Bên cạnh đó, theo quy định thì hồ sơ
phân loại ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện do Bộ
Nội vụ thẩm định, hồ sơ phân loại ĐVHC
cấp xã do Sở Nội vụ thẩm định. Vì các chỉ
tiêu để phân loại ĐVHC liên quan đến nhiều
ngành, lĩnh vực, do đó, cần trao thẩm quyền
thẩm định này cho Hội đồng thẩm định (do
Bộ Nội vụ đề xuất đối với Hội đồng thẩm
định phân loại ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện21;
do Sở Nội vụ đề xuất đối với Hội đồng thẩm
định phân loại ĐVHC cấp xã22).
Ngoài ra, việc quyết định phân loại
ĐVHC cấp xã mặc dù trao thẩm quyền cho
Chủ tịch UBND cấp tỉnh, nhưng để bảo đảm
tính chặt chẽ trong quy trình, thiết nghĩ cần
quy định sau khi Hội đồng thẩm định cấp
tỉnh thẩm định và báo cáo Chủ tịch UBND
cấp tỉnh thì UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Nội
vụ cho ý kiến về kết quả thẩm định này.
Đồng thời quy định Bộ Nội vụ phải có văn
bản phản hồi về kết quả thẩm định của Hội
đồng thẩm định cấp tỉnh (trong tường hợp
cần thiết, Bộ Nội vụ có thể thành lập Hội
đồng thẩm định để thẩm định lại kết quả
thẩm định của địa phương).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành chính ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIÊU CHUẨN, THẨM QUYỀN,
THỦ TỤC PHÂN LOẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
Tóm tắt:
Ngày 25/5/2016 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban Nghị quyết số
1211/2016/UBTVQH13 quy định về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ
tục phân loại đơn vị hành chính. Nghị quyết đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc phân loại đơn vị hành chính ở nước ta theo tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015. Tuy nhiên, để bảo đảm cho hoạt động phân loại đơn vị hành
chính được tiến hành một cách hợp lý, khoa học, phù hợp với thực
tế, một số quy định của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 vẫn
cần được tiếp tục hoàn thiện.
Nguyễn Đặng Phương Truyền*
* ThS. Học viện Hành chính Quốc gia - Cơ sở TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
The Standing Committee of the National Assembly issued the
Resolution No. 1211/2016/ UBTVQH13 dated May 25, 2016
with regulations on criterion, delegated authority and procedures
for classification of administrative units in accordance with
the Constitution of 2013 and the Law on Organization of Local
Administration of 2015. with other legal documents stipulate
the establishment and classification of administrative units in our
country at present. However, it is to ensure the classification of
administrative units to be carried out in a proper and scientific
manner under the current circumtance, a number of provisions of
the Resolution No. 1211/2016/ UBTVQH13 need to be reviewed
for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ
tục; phân loại; đơn vị hành chính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 04/02/2018
Biên tập : 11/05/2018
Duyệt bài : 16/05/2018
Article Infomation:
Keywords: criterion, delegated
authority, procedure; classification;
administrative units.
Article History:
Received : 04 Feb. 2018
Edited : 11 May 2018
Approved : 16 May 2018
1. Quy định về các đơn vị hành chính
Ở nước ta, các bản Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
1 Xem Điều 57 Hiến pháp 1946, Điều 78 Hiến pháp 1959, Điều 113 Hiến pháp 1980, Điều 118 Hiến pháp 1992, Điều
110 Hiến pháp 2013
năm 2001), Hiến pháp năm 20131 đều có
quy định về các đơn vị hành chính (ĐVHC).
Hiến pháp năm 2013 quy định nước ta
chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 6(382) T3/2019
ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành
phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung
ương chia thành quận, huyện, thị xã và ĐVHC
tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn;
thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường;
ngoài ra còn có đơn vị hành chính - kinh
tế (HC-KT) đặc biệt. Như vậy, Hiến pháp
năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
về các ĐVHC nhằm bảo đảm sự thống nhất,
đồng bộ, ổn định trong cấu trúc các ĐVHC
ở nước ta; đồng thời, bổ sung quy định về
đơn vị HC-KT đặc biệt và bổ sung ĐVHC
thuộc thành phố trực thuộc trung ương -
ĐVHC này tương đương với quận, huyện,
thị xã và thành phố thuộc tỉnh (ĐVHC tương
đương này được Luật Tổ chức chính quyền
địa phương (CQĐP) quy định là thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương)2.
Việc quy định thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương là ĐVHC tương
đương với các ĐVHC cấp huyện là bước tiến
trong quy định của Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, khắc phục
hạn chế, bất cập trong thực tiễn thiết lập
các ĐVHC ở nước ta trước đây3. Tuy nhiên,
bất cập hiện nay là mặc dù thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương là ĐVHC
2 Xem khoản 3, Điều 4 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015
3 Ví dụ như trường hợp trước đây, do quy định về thiết lập các ĐVHC chưa hoàn thiện nên chúng ta phải chuyển thành
phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây. Ngày 02/8/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2007/NĐ-CP thành lập thành
phố Sơn Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các ĐVHC trực thuộc của thị xã Sơn Tây (thuộc tỉnh
Hà Tây). Tuy nhiên sau đó thực hiện chủ trương mở rộng Hà Nội, ngày 29/5/2008 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
15/2008/QH12 hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội. Tuy nhiên Hiến pháp 1992 tại thời điểm này quy
định trong thành phố trực thuộc thuộc trung ương chỉ có thể chia thành quận, huyện, thị xã. Do đó ngày 08/5/2009
Chính phủ ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây. Đây là vấn đề chưa từng
có trong tiền lệ thiết lập ĐVHC. Bởi lẽ trước khi trở thành thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây thì Sơn Tây đã là thị
xã Sơn Tây. Sau đó Sơn Tây được Chính phủ cho phép chuyển thành thành phố Sơn Tây. Do việc nhập tỉnh Hà Tây vào
Hà Nội mà theo Hiến pháp 1992 thì trong thành phố Hà Nội không thể có thành phố nên phải chuyển thành phố Sơn
Tây trở lại thành thị xã Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội.
4 Trên thực tế, ở các thành phố trực thuộc trung ương vẫn chưa thành lập bất kỳ thành phố nào.
5 Xem Điều 110 Hiến pháp năm 2013.
6 Thực tế quy định của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu
chuẩn của ĐVHC và phân loại ĐVHC thì có thể “ngầm hiểu” trong thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương
có các ĐVHC cấp xã (xem Điều 5 và Điều 8 Nghị quyết).
tương đương quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi chung là ĐVHC cấp huyện)
đã được quy định chính thức4, nhưng các
quy định của pháp luật hiện hành hoàn toàn
không quy định thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương có các ĐVHC cấp
xã nào bên trong hay không. Trong khi đó,
Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể
trong huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã
và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường
và xã; quận chia thành phường5.
Có ý kiến cho rằng Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015
không có quy định thì thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương có thể không có
bất kỳ ĐVHC cấp xã nào bên trong. Cũng có
ý kiến cho rằng, dù Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 không có quy
định nhưng thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương vẫn phải có các ĐVHC cấp
xã bên trong6. Điều này dẫn đến khó khăn
trong thực tiễn thành lập các ĐVHC thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Một ví dụ điển hình trường hợp của thị xã
Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội, giả sử Hà
Nội thành lập “thành phố” Sơn Tây thuộc
thành phố Hà Nội thì điều này phù hợp Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức CQĐP năm
2015 vì trong thành phố trực thuộc trung
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 6(382) T3/2019
ương có thể thành lập thành phố. Tuy nhiên
trong “thành phố” Sơn Tây có những ĐVHC
cấp xã nào là điều cần phải có quy định cụ
thể mới thực hiện được. Thực tế hiện nay,
trong thị xã Sơn Tây có 15 ĐVHC cấp xã (9
phường và 6 xã). Vậy khi thành lập “thành
phố” Sơn Tây thì phải tổ chức các đơn vị
xã, phường trong “thành phố” Sơn Tây hay
phải tổ chức thành các đơn vị phường hay tổ
chức thành các đơn vị phường, thị trấn? Đây
là vấn đề cần phải được làm rõ. Bởi lẽ, bên
trong các ĐVHC cấp huyện (quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh) chia thành các
ĐVHC cấp xã như thế nào thì đã được quy
định cụ thể nhưng đối với thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương lại chưa có
quy định.
2. Quy định về tiêu chuẩn phân loại các
đơn vị hành chính
Việc phân loại ĐVHC ở nước ta trước
đây được quy định riêng đối với các ĐVHC
cấp tỉnh, cấp huyện và quy định riêng đối
với cấp xã. Theo đó, đối với cấp tỉnh và cấp
huyện thực hiện theo quy định của Nghị
định số 15/2007/NĐ-CP ngày 26/01/2007
của Chính phủ và Thông tư số 05/2007/
TT-BNV ngày 21/6/2007 của Bộ Nội vụ.
Đối với cấp xã thực hiện theo Nghị định
số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ và Thông tư số 05/2006/TT-BNV
ngày 30/5/2006 của Bộ Nội vụ. Các văn bản
này đều quy định việc phân loại các ĐVHC
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo 3 chỉ tiêu:
(1) dân số; (2) Diện tích tự nhiên; (3) Các
yếu tố đặc thù.
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 quy
định việc phân loại ĐVHC phải dựa trên
các chỉ tiêu: (1) quy mô dân số; (2) diện tích
tự nhiên; (3) số ĐVHC trực thuộc; (4) trình
độ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH); (5)
7 Xem khoản 2, Điều 3 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
8 Chỉ tiêu về trình độ KT-XH có các yếu tố thành phần, chỉ tiêu về yếu tố đặc thù.
9 Xem Khoản 1, Mục I Thông tư 05/2007/TT-BNV.
các yếu tố đặc thù của từng loại ĐVHC ở
nông thôn, đô thị, hải đảo7. Tuy nhiên, xét
trên thực tế không phải tất cả các ĐVHC
khi phân loại đều dựa trên 5 chỉ tiêu này.
Bởi lẽ chỉ tiêu số ĐVHC trực thuộc chỉ có
thể áp dụng đối với các ĐVHC cấp tỉnh,
cấp huyện. Do đó, Nghị quyết 1211/2016/
UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội cũng quy định cụ thể về các chỉ tiêu khi
phân loại các ĐVHC. So với quy định trước
đây thì quy định mới đã bổ sung thêm chỉ
tiêu về số ĐVHC trực thuộc và tiêu chí về
trình độ phát triển KT-XH và cách tính điểm
một cách chi tiết đối với từng chỉ tiêu cũng
như các yếu tố thành phần của chỉ tiêu8. Quy
định này góp phần quan trọng vào việc phân
loại các ĐVHC một cách thống nhất và có
hiệu quả hơn.
Tuy nhiên qua xem xét các chỉ tiêu
được quy định tại Nghị quyết 1211/2016/
UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, chúng tôi thấy có một số vấn đề cần
phải tiếp tục quan tâm làm rõ:
Thứ nhất, về chỉ tiêu quy mô dân số
Trước đây theo Thông tư 05/2007/TT-
BNV thì chỉ tiêu quy mô dân số ở các ĐVHC
cấp tỉnh, cấp huyện quy định lấy số liệu dân
số tự nhiên trên địa bàn đến hết ngày 31/12
của năm liền kề với năm phân loại. Số liệu
dân số này do cơ quan thống kê cấp tỉnh và
cấp huyện cung cấp. Các trường hợp mới
chia tách, sáp nhập, thành lập ĐVHC sau
ngày 31/12 của năm liền kề với năm phân
loại, thì lấy số liệu dân số theo Nghị quyết
của Quốc hội đối với ĐVHC cấp tỉnh hoặc
Nghị định của Chính phủ về chia tách, sáp
nhập, thành lập mới ĐVHC cấp huyện9. Còn
đối với các ĐVHC cấp xã theo hướng dẫn
của Thông tư 05/2006/TT-BNV thì dân số
được xác định nhân khẩu đã có đăng ký hộ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 6(382) T3/2019
khẩu thường trú và nhân khẩu đã đăng ký
tạm trú thường xuyên từ một năm trở lên10.
Như vậy trước đây cách hướng dẫn xác định
quy mô dân số ở các ĐVHC cấp tỉnh, cấp
huyện khác với xác định quy mô dân số ở
các đơn vị hành cấp xã. Theo chúng tôi, việc
xác định quy mô dân số dựa vào số liệu công
bố của cơ quan thống kê là phù hợp. Bởi lẽ
chỉ tiêu dân số luôn có trong chỉ tiêu thống
kê của các ĐVHC được quy định và chỉ tiêu
dân số này được thu thập theo khái niệm
“nhân khẩu thực tