàn thiện hành
lang pháp lý điều chỉnh về vấn đề này.
* TS. Trưởng khoa Luật Kinh tế - Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Đào Mộng Điệp*
Abstract
Freedom of association and collective bargaining are seen as
a group of rights that play an important role in labor relations.
As a group of socio-economic and cultural rights enshrined in
the international legal framework, freedom of association and
collective bargaining are recognized and guaranteed by the laws of
the countries. Basically, the Vietnamese labor law on freedom of
association and collective bargaining has initially met international
labor standards. However, in the current period, in order to meet
the requirements set by Vietnam in implementing the CPTPP, the
solution needed to improve the regulatory corridor on this issue.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương(CPTPP),
quyền tự do liên kết, thương lượng tập
thể, pháp luật, lao động.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/01/2019
Biên tập : 27/02/2019
Duyệt bài : 01/03/2019
Article Infomation:
Keywords: CPTPP, freedom of
association, bargaining, law, labor.
Article History:
Received : 18 Jan. 2019
Edited : 27 Feb. 2019
Approved : 01 Mar. 2019
1. Pháp luật lao động Việt Nam về quyền
tự do liên kết và thương lượng tập thể
1.1 Quy định về quyền tự do liên kết
Quyền tự do liên kết hay quyền tổ
chức là một loại quyền đặc biệt của người
lao động (NLĐ). Quyền này được xem là
nhu cầu lợi ích tự nhiên mang tính khách
quan gắn liền với NLĐ. Quyền tự do liên kết
là loại quyền phát sinh, gắn liền với quan hệ
lao động (QHLĐ) nhằm cân bằng vị thế của
tập thể lao động và người sử dụng lao động
(NSDLĐ).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 5(381) T3/2019
Về cơ bản, pháp luật lao động Việt
Nam quy định quyền tự do liên kết của NLĐ
dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, thừa nhận quyền tự do liên
kết là một loại quyền gắn liền với NLĐ khi
tham gia vào QHLĐ
Theo đó, NLĐ được quyền tự nguyện
thành lập và gia nhập hoạt động của tổ chức
công đoàn Việt Nam. Pháp luật ghi nhận chủ
thể có quyền thành lập tổ chức công đoàn bao
gồm: “NLĐ là người Việt Nam làm việc trong
các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp có quyền
thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn”1.
Thứ hai, pháp luật quy định về nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức công
đoàn
Tổ chức công đoàn được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Công
đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều
lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Tổ chức công đoàn
có cơ cấu gồm: Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy
định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Công
đoàn cơ sở được tổ chức trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
1 Khoản 1 Điều 5 Luật Công đoàn.
2 Điều 189 Bộ luật Lao động.
3 Điều 192. Trách nhiệm của NSDLĐ đối với tổ chức công đoàn
1. Tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
2. Phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn cấp trên cơ sở tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành
lập công đoàn cơ sở, bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
3. Bảo đảm các điều kiện để công đoàn cơ sở hoạt động theo quy định tại Điều 193 của Bộ luật này.
4. Phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, quy chế phối hợp hoạt động phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của mỗi bên.
5. Tham khảo ý kiến Ban chấp hành công đoàn cơ sở trước khi ban hành các quy định có liên quan đến quyền, nghĩa
vụ, chế độ chính sách đối với NLĐ.
6. Khi NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì
được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ.
7. Khi NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chuyển làm công việc khác, kỷ luật sa thải đối với NLĐ là
cán bộ công đoàn không chuyên trách thì phải thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban
chấp hành cấp trên trực tiếp cơ sở.
4 Điều 22 Luật Công đoàn, Điều 192 BLLĐ .
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị, doanh
nghiệp, tổ chức khác có sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật về lao động, cơ
quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ ba, pháp luật quy định các hình
thức đại diện của tổ chức công đoàn và vai
trò của tổ chức công đoàn cơ sở cũng như vai
trò của công đoàn cấp trên cơ sở trong việc
xúc tiến thành lập tổ chức đại diện lao động.
Thứ tư, pháp luật quy định mối quan
hệ của tổ chức công đoàn với NSDLĐ và
Nhà nước. Trong đó, pháp luật quy định
trách nhiệm của NSDLĐ đối với tổ chức
công đoàn trong các hoạt động sau:
i) Thừa nhận và tạo điều kiện thuận lợi
để công đoàn hoạt động2;
ii) Quy định về trách nhiệm của
NSDLĐ trong hoạt động công đoàn3;
iii) Quy định về việc đảm bảo các điều
kiện để tổ chức công đoàn cơ sở hoạt động4.
Nhìn chung, các quy định của Bộ luật
Lao động (BLLĐ) và Luật Công đoàn về
quyền tự do liên kết của NLĐ đã có những
kế thừa các văn bản pháp luật trước đó và bổ
sung những điểm mới theo hướng bảo đảm
vai trò của tổ chức công đoàn trong thực thi
chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi ích
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 5(381) T3/2019
hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Tuy nhiên,
để thực thi Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),
pháp luật lao động Việt Nam về quyền tự do
liên kết còn có những điểm cần xem xét lại
như sau:
Thứ nhất, pháp luật lao động Việt Nam
đang thu hẹp quyền thành lập tổ chức công
đoàn của NLĐ
Trong các Tiêu chuẩn lao động quốc
tế, quyền công đoàn được ghi nhận cho phép
“tất cả mọi người đều có quyền, cùng với
người khác thành lập các công đoàn hay gia
nhập vào các công đoàn để bảo vệ lợi ích của
mình”5. Vấn đề này cũng được điều chỉnh
trong Công ước quốc tế các Quyền kinh tế
xã hội và văn hóa năm 19666 và Công ước
quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị
năm 19667.
Tuy nhiên, pháp luật lao động Việt
Nam không thừa nhận quyền tự do liên kết
đối với NLĐ nước ngoài. Điều này lý giải
bởi: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã
hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
NLĐ, được thành lập trên cơ sở tự nguyện,
là thành viên trong hệ thống chính trị của xã
hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ,
công chức, viên chức, công nhân và những
NLĐ khác (sau đây gọi chung là NLĐ)”8.
Tổ chức công đoàn Việt Nam là tổ
chức nằm trong hệ thống chính trị của Nhà
nước Việt Nam, vừa mang tính chính trị vừa
mang tính quần chúng thực hiện chức năng
đại diện và bảo vệ quyền lợi của NLĐ khi
tham gia vào QHLĐ.
5 Khoản 4 Điều 23 Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948.
6 Điều 8 Công ước quốc tế các Quyền kinh tế xã hội và văn hóa năm 1966.
7 Điều 21, Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966.
8 Điều 1 Luật Công đoàn.
9 Đào Mộng Điệp, (2015), Đại diện lao động và pháp luật về đại diện lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam, NXB Tư pháp, tr.118.
10 Điều 5 Công ước 87 về Quyền tự do liên kết.
11 Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Việc hạn chế NLĐ nước ngoài được
thực thi quyền tự do liên kết là một sự mâu
thuẫn với Hiệp định CPTPP. Điều này cho
thấy sự không tương thích của pháp luật
lao động Việt Nam với hệ thống pháp luật
các quốc gia khác trên thế giới như: Chi Lê
(Điều 365, Luật Lao động 1976); Achentina
(Luật Lao động 1975); Nga (Điều 2, Luật
Công đoàn); Trung Quốc (Điều 3, Luật
Công đoàn); Campuchia (Điều 270, Luật
Lao động)9 và các yêu cầu đặt ra của Hiệp
định CPTPP. Ngoài ra, việc không thừa nhận
người nước ngoài có quyền công đoàn cho
thấy sự không bình đẳng về quyền của NLĐ
khi tham gia QHLĐ.
Thứ hai, thừa nhận một tổ chức công
đoàn duy nhất trực thuộc Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam
Điều này chưa có sự phù hợp với các
Tiêu chuẩn lao động quốc tế và Hiệp định
CPTPP. Hiệp định CPTPP thừa nhận:“Quyền
của các công đoàn được hoạt động tự do”10
và “Mọi người có quyền tự do lập hội với
những người khác”. Ngoài ra, pháp luật
quốc tế cũng ghi nhận: “Mọi người có quyền
tự do thành lập các công đoàn, các liên hiệp
công đoàn quốc gia và quyền hợp thành liên
đoàn, tổng liên đoàn”11.
Theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP,
các quốc gia thực hiện tất cả các tiêu chuẩn
lao động quốc tế theo tuyên bố của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) về những nguyên
tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc năm
1998 “Mỗi bên phải thông qua và duy trì
trong các quy chế và quy định của mình các
quyền dưới đây như được nêu trong Tuyên
bố ILO: a) Quyền tự do liên kết và công
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 5(381) T3/2019
nhận hiệu quả thương lượng tập thể”12
Hiệp định CPTPP cũng ghi nhận thời gian
không áp dụng trừng phạt thương mại là 5
năm kể từ ngày Hiệp định CPTPP có hiệu
lực đối với việc thành lập tổ chức công đoàn
độc lập; thời gian không trừng phạt thương
mại là 7 năm kể từ ngày Hiệp định CPTPP
có hiệu lực đối với nghĩa vụ cho phép các tổ
chức của NLĐ tại cơ sở được phép liên kết
với nhau.
Việc chỉ thừa nhận một tổ chức công
đoàn duy nhất theo pháp luật hiện hành cho
thấy các vấn đề sau:
i) Tổ chức công đoàn chưa phát huy
được hết nội lực khi tham gia vào QHLĐ để
thực hiện vai trò đại diện và bảo vệ quyền
lợi cho tập thể lao động. Tổ chức công đoàn
chưa thể “vượt qua chính mình”, thiếu đi
tính cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động.
ii) Chưa đa dạng hóa các loại hình tổ
chức đại diện để NLĐ được quyền lựa chọn
cho mình một tổ chức phù hợp trong quá
trình đại diện tại doanh nghiệp.
iii) Hiện nay, pháp luật cũng đã thừa
nhận tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ
sở được quyền đại diện cho tập thể lao động
những nơi doanh nghiệp không thành lập tổ
chức công đoàn cơ sở.
Tuy nhiên, tổ chức công đoàn cấp trên
trực tiếp cơ sở là một tổ chức được Nhà nước
trao quyền, nhân lực để bảo đảm thực thi vai
trò đại diện tập thể lao động với số lượng các
doanh nghiệp đóng trên địa bàn chưa tương
xứng. Chính vì vậy, vai trò đại diện của tổ
chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở mặc
dù đã được quy định nhưng chưa phát huy
hiệu quả trên thực tế.
Thứ ba, theo yêu cầu của Hiệp định
CPTPP, tổ chức công đoàn hoạt động độc lập
Tính độc lập của tổ chức công đoàn
12 Điều 19.3 Hiệp định CPTPP.
13 Công ước 87 về Quyền tự do liên kết.
14 Điều 5, Công ước số 135 về việc Bảo vệ và những thuận lợi dành cho đại diện NLĐ trong các doanh nghiệp, 1971.
thể hiện trên phương diện độc lập về cơ
cấu tổ chức và độc lập về phương thức hoạt
động cũng như vấn đề về tài chính. Hiệp
định CPTPP ghi nhận thông qua Tuyên bố
của ILO: “Các cơ quan có thẩm quyền phải
tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế
quyền đó hoặc cản trở việc thi hành hợp
pháp quyền đó” và “Các tổ chức của NLĐ
không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính
nào buộc phải giải tán hoặc đình chỉ”13.
Ngoài ra, Hiệp định CPTPP cũng ghi
nhận: “Khi một doanh nghiệp có cả những
đại diện công đoàn và những đại diện được
bầu ra thì phải có những biện pháp thích hợp,
mỗi khi cần thiết, để bảo đảm rằng sự có mặt
của các đại diện được bầu không được dùng
để làm suy yếu vị trí của các công đoàn hoặc
của các tổ chức đại diện lao động của họ và
để khuyến khích sự hợp tác trong mọi vấn đề
thích đáng giữa một bên là các đại diện được
bầu và một bên là các cơ quan hữu quan và
các đại diện của họ”14.
Pháp luật lao động hiện hành lại chưa
tương thích với các yêu cầu đặt ra trong Hiệp
định CPTPP. Theo đó, tổ chức công đoàn
Việt Nam hoạt động tuân theo Điều lệ riêng.
Mặc dù vậy, vấn đề tài chính của tổ chức
công đoàn gồm các nguồn thu từ: i) đoàn
phí công đoàn do đoàn viên công đoàn đóng
theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt
Nam; ii) kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền
lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho
NLĐ; iii) ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ; iv)
nguồn thu khác từ hoạt động văn hóa, thể
thao, hoạt động kinh tế của Công đoàn; từ
đề án, dự án do Nhà nước giao; từ viện trợ,
tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài. Chính vì sự lệ thuộc về tài chính
của tổ chức công đoàn vào NSDLĐ có ảnh
hưởng đến tính độc lập trong tổ chức và hoạt
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 5(381) T3/2019
động khi công đoàn tham gia vào QHLĐ.
1.2 Quy định về quyền thương lượng
tập thể lao động
Thương lượng tập thể là một nhóm
quyền không thể thiếu của tập thể lao động
khi tham gia vào QHLĐ. Quyền thương
lượng tập thể là nhóm quyền phản ánh tiếng
nói của tập thể lao động, thể hiện vai trò của
tổ chức công đoàn cũng như tập thể lao động
trong mối quan hệ với NSDLĐ.
Pháp luật lao động đã quy định cụ thể
về thương lượng và thỏa ước lao động tập
thể. Theo đó, lần đầu tiên trong BLLĐ năm
2012 ghi nhận mục đích của thương lượng
tập thể15; nguyên tắc của thương lượng tập
thể16; quyền yêu cầu thương lượng17; đại diện
thương lượng18; nội dung thương lượng; quy
trình thương lượng tập thể19.
Ngoài ra, pháp luật cũng ghi nhận
chi tiết và cụ thể các vấn đề liên quan đến
thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp và
thỏa ước lao động tập thể cấp ngành, các nội
dung liên quan đến chủ thể tham gia thương
lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể
doanh nghiệp và cấp ngành, trình tự ký kết
thỏa ước lao động tập thể cấp doanh nghiệp
và cấp ngành; các vấn đề liên quan đến hiệu
lực và thực thi thỏa ước lao động tập thể cấp
doanh nghiệp và cấp ngành (Quy định từ
Điều 73 đến Điều 89 BLLĐ năm 2012).
Nhìn chung, pháp luật hiện hành đã
thiết lập hành lang pháp lý tương đối vững
chắc để tập thể lao động, đại diện tập thể
lao động và NSDLĐ thực hiện việc thương
lượng tập thể một cách hiệu quả.
Thứ nhất, thừa nhận và cho phép tập
thể lao động và NSDLĐ được quyền tự do
linh hoạt trong thương lượng tập thể và ký
kết thỏa ước lao động tập thể.
15 Điều 66 BLLĐ.
16 Điều 67 BLLĐ.
17 Điều 68 BLLĐ.
18 Điều 69 BLLĐ.
19 Điều 71 BLLĐ.
Thứ hai, mở rộng và đa dạng hóa các
hình thức thương lượng tập thể để bảo đảm
việc xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định, bền
vững, giải quyết tốt những mầm mống tranh
chấp xảy ra trong tương lai giữa tập thể lao
động và NSDLĐ.
Thứ ba, mở rộng phạm vi thỏa ước lao
động tập thể đáp ứng yêu cầu linh hoạt của
thị trường lao động. Thừa nhận phạm vi áp
dụng thỏa ước lao động tập thể cấp doanh
nghiệp, cấp ngành để bảo đảm tính liên kết
giữa tập thể lao động trong phạm vi doanh
nghiệp và các ngành nghề có chung điều
kiện lao động.
Thứ tư, pháp luật ghi nhận vai trò đại
diện của tổ chức công đoàn và tổ chức công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trong quá trình
tham gia thương lượng và ký kết thỏa ước
lao động tập thể.
Đồng thời, pháp luật cũng quy định
chặt chẽ quy trình thương lượng, ký kết
thỏa ước lao động tập thể, trách nhiệm của
NSDLĐ và các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc thương lượng, ký kết và
thực thi thỏa ước lao động tập thể. Về cơ
bản, các quy định pháp luật Việt Nam về
quyền thương lượng tập thể đã bước đầu đáp
ứng các yêu cầu trong Tiêu chuẩn lao động
quốc tế và Hiệp định CPTPP.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, do không
thừa nhận tổ chức công đoàn độc lập cho
nên hiện nay, pháp luật chưa đa dạng hóa
thẩm quyền thương lượng tập thể và ký kết
thỏa ước lao động tập thể. Tập thể lao động
không được cử đại diện của chính mình
đứng ra thực hiện việc thương lượng và ký
kết thỏa ước lao động tập thể.
Theo quy định pháp luật hiện hành,
chủ thể duy nhất được thương lượng với
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 5(381) T3/2019
NSDLĐ là tổ chức công đoàn cơ sở hoặc
tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
nơi doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức
công đoàn cơ sở. Điều này cản trở tính tự
do công đoàn và tự do thương lượng trong
doanh nghiệp; chưa đáp ứng được các yêu
cầu khách quan của thị trường lao động.
Thực tế hiện nay đã phát sinh rất nhiều
hình thức thương lượng tập thể và thỏa ước
lao động tập thể mà pháp luật chưa điều
chỉnh. Trong đó có hình thức thỏa ước lao
động tập thể nhóm doanh nghiệp. Điều này
liên quan đến chủ thể tham gia thương lượng
và ký kết thỏa ước lao động tập thể nhóm
doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề chủ thể thương
lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể
cấp vùng, cấp khu vực cũng cần phải được
xem xét cân nhắc và điều chỉnh cho phù hợp.
2. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền
tự do liên kết và thương lượng tập thể
Hiệp định CPTPP được ký kết như
“một luồng gió mới” thúc đẩy tiến trình hoàn
thiện pháp luật lao động nói chung và pháp
luật về quyền tự do liên kết và thương lượng
tập thể nói riêng. Việc gia nhập Hiệp định
CPTPP đã thực sự tạo ra một “sân chơi” với
nhiều cơ hội để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
NLĐ khi tham gia vào QHLĐ. Các cơ hội
“vàng” mà Hiệp định CPTPP mang lại cho
thị trường lao động Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, hướng tới sự phát triển
QHLĐ ổn định, bền vững với những cam kết
mạnh mẽ trong việc thực thi các tiêu chuẩn
lao động quốc tế nói chung và các tiêu chuẩn
quốc tế về quyền tự do liên kết và thương
lượng tập thể.
Trong đó, thiết lập một cơ sở pháp lý
minh bạch để QHLĐ được xây dựng ổn định
và tiến bộ, NLĐ được bảo vệ nhóm quyền
mang tính tự nhiên của mình.
Thứ hai, Hiệp định CPTPP góp phần
20 https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/comments-and-analysis/WCMS_620717/lang--vi/
index.htm; truy cập vào 25/06/2018.
bảo đảm thực thi về tính bình đẳng và
công bằng của NLĐ khi NLĐ tham gia vào
QHLĐ.
NLĐ được thực thi quyền tự do liên
kết và thương lượng tập thể một cách linh
hoạt, tự do. NLĐ được tự do lựa chọn người
đại diện và nhân danh mình để tham gia vào
QHLĐ. NLĐ được tham gia vào quá trình
thương lượng tập thể mang tính thực chất.
Thứ ba, Hiệp định CPTPP thúc đẩy
việc thực hiện Tuyên bố năm 1998 của ILO,
đặc biệt là Công ước số 87 về Tự do liên kết
và Công ước số 98 về Quyền thương lượng
tập thể.
Đây là cơ hội vàng đối với hệ thống
công đoàn của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam để hiện đại hoá tổ chức và chức
năng nhằm đại diện tốt hơn cho tiếng nói
của NLĐ20.
Tuy nhiên, Hiệp định CPTPP cũng đặt
ra nhiều thách thức trong quá trình Việt Nam
thực thi chính sách pháp luật về quyền tự do
liên kết và thương lượng tập thể.
Thứ nhất, các quy định về quyền tự do
liên kết và thương lượng tập thể chưa đáp
ứng với các yêu cầu trong cam kết về Tiêu
chuẩn lao động quốc tế và Hiệp định CPTPP.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của tổ
chức công đoàn trong giai đoạn hiện nay khi
pháp luật thừa nhận một tổ chức công đoàn
độc lập song hành với tổ chức công đoàn
trực thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam. Trong đó, đáng chú ý là năng lực của
tổ chức công đoàn cơ sở; năng lực chỉ đạo,
hỗ trợ của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
đối với công đoàn cơ sở; năng lực thương
lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể
Thứ ba, năng lực của tổ chức NSDLĐ
trong mối quan hệ với tổ chức đại diện NLĐ
khi pháp luật thừa nhận tổ chức công đoàn
độc lập. Khi pháp luật thừa nhận nhiều tổ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 5(381) T3/2019
chức đại diện cho NLĐ, điều này cũng có
nghĩa là tổ chức đại diện của NSDLĐ tại
doanh nghiệp chưa tương thích với tổ chức
đại diện của NLĐ. Tính bình đẳng trong số
lượng, vị thế, địa vị pháp lý giữa tổ chức
đại diện tập thể lao động và tổ chức đại diện
NSDLĐ chưa được bảo đảm.
Thứ tư, cơ chế bảo đảm thực thi cho
tổ chức công đoàn độc lập bên cạnh tổ chức
công đoàn trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam cũng cần phải tính đến. Thiết
chế và hành lang pháp lý bảo đảm thực thi
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
của NLĐ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực
cũng là bài toán được đặt ra.
Với những cơ hội và thách thức đặt ra
khi Việt Nam thực thi Hiệp định CPTPP, các
yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
liên kết và thương lượng tập thể cần chú ý:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
phải bảo đảm các điều kiện về kinh tế - xã
hội và chính trị của Việt Nam.
Để bảo đảm quyền tự do liên kết và
thương lượng tập thể được thực thi hiệu quả,
trong thời gian tới, cần hoàn thiện các quy
định pháp luật trên cơ sở điều kiện kinh tế -
xã hội và chính trị của Việt Nam. Mỗi quốc
gia khi xây dựng pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội đều dựa trên các điều kiện
kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của quốc
gia đó. Pháp luật có thực thi hiệu quả hay
không phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng đặc biệt
là yếu tố kinh tế và chính trị tác động đến.
Chính vì vậy, khi hoàn thiện pháp luật
về quyền tự do liên kết và thương lượng tập
thể cần chú ý đến điều kiện kinh tế và nền
chính trị Việt Nam. Thừa nhận tổ chức công
đoàn độc lập và quyền thương lượng tập thể
của NLĐ nhưng tổ chức công đoàn độc lập
vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Thừa nhận sự tự do, tự nguyện trong
21 Đào Mộng Điệp, (2015), Sđd; tr.242.
thành lập tổ chức đại diện nhưng vẫn bảo
đảm việc hoạt động thống nhất trong tầm
kiểm soát của pháp luật. Quyền tự do liên
kết và thương lượng tập thể chỉ phát huy
hiệu quả trong thực tiễn khi pháp luật phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và hệ thống
chính trị của Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
cần đặt trong vấn đề hoàn thiện các chế định
khác nhau của BLLĐ và Luật Công đoàn.
“Tính khả thi của một quy phạm pháp
luật không chỉ phụ thuộc vào nội dung của
quy định đó có phù hợp với thực tiễn hay
không mà còn phụ thuộc vào sự tương hỗ
giữa các quy định có liên quan và khả năng
thực thi của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền”21. Việc hoàn thiện quy định về quyền
tự do liên kết và thương lượng tập thể chỉ đạt
hiệu quả khi hoàn thiện các chế định khác
của BLLĐ.
Hiện nay, nhiều chế định của BLLĐ
đã được quy định thành một Luật đơn hành
như: Luật Việc làm, Luật An toàn, vệ sinh
lao động. Trong khi đó, các quy định về
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
có liên quan đến hầu hết các chế định khác
nhau của BLLĐ và Luật Công đoàn.
Để thực thi có hiệu quả quyền tự do
liên kết và thương lượng tập thể, Nhà nước
cũng cần chú ý đến việc hoàn thiện các nội
dung liên quan đến hợp đồng lao động, thỏa
ước lao động tập thể, tiền lương, kỷ luật lao
động, trách nhiệm vật chất, tranh chấp lao
động, đình công. Các vấn đề này xuyên xuốt
QHLĐ, từ khi NLĐ thiết lập QHLĐ, thay
đổi hay chấm dứt QHLĐ đều liên quan đến
quyền tự do liên kết của NLĐ. Chính vì vậy,
hoàn thiện quyền tự do liên kết và thương
lượng tập thể cần đặt trong bối cảnh việc ban
hành các quy định về tiền lương tối thiểu,
Luật về Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
hay Luật về nhân lực
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 5(381) T3/2019
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về quyền
tự do liên kết và thương lượng tập thể cần
đặt trong việc thúc đẩy ký kết các Công ước
quốc tế về Quyền tự do liên kết và thương
lượng tập thể.
Mặc dù hiện nay Việt Nam đã phê
chuẩn rất nhiều công ước cơ bản, ưu tiên,
kỹ thuật, tuy nhiên cho đến thời điểm này
Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn các công ước
quốc tế về quyền cơ bản của NLĐ tại nơi
làm việc (còn được gọi là các tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản)22 trong đó có hai Công
ước quy định về Quyền tự do liên kết (Công
ước 87) và bảo vệ quyền thương lượng tập
thể (Công ước 98).
Trong các Công ước này, dù đã phê
chuẩn hay chưa, các quốc gia vẫn phải báo
cáo về tình hình thực hiện các tiêu chuẩn
trên và lý do chưa phê chuẩn Công ước.
Hiện nay, có 153 quốc gia đã phê chuẩn
Công ước 87; 164 quốc gia phê chuẩn Công
ước 98 trên tổng số 185 quốc gia23, trong khi
đó Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn hai công
ước này24.
Chính vì vậy, để bảo đảm thực thi
Hiệp định CPTPP, Việt Nam cần thúc đẩy
việc ký kết các Công ước quốc tế về Quyền
tự do liên kết và thương lượng tập thể. Việc
ký kết các Công ước quốc tế về Quyền tự do
liên kết và thương lượng tập thể nhằm:
i) Mở ra cơ hội để ghi nhận quyền
công đoàn của mọi NLĐ bao gồm cả NLĐ
22 Công ước 29 (1930) về Lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; Công ước 87 (1948) về Quyền tự do hiệp hội và việc bảo
vệ quyền được tổ chức; Công ước 98 (1951) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể;
Công ước 100 (1951) về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị như nhau;
Công ước 105 (1957) về Xóa bỏ lao động cưỡng bức; Công ước 111 (1958) về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề
nghiệp; Công ước 138 (1973) về Tuổi tối thiểu được đi làm việc; Công ước 182 (1999) về Nghiêm cấm và hành động
khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
23 Internatinal Labour Organization (ILO), “Ratifications of Co87 – Freedom of Association and Protection of the Right
to Organise Convention, 1948” (No. 87).
ID:312232:NO; Internatinal Labour Organization (ILO), “Ratifications of Co98 – Right to Organise and Collective
Bargaining Convention, 1949” (No. 98),
ID:312243:NO.
24 Đào Mộng Điệp, (2015), Tổng quan quyền của NLĐ theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý.
Việt Nam và NLĐ nước ngoài;
ii) Thừa nhận tổ chức công đoàn độc
lập hoạt động song hành với tổ chức công
đoàn trực thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam;
iii) Mở rộng và đa dạng phạm vi
thương lượng và thỏa ước lao động tập thể,
mở rộng chủ thể thương lượng và ký kết
thỏa ước lao động tập thể.
3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
3.1 Quy định về tổ chức công đoàn
độc lập
Bảo đảm sự phù hợp với yêu cầu của
Hiệp định CPTPP, Việt Nam cần ban hành
các văn bản cho phép thành lập tổ chức công
đoàn độc lập. Khi ban hành văn bản này cần
chú ý những nội dung sau:
i) Ghi nhận quyền của NLĐ được tự
do thành lập tổ chức đại diện cho mình;
ii) Quy định cụ thể thành phần tham
gia tổ chức đại diện lao động cho tập thể lao
động;
iii) Quy định cụ thể chủ thể có quyền
thành lập tổ chức công đoàn độc lập; quy
trình và thủ tục thành lập;
iv) Quy định địa vị pháp lý của tổ chức
công đoàn độc lập;
v) Quy định về cơ cấu tổ chức hoạt
động của tổ chức công đoàn độc lập;
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 5(381) T3/2019
vi) Quy định vai trò của tổ chức công
đoàn độc lập; mối quan hệ của tổ chức công
đoàn độc lập với NSDLĐ; mối quan hệ của
tổ chức công đoàn độc lập với tổ chức công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; mối quan hệ
của tổ chức công đoàn độc lập với các cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
vii) Quy định mối liên hệ, tính liên kết
chéo giữa tổ chức công đoàn độc lập với tổ
chức công đoàn ngành và các tổ chức công
đoàn theo cơ cấu lãnh thổ;
viii) Quy định về cơ chế bảo đảm thực
thi của tổ chức công đoàn độc lập; cơ chế
kiểm tra giám sát của tổ chức này trên thực tế.
3.2 Hoàn thiện các quy định về tổ
chức công đoàn trực thuộc Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam
Để bảo đảm thực thi Hiệp định CPTPP,
khi Việt Nam thừa nhận tổ chức công đoàn
độc lập, pháp luật cần bổ sung hoàn thiện
các quy định về tổ chức đại diện tập thể lao
động như sau:
i) Quy định cụ thể vai trò, vị trí của tổ
chức công đoàn cơ sở trong bối cảnh mới
khi Việt Nam thực thi Hiệp định CPTPP;
ii) Quy định rõ mối quan hệ giữa tổ
chức công đoàn cơ sở với tổ chức đại diện
NSDLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ;
iii) Quy định trách nhiệm và mối quan
hệ đại diện tập thể lao động của tổ chức công
đoàn cơ sở với tổ chức công đoàn cấp trên
trực tiếp cơ sở;
iv) Quy định cơ chế bảo đảm thực thi
vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở và tổ
chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở;
v) Quy định về tính độc lập trong hoạt
động của tổ chức công đoàn cơ sở. Ghi nhận
nguồn thu tài chính của tổ chức công đoàn
cơ sở tách bạch khỏi nguồn thu từ quỹ của
NSDLĐ.
25 Đào Mộng Điệp, (2015), Sđd, tr.240.
3.3 Ban hành Luật về QHLĐ
Việt Nam cần ban hành Luật về
QHLĐ để điều chỉnh mối quan hệ giữa NLĐ
và NSDLĐ. Luật về QHLĐ giữ vai trò quan
trọng trong việc điều tiết mối quan hệ của
NLĐ và NSDLĐ, các chủ thể tham gia trong
QHLĐ, nội dung của QHLĐ, cơ chế điều
chỉnh QHLĐ.
Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia
đã ban hành Luật về QHLĐ để điều chỉnh
mối quan hệ giữa các bên, vấn đề thoả ước,
đại diện lao động và đại diện NSDLĐ, tranh
chấp lao động như: Luật về QHLĐ năm 1975
của Thái Lan; Luật về Quan hệ công nghiệp
năm 1967 của Malayxia; Luật về QHLĐ
quốc gia năm 1935, sửa đổi năm 1947 của
Mỹ; Luật QHLĐ năm 2007 của Macedonia;
Luật QHLĐ năm 1995 sửa đổi năm 2002
của Nam Phi; Luật Tranh chấp lao động và
QHLĐ năm 1975 của Jamaica; Luật QHLĐ
của Indonexia; Luật QHLĐ năm 1973 của
Newzeland25.
Khi ban hành Luật về QHLĐ cần chú
ý những nội dung sau:
i) Quy định về các chủ thể tham gia
QHLĐ, NLĐ, NSDLĐ, các tổ chức đại diện
tập thể lao động và đại diện NSDLĐ; mối
quan hệ giữa Nhà nước, NLĐ, NSDLĐ và
các tổ chức đại diện tập thể lao động, đại
diện NSDLĐ;
ii) Quy định về cơ chế điều tiết QHLĐ,
cơ chế hai bên và cơ chế ba bên trong QHLĐ;
iii) Quy định về nội dung của QHLĐ;
iv) Quy định về các cơ quan chuyên
trách trong thực thi QHLĐ;
v) Quy định vai trò của cơ quan quản
lý nhà nước về lao động trong điều tiết
QHLĐ.
vi) Quy định các thiết chế bảo đảm
thực thi có hiệu quả QHLĐ.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 5(381) T3/2019
3.4 Hoàn thiện các quy định về tổ
chức đại diện NSDLĐ
Theo quy định pháp luật hiện hành,
tổ chức đại diện NSDLĐ gồm có: Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Hiệp hội
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Theo đó, tổ chức đại diện NSDLĐ giữ
vai trò rất quan trọng trong QHLĐ như: i)
Tham gia xây dựng chính sách pháp luật
về lao động liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp của NLĐ và NSDLĐ; ii) Phòng
ngừa, giải quyết tranh chấp lao động; đánh
giá tình hình triển khai thực hiện các biện
pháp phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao
động; iii) Tham gia xây dựng báo cáo quốc
gia theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà
nước về việc thực hiện Công ước của ILO
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
NLĐ và NSDLĐ;
Chính vì vậy, khi thừa nhận tổ chức
công đoàn độc lập, Nhà nước cũng cần sửa
đổi, bổ sung các quy định về tổ chức đại
diện NSDLĐ theo hướng:
i) Ban hành một văn bản thống nhất
quy định về tổ chức đại diện NSDLĐ;
ii) Quy định tổ chức đại diện NSDLĐ
tương ứng với tổ chức đại diện tập thể lao động;
iii) Thừa nhận tổ chức đại diện NSDLĐ
theo phạm vi cấp doanh nghiệp, theo ngành
nghề, theo phạm vi lãnh thổ để bảo đảm tính
thực thi khi tham gia vào QHLĐ.
3.5 Hoàn thiện quy định về quyền
thương lượng tập thể
Pháp luật hiện hành đã quy định nội
dung thương lượng tập thể chung bao gồm
cả thương lượng tập thể cấp doanh nghiệp và
cấp ngành. Tuy nhiên, do đặc thù mỗi doanh
nghiệp khác nhau, mỗi cấp thương lượng tập
thể khác nhau sẽ có những nội dung khác
26 https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/comments-and-analysis/WCMS_620717/lang--vi/
index.htm; truy cập vào 10/07/2018
nhau. Chính vì vậy, pháp luật cần quy định
rõ nội dung thương lượng tập thể theo phạm
vi cấp độ của thương lượng tập thể.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng
chưa quy định các nội dung thương lượng
tập thể mang tính chuyên sâu theo từng
nhóm lĩnh vực. Chính vì vậy, pháp luật cần
bổ sung nội dung thương lượng tập thể mang
tính chuyên biệt như: các nội dung thương
lượng tập thể về lương, về an toàn, vệ sinh
lao động, về bảo đảm các điều kiện lao động
của doanh nghiệp hay thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi
Bên cạnh đó, pháp luật cần bổ sung
các quy định về thương lượng tập thể nhóm
doanh nghiệp. Pháp luật cần quy định cụ thể
chủ thể tham gia thương lượng tập thể nhóm
doanh nghiệp, quy trình, thủ tục thương
lượng tập thể nhóm doanh nghiệp, nội dung
thương lượng tập thể nhóm doanh nghiệp.
Đồng thời, pháp luật cần sửa đổi các
quy định về sự tham gia của NLĐ trong
chính quá trình thương lượng để bảo đảm
cho tập thể lao động được thực hiện quyền
thương lượng tập thể. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng cần quy định trách nhiệm của NSDLĐ
không được cản trở, gây khó khăn trong
quá trình công đoàn làm việc với công nhân
trong suốt quá trình thương lượng tập thể.
Tóm lại, tự do liên kết và thương lượng
tập thể là “một nguyên tắc định hướng mang
tính phổ quát của QHLĐ hiện đại, không
phân biệt giai đoạn phát triển kinh tế - đó là
nền tảng cho QHLĐ không chỉ ở các quốc
gia đã phát triển, mà còn ở các nước thu nhập
thấp. Đây là quyền con người cơ bản và là
quyền lao động, được tất cả các nước thành
viên ILO và Liên hiệp quốc công nhận”26.
Để thực thi Hiệp định CPTPP, Việt
Nam cần sớm thúc đẩy việc hoàn thiện pháp
luật lao động nói chung và pháp luật về
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
45Số 5(381) T3/2019
quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
nói riêng. Tham gia Hiệp định CPTPP là “cơ
hội để Việt Nam hiện đại hóa pháp luật lao
động và hệ thống QHLĐ, qua đó tạo việc
làm bền vững trong tương lai”27.
Để thực thi cơ hội này, ngoài việc thiết
lập một hành lang pháp lý minh bạch, mang
tính khả thi, cần chú trọng nâng cao vai trò
của tổ chức công đoàn cơ sở và tổ chức công
27 cập vào
27/06/2018.
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trong đại diện
và bảo vệ quyền lợi cho tập thể lao động.
Đồng thời, nâng cao vai trò của NSDLĐ
trong việc xây dựng mối QHLĐ hài hòa
ổn định, bền vững. Quyền tự do liên kết và
thương lượng tập thể của NLĐ chỉ có hiệu
quả khi có cơ chế thực thi pháp luật hỗ trợ và
bảo đảm thực hiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động năm 2012.
2. Công ước 87 năm 1948 Quyền tự do liên kết và quyền được tổ chức.
3. Công ước quốc tế các Quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966.
4. Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966.
5. Công ước 98 (1951) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
6. Công ước số 135 về Việc bảo vệ và những thuận lợi dành cho đại diện NLĐ trong các doanh nghiệp, 1971.
7. CPTPP là cơ hội bảo đảm việc làm bền vững;
dam-bao-viec-lam-ben-vung-137236.html; truy cập vào 27/06/2018.
8. Đào Mộng Điệp, (2015), Đại diện lao động và pháp luật về đại diện lao động - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam, NXB Tư pháp.
9. Đào Mộng Điệp, (2015), Tổng quan quyền của NLĐ theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý.
10. Điều khoản về lao động trong hiệp định thương mại tự do đảm bảo phát triển kinh tế công bằng, bền
vững; https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/comments-and-analysis/
WCMS_620717/lang--vi/index.htm; truy cập vào 25/06/2018.
11. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive
Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP)
12. Luật Công đoàn 2012.
13. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948.
14. Internatinal Labour Organization (ILO), “Ratifications of Co87 – Freedom of Association and Protection of
the Right to Organise Convention, 1948” (No. 87),
ID:312232:NO;
15. Internatinal Labour Organization (ILO), “Ratifications of Co98 – Right to Organise and Collective
Bargaining Convention, 1949” (No. 98),
ID:312243:NO
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
46 Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_quyen_tu_do_lien_ket_va_thuong_luong.pdf