Sáu là, về kỹ thuật lập pháp.
- Nghiên cứu sắp xếp lại vị trí các quy
định về thương lượng tập thể trong BLLĐ
để đảm bảo thể hiện đúng và đủ mục đích
của thương lượng tập thể, đồng thời giải
quyết được mối quan hệ của thương lượng
tập thể với đối thoại tại nơi làm việc, thỏa
ước lao động tập thể, giải quyết tranh chấp
lao động, đình công, tổ chức đại diện của
NLĐ, tổ chức đại diện của NSDLĐ và các
nội dung có liên quan khác.
- Các quy định về thương lượng tập
thể trong BLLĐ cần cụ thể, tránh ban hành
nhiều văn bản quy định chi tiết. Trường hợp
nhất thiết phải quy định chi tiết thì cần tuân
thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, đảm bảo văn bản
quy định chi tiết có hiệu lực cùng ngày với
BLLĐ sửa đổi.
- Rà soát, sửa lại tất cả các quy định
sử dụng thuật ngữ chưa rõ ràng, thiếu chặt
chẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thương lượng tập thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG LƯỢNG TẬP THỂ
Tóm tắt:
Thương lượng tập thể là một trong những cách thức hiệu quả nhằm
xây dựng mối quan hệ lao động ổn định và bền vững. Về cơ bản,
các quy định của pháp luật Việt Nam về thương lượng tập thể được
đánh giá là thống nhất và tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, các quy
định này vẫn còn bỏ sót một số nội dung quan trọng, khó áp dụng
hoặc mới chỉ được áp dụng trong phạm vi hẹp.
Lê Thị Hoài Thu*
* PGS. TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract
Collective bargaining is one of the most effective methods to
establish a stable and sustainable labour relationship. Basically,
the provisions under the Vietnam laws on collective bargaining
are considered as relatively consistent and comprehensive.
However, these regulations do not, in some exten, cover a number
of important contents that are difficult to be applied or have been
applied only in the narrow areas.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thương lượng tập thể, quan hệ
lao động, thoả ước lao động tập thể.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 11/10/2018
Biên tập : 20/10/2018
Duyệt bài : 25/10/2018
Article Infomation:
Keywords: Collective bargaining;
labour relationship; collective labour
agreement
Article History:
Received : 11 Oct. 2018
Edited : 20 Oct. 2018
Approved : 25 Oct. 2018
1. Khái niệm thương lượng tập thể trong
quan hệ lao động
Trong quan hệ lao động (QHLĐ),
thương lượng được hiểu là một quá trình
thỏa thuận nhằm đạt tới sự thống nhất ý chí
giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và
người lao động (NLĐ) về việc mua bán, sử
dụng hàng hóa sức lao động và giải quyết
những vấn đề phát sinh trong QHLĐ. Trong
đó, thương lượng tập thể là cách thức được
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đặc biệt
quan tâm, khuyến khích thực hiện vì ý nghĩa
và tầm quan trọng của nó trong việc ổn định
QHLĐ. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới,
nhất là các quốc gia phát triển, “thương
lượng tập thể” là một khái niệm quen thuộc.
Nhưng ở Việt Nam, nó lại là một khái niệm
khá mới mẻ, nhất là ở phương diện pháp lý.
Điều 2 Công ước số 154 (năm 1981)
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về xúc
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
21Số 21(373) T11/2018
tiến thương lượng tập thể được coi là khái
niệm chính thức về thương lượng tập thể:
“Trong Công ước này, thuật ngữ "thương
lượng tập thể" áp dụng cho mọi cuộc thương
lượng giữa một bên là một NSDLĐ, một
nhóm NSDLĐ hoặc một hay nhiều tổ chức
của NSDLĐ, với một bên là một hay nhiều
tổ chức của NLĐ, để:
a) Quy định những điều kiện lao động
và sử dụng lao động;
b) Giải quyết những mối quan hệ giữa
những NSDLĐ với những NLĐ;
c) Giải quyết những mối quan hệ giữa
những NSDLĐ hoặc các tổ chức của họ với
một hoặc nhiều tổ chức của NLĐ”1.
Có thể thấy, chủ thể trong thương
lượng tập thể sẽ bao gồm đại diện của các
bên trong QHLĐ tập thể; đồng thời, mục
đích của thương lượng tập thể nhằm giải
quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích tập
thể của NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ chủ
yếu là xác lập các điều kiện lao động, điều
kiện sử dụng lao động và vấn đề việc làm
hoặc điều tiết các QHLĐ. Thương lượng tập
thể có thể xem là hình thức đối thoại xã hội
ở mức cao nhất. Điều này có nghĩa là, nếu
sử dụng nó một cách hiệu quả sẽ đạt được
những kết quả rất tích cực. Nếu thương
lượng tập thể được sử dụng như một biện
pháp để xác lập những thỏa thuận chung
giữa các bên về điều kiện lao động, việc làm,
tiền lương thì kết quả cao nhất của thương
lượng tập thể chính là sự ra đời của thỏa ước
tập thể. Hoặc nếu thương lượng tập thể được
sử dụng như một phương thức để giải quyết
các tranh chấp lao động tập thể thì kết quả
của việc thương lượng thành công sẽ dẫn tới
thỏa thuận chung giữa các bên tranh chấp để
giải quyết nội dung tranh chấp đó. Chính vì
vậy, ILO cũng khuyến cáo các nước thành
viên về việc nên nhìn nhận thương lượng tập
1 Tổ chức Lao động quốc tế (2004), Một số công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế, Nxb. Lao động và
Xã hội.
thể như một quá trình trao đổi, thảo luận và
thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc
một số vấn đề chung liên quan đến lợi ích
của tập thể NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ ở
các cấp độ khác nhau.
Thương lượng tập thể có thể giúp
cân bằng vị thế của NLĐ và NSDLĐ trong
QHLĐ. Điều này càng có ý nghĩa khi vốn dĩ
trong QHLĐ, NLĐ thường ở vào vị trí thế
yếu so với NSDLĐ vì nhiều nguyên nhân
khác nhau. Thương lượng tập thể có thể
phòng ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ những
mâu thuẫn, tranh chấp về quyền và lợi ích
giữa các bên trong QHLĐ.
2. Thực trạng pháp luật về thương lượng
tập thể ở Việt Nam hiện nay
Nhìn chung, các quy định về thương
lượng tập thể trong Bộ luật Lao động năm
2012 (BLLĐ năm 2012) và các văn bản quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành cơ bản là
thống nhất, áp ứng được yêu cầu thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh
vực lao động, QHLĐ cũng như yêu cầu của
cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho QHLĐ, thị trường lao động phát triển,
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
và ổn định chính trị của đất nước. Các quy
định này cũng được đánh giá là tương đối
phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế về
thương lượng tập thể, phù hợp với xu thế
chung của thời đại, phục vụ đắc lực cho công
cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Phương
pháp thỏa thuận - phương pháp chủ đạo của
luật lao động, đã được sử dụng khá triệt để
trong chế định pháp luật này. Đây là phương
pháp phù hợp với QHLĐ do BLLĐ điều
chỉnh và phù hợp với yêu cầu của chế định
thương lượng tập thể. Vì vậy, cơ bản các quy
định về thương lượng tập thể là khả thi.
Tuy nhiên, nếu chiếu theo những yêu
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
22 Số 21(373) T11/2018
cầu của tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất,
phù hợp, khả thi của hệ thống pháp luật nêu
trên thì vẫn còn những hạn chế sau đây:
Một là, các quy định về thương lượng
tập thể ở nước ta hiện nay chưa đầy đủ, đồng
bộ, thống nhất với quy định trong các chế
định pháp luật khác có liên quan.
Với cách đặt vị trí trong kết cấu của
BLLĐ và với nội dung của các quy định về
thương lượng tập thể tại Mục 2 Chương V
của BLLĐ, dường như các quy định này
mới hướng tới mục tiêu xây dựng QHLĐ hài
hòa, ổn định, tiến bộ, phòng ngừa tranh chấp
lao động, đình công, mà chưa hướng tới mục
tiêu giải quyết tranh chấp lao động tập thể,
đình công. Vì vậy, nhiều người đã cho rằng
đây là một thiếu sót của BLLĐ năm 2012
khi quy định về thương lượng tập thể.
BLLĐ quy định thương lượng tập
thể trong hai phạm vi: phạm vi doanh nghiệp
và phạm vi ngành. BLLĐ năm 2012 cũng
quy định thỏa ước lao động tập thể là kết
quả cao nhất của thương lượng tập thể. Điều
đáng lưu ý ở đây là ngoài thỏa ước tập thể
doanh nghiệp và thỏa ước tập thể ngành,
BLLĐ năm 2012 có quy định về các loại
thỏa ước khác (tức là ở những phạm vi khác,
như: thỏa ước tập thể nhóm doanh nghiệp,
thỏa ước tập thể địa phương, thỏa ước tập
thể vùng, thỏa ước tập thể khu công nghiệp,
khu chế xuất). Vậy, nếu không quy định
về thương lượng tập thể ở những phạm vi
này, sẽ không có cơ sở pháp lý để xây dựng
thỏa ước nhóm doanh nghiệp, thỏa ước tập
thể địa phương, thỏa ước tập thể vùng, thỏa
ước khu công nghiệp, khu chế xuất Điều
này sẽ tương tự với các quy định về tranh
chấp và giải quyết tranh chấp lao động tập
thể, quy định về đình công và giải quyết đình
công. Thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng đã
có thỏa ước tập thể nhóm doanh nghiệp, có
những vụ tranh chấp lao động tập thể, đình
công vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp và
phạm vi ngành.
Bên cạnh đó, các quy định về thương
lượng tập thể doanh nghiệp và thỏa ước
tập thể ngành hiện nay cũng còn có khiếm
khuyết sau: chưa có quy định về nguyên tắc,
tiêu chí, điều kiện để xác định đại diện tham
gia thương lượng tập thể, nhất là thương
lượng tập thể cấp ngành; một số quy định
chưa thực sự rõ ràng nên dẫn đến những
cách hiểu và áp dụng khác nhau (quy định
về mục đích, nội dung, trách nhiệm của các
thủ thể liên quan trong thương lượng tập
thể).
Hai là, quy định về chủ thể thương
lượng tập thể hiện nay khó triển khai thực
hiện trên thực tế.
Về phía NLĐ, theo quy định, ban
chấp hành công đoàn cơ sở hoặc ban chấp
hành công đoàn cấp trên trực tiếp của công
đoàn cơ sở (đối với doanh nghiệp không có
tổ chức công đoàn cơ sở) là người đại diện
cho tập thể lao động tham gia thương lượng
tập thể cấp doanh nghiệp. Quy định này nảy
sinh các vấn đề trong thực tiễn chưa giải
quyết được là:
- Doanh nghiệp có tổ chức công đoàn
cơ sở nhưng ban chấp hành công đoàn không
đứng ra đại diện cho tập thể lao động thương
lượng tập thể thì ai sẽ là người đại diện cho
tập thể lao động trong trường hợp này?
- Doanh nghiệp có tổ chức công đoàn
cơ sở nhưng ban chấp hành công đoàn
không đủ uy tín, tập thể lao động (hoặc phần
lớn NLĐ) không muốn ban chấp hành công
đoàn cơ sở đứng ra đại diện cho tập thể lao
động thương lượng tập thể thì ai sẽ là người
đại diện cho tập thể lao động trong trường
hợp này?
- Số lượng cán bộ công đoàn làm việc
tại các tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp
của công đoàn cơ sở (công đoàn quận, huyện,
thị xã, công đoàn khu công nghiệp, khu chế
xuất) hiện nay rất hạn chế và không tiếp
xúc hàng ngày với đơn vị sử dụng lao động.
Liệu ban chấp hành công đoàn cấp trên trực
tiếp có đủ thời gian và nhân lực, đủ sự am
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 21(373) T11/2018
hiểu về nội bộ của đơn vị sử dụng lao động
để đứng ra đại diện cho tập thể lao động
tham gia quá trình thương lượng tập thể và
thương lượng một cách hiệu quả hay không?
Về vấn đề này có quan điểm cho rằng: “Việc
cho phép công đoàn cấp trên cơ sở là chủ thể
nghiễm nhiên có quyền đại diện cho NLĐ
tại các doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ
sở thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước
lao động tập thể là không phù hợp với tiêu
chuẩn lao động quốc tế (Điều 4 của Công
ước số 98 của ILO: Quyền được tự nguyện
và độc lập của tập thể NLĐ trong tham gia
thương lượng chưa được đảm bảo), không
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của NLĐ
tại đơn vị, gây ra sự chậm trễ, khó khăn cho
hoạt động đối thoại, tham vấn”2.
Về phía NSDLĐ, BLLĐ năm 2012 chỉ
quy định chung NSDLĐ hoặc đại diện của
NSDLĐ là chủ thể thương lượng tập thể trong
QHLĐ. Đối với trường hợp thương lượng
tập thể trong phạm vi một doanh nghiệp
thì việc xác định chủ thể thương lượng tập
thể của phía doanh nghiệp không khó khăn.
Tuy nhiên, đối với thương lượng tập thể cấp
ngành, việc xác định đại diện của NSDLĐ
lại không đơn giản. Các tổ chức đại diện cho
NSDLĐ chủ yếu hiện nay là Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh
các Hợp tác xã Việt Nam hầu như chưa được
hình thành và duy trì theo ngành. Hơn nữa,
hiện nay, việc phân chia các doanh nghiệp
hoạt động theo ngành cũng chỉ có tính chất
tương đối, thậm chí không phân chia được
bởi với quyền tự do kinh doanh ngày càng
được mở rộng, một doanh nghiệp có thể có
ngành nghề kinh doanh thuộc nhiều ngành,
nhóm ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau. Từ
đó làm cho việc xác định tổ chức đại diện
của NSDLĐ theo ngành là rất khó khăn,
2 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết thi hành BLLĐ năm 2012.
3 Xem thêm Giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia, Khoa Luật Viện
Đại học Mở Hà Nội.
4 Xem: Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (năm 2016) về tình hình thực hiện thí điểm thương lượng và
ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh nghiệp.
thậm chí không thể xác định được.
Ba là, các quy định về thương lượng
tập thể của BLLĐ năm 2012 chưa đáp ứng
hết nhu cầu của cuộc sống hiện tại và cũng
chưa dự liệu được những nhu cầu mới phát
sinh trong tương lai. Điều này thể hiện:
- Nhu cầu thương lượng tập thể và ký
thỏa ước lao động tập thể trong phạm vi bộ
phận doanh nghiệp hiện nay là có thật. Tuy
nhiên, việc được hay không được phép tổ
chức thương lượng tập thể và ký kết thỏa
ước lao động tập thể bộ phận doanh nghiệp
đang là câu hỏi để ngỏ trong quy định của
BLLĐ. Mặc dù trong một số tài liệu giảng
dạy chuyên ngành luật3 có viết là thương
lượng tập thể và ký thỏa ước tập thể có thể
diễn ra trong phạm vi bộ phận doanh nghiệp;
trong khi đó cũng có quan điểm cho rằng,
pháp luật không cấm thì được làm, nhưng
xét ở phương diện pháp lý thì ai sẽ là chủ thể
được công nhận “chính danh” đại diện cho
mỗi bên tham gia thương lượng tập thể và
ký thỏa ước tập thể bộ phận doanh nghiệp?
Nếu một thỏa ước bộ phận doanh nghiệp
được ký kết nhưng NSDLĐ (doanh nghiệp)
không chấp nhận thì hậu quả pháp lý của nó
như thế nào? Khi làm thủ tục gửi hồ sơ thỏa
ước bộ phận doanh nghiệp liệu Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội có quyền từ chối
tiếp nhận hay không?... Đây chính là nguyên
nhân dẫn đến những cách hiểu và áp dụng
pháp luật khác nhau trên thực tế, gây nhiều
khó khăn, phiền hà cho các bên liên quan.
- Nhu cầu ký thỏa ước lao động tập thể
nhóm doanh nghiệp, thỏa ước tập thể khu
công nghiệp, khu chế xuất, thỏa ước vùng
cũng là có thật4, thậm chí với những phân
tích nêu trên về sự khó khăn trong việc triển
khai thỏa ước tập thể ngành thì xu hướng nổi
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 21(373) T11/2018
lên lại là ký thỏa ước lao động tập thể nhóm
doanh nghiệp, thỏa ước tập thể khu chế xuất,
khu công nghiệp Tuy nhiên, toàn bộ quy
định của BLLĐ năm 2012 và các văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành hiện
nay chưa có quy định nào về vấn đề này,
ngoài một quy định chung về loại thỏa ước
lao động tại khoản 1 Điều 73 BLLĐ năm
2012 (Thỏa ước lao động tập thể gồm thỏa
ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước
lao động tập thể ngành và hình thức thỏa
ước lao động tập thể khác do Chính phủ quy
định).
Bốn là, các quy định về thương lượng
tập thể mặc dù được coi là một sự tiến bộ
vượt bậc của BLLĐ năm 2012, nhưng so với
yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường thì quy
định này lại là khá chậm. QHLĐ hình thành
trên cơ sở thỏa thuận được chính thức thừa
nhận rộng rãi ở nước ta kể từ khi Pháp lệnh
Hợp đồng lao động năm 1990 có hiệu lực thi
hành, đặc biệt là từ khi BLLĐ được thông
qua ngày 23/6/1994. Tuy nhiên, phải đến
BLLĐ năm 2012, thương lượng tập thể mới
được chính thức quy định. Các văn bản quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành BLLĐ năm
2012 về thương lượng tập thể còn chậm hơn:
ngày 12/01/2015 Chính phủ mới ban hành
Nghị định số 05/2015/NĐ-CP (chậm gần 2
năm so với yêu cầu), ngày 31/7/2015 Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội mới ban
hành Thông tư số 29/2015/TT-BLĐTBXH
(chậm hơn 2 năm so với thời điểm BLLĐ
năm 2012 có hiệu lực thi hành).
Việc chậm trễ quy định về thương
lượng tập thể và chậm trễ trong việc ban
hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành đã làm hạn chế tính đồng bộ của
pháp luật về thương lượng tập thể, gây khó
khăn, lúng túng và thiếu thống nhất trong
quá trình tổ chức thực hiện, làm hạn chế
hiệu quả điều chỉnh pháp luật.
Năm là, nếu cho rằng, mục đích của
thương lượng tập thể chỉ là ký kết thỏa ước
lao động tập thể, vô hình chung đã làm
giảm ý nghĩa và tầm quan trọng của thương
lượng tập thể. Thực tiễn đời sống lao động
đã chứng minh, ký kết thỏa ước lao động
tập thể chỉ là một dạng kết quả, có thể là kết
quả quan trọng bậc nhất của thương lượng
tập thể. Ngoài ra, thương lượng tập thể còn
có thể mang đến nhiều kết quả khác, như:
sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động; ban
hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản nội bộ
của NSDLĐ quy định quyền lợi, nghĩa vụ
của NLĐ mà không phải thỏa ước lao động
tập thể (nội quy lao động, các loại quy chế,
bộ quy tắc ứng xử); giải quyết nội dung
của tranh chấp lao động tập thể các loại, giải
quyết đình công Vì vậy, chúng ta cần nhìn
nhận một cách khách quan hơn ý nghĩa của
thương lượng tập thể trong quá trình tổ chức
thực hiện pháp luật.
3. Một số khuyến nghị
Một là, cần đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công
tác xây dựng pháp luật; khẩn trương thực
hiện chủ trương xây dựng pháp luật thực
sự là hoạt động chuyên nghiệp, có bộ máy
chuyên trách xây dựng pháp luật.
Hai là, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung
một số quy định của BLLĐ năm 2012 nhằm
bảo đảm tốt hơn sự toàn diện, đồng bộ, thống
nhất, phù hợp và khả thi của các quy định
pháp luật về thương lượng tập thể ở nước ta.
Cụ thể là:
- Bổ sung quy định về thương lượng
tập thể ở những phạm vi khác phạm vi
doanh nghiệp và ngành (thương lượng tập
thể nhóm doanh nghiệp, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu vực).
- Sửa đổi quy định về mục đích thương
lượng tập thể (Điều 66 BLLĐ năm 2012).
Cần sửa đổi Điều 66 BLLĐ năm 2012
theo hướng quy định đầy đủ hơn về mục đích
của thương lượng tập thể (thương lượng tập
thể là quyền của các bên để giải quyết bất kỳ
vấn đề gì phát sinh trong QHLĐ, bao gồm
cả việc ký kết, sửa đổi, bổ sung thỏa ước lao
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 21(373) T11/2018
động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động,
giải quyết đình công). Trên cơ sở đó sửa
đổi, bổ sung các quy định khác có liên quan.
- Sửa đổi quy định về nguyên tắc
thương lượng tập thể (Điều 67 BLLĐ năm
2012).
Hiện tại, nguyên tắc thương lượng tập
thể được quy định tại Điều 67 BLLĐ năm
2012. Trong đó nội dung quy định tại khoản
2, khoản 3 Điều này không phải là những
vấn đề mang tính nguyên tắc (khoản 2 quy
định về hình thức hoặc ký thương lượng tập
thể; khoản 3 quy định về địa điểm thương
lượng tập thể). Vì vậy, nên đưa khoản 2,
khoản 3 ra khỏi Điều 67 và nên quy định
thành một điều riêng hoặc đưa về các điều
khác cho phù hợp hơn.
- Sửa đổi quy định về nội dung thương
lượng tập thể (Điều 70 BLLĐ năm 2012).
Do Điều 70 BLLĐ năm 2012 quy định
chưa rõ quyền của các bên trong lựa chọn
nội dung thương lượng tập thể, vì vậy, khi
áp dụng Điều 70 BLLĐ năm 2012 trên thực
tế có hai cách hiểu khác nhau: cách hiểu
thứ nhất cho rằng, với quy định tại Điều 70
BLLĐ năm 2012 thì phải hiểu là trong bất
kỳ cuộc thương lượng tập thể nào, hai bên
phải thương lượng đủ các nội dung đã quy
định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 70 BLLĐ;
cách hiểu thứ hai cho rằng, mặc dù khoản 1,
2, 3, 4 Điều 70 BLLĐ năm 2012 quy định
như vậy nhưng trên thực tế các bên có thể
thương lượng đủ các nội dung này hoặc chỉ
thương lượng về một hoặc một số nội dung
mà các bên đang có vướng mắc, đang thực
sự quan tâm, thậm chí chỉ thương lượng các
nội dung khác thuộc quy định tại khoản 5
Điều 70 BLLĐ.
Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ hai hợp
lý hơn, nó phù hợp với bản chất của thương
lượng, với yêu cầu thực tiễn của QHLĐ, nhu
cầu thực sự của các bên và mang lại ý nghĩa
đích thực của thương lượng tập thể. Vì vậy,
Điều 70 cần được sửa đổi theo hướng quy
định rõ quyền của các bên trong việc lựa
chọn các nội dung thương lượng tập thể.
- Sửa đổi quy định về đại diện các bên
tham gia thương lượng tập thể (Điều 69
BLLĐ năm 2012).
Sửa đổi Điều 69 BLLĐ năm 2012
theo hướng quy định rõ nguyên tắc, điều
kiện, tiêu chí... để lựa chọn người đại diện
của mỗi bên tham gia thương lượng tập thể,
nhất là trong trường hợp có nhiều tổ chức
đại diện của các bên trong phạm vi thương
lượng tập thể. Ngoài ra, quy định về đại diện
của tập thể lao động cần được sửa đổi cho
phù hợp với cam kết của Việt Nam tại Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương - CPTPP (đa tổ chức đại diện
NLĐ).
- Sửa đổi quy định về trách nhiệm của
tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện NSDLĐ
và cơ quan quản lý nhà nước về lao động
trong thương lượng tập thể (Điều 72 BLLĐ
năm 2012).
Hiện tại Điều 72 BLLĐ năm 2012 quy
định chung về trách nhiệm của tổ chức công
đoàn, tổ chức đại diện NSDLĐ và cơ quan
quản lý nhà nước về lao động trong thương
lượng tập thể. Theo chúng tôi, quy định như
vậy chưa hợp lý, vì mỗi cơ quan, tổ chức
có chức năng, nhiệm vụ riêng, phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của mình thì mỗi cơ
quan, tổ chức sẽ có trách nhiệm chung và
những trách nhiệm riêng đối với thương
lượng tập thể. Do vậy, cần sửa đổi Điều 72
BLLĐ năm 2012 theo hướng có khoản quy
định về trách nhiệm chung của các cơ quan,
tổ chức trên, có một số khoản quy định trách
nhiệm riêng của từng cơ quan, tổ chức.
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung các quy
định có liên quan trực tiếp đến thương lượng
tập thể.
Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất
của pháp luật, việc sửa đổi, bổ sung các quy
định về thương lượng tập thể phải đi đôi với
việc sửa đổi, bổ sung các quy định khác có
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 21(373) T11/2018
liên quan trong BLLĐ và các văn bản quy
phạm pháp luật khác, cụ thể như sau:
- Quy định về tổ chức đại diện của
NLĐ.
Hiện nay, tổ chức đại diện duy nhất
của NLĐ trong QHLĐ là công đoàn thuộc
hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam. Quy định này không còn phù hợp
với Hiệp định CPTPP mà Việt Nam đã phê
chuẩn. Để đảm bảo thực hiện cam kết của
mình trong Hiệp định này, các quy định về
đại diện NLĐ cần phải sửa đổi theo hướng,
bổ sung quy định về đại diện khác của NLĐ
không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam.
- Khẩn trương ban hành Luật về Hội
để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thành
lập và hoạt động của tổ chức đại diện NLĐ
không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam và tổ chức đại diện của
NSDLĐ.
- Bổ sung các quy định về đại diện của
NSDLĐ trong BLLĐ.
- Sửa đổi các quy định về thỏa ước lao
động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động
tập thể, đình công, nhất là những quy định
về phạm vi ký kết thỏa ước lao động tập thể,
phạm vi tranh chấp lao động tập thể và phạm
vi đình công nhằm đảm bảo thống nhất với
phạm vi thương lượng tập thể sau khi sửa đổi.
Bốn là, sớm phê chuẩn các công ước
của ILO về thương lượng tập thể (Công ước
số 87 và Công ước số 98); chuẩn bị triển khai
thực hiện CPTTP; tham khảo kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật về thương lượng tập
thể của các nước khác trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về thương lượng tập thể.
Năm là, cần chú trọng khâu tổ chức
thực hiện pháp luật để pháp luật về thương
lượng tập thể có tính khả thi.
Hoàn thiện pháp luật, nếu hiểu theo
nghĩa đầy đủ, không chỉ là khâu xây dựng
pháp luật, mà còn bao gồm cả khâu tổ chức
thực hiện. Bởi vì, nếu khâu tổ chức thực hiện
không tốt thì dù bản thân văn bản quy phạm
pháp luật có tốt đến đâu thì nó cũng không
đi vào cuộc sống hoặc đi vào cuộc sống một
cách không hiệu quả, từ đó làm giảm hiệu
quả của toàn hệ thống pháp luật nói chung.
Vì vậy, cần chú trọng khâu tổ chức
thực hiện khi pháp luật về thương lượng tập
thể có hiệu lực thi hành, từ khâu phổ biến,
tuyên truyền, hướng dẫn triển khai thực hiện
đến khâu kiểm tra, giám sát và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về thương lượng
tập thể và xử lý trách nhiệm của các chủ thể
liên quan.
Sáu là, về kỹ thuật lập pháp.
- Nghiên cứu sắp xếp lại vị trí các quy
định về thương lượng tập thể trong BLLĐ
để đảm bảo thể hiện đúng và đủ mục đích
của thương lượng tập thể, đồng thời giải
quyết được mối quan hệ của thương lượng
tập thể với đối thoại tại nơi làm việc, thỏa
ước lao động tập thể, giải quyết tranh chấp
lao động, đình công, tổ chức đại diện của
NLĐ, tổ chức đại diện của NSDLĐ và các
nội dung có liên quan khác.
- Các quy định về thương lượng tập
thể trong BLLĐ cần cụ thể, tránh ban hành
nhiều văn bản quy định chi tiết. Trường hợp
nhất thiết phải quy định chi tiết thì cần tuân
thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015, đảm bảo văn bản
quy định chi tiết có hiệu lực cùng ngày với
BLLĐ sửa đổi.
- Rà soát, sửa lại tất cả các quy định
sử dụng thuật ngữ chưa rõ ràng, thiếu chặt
chẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau■
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 21(373) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_thuong_luong_tap_the.pdf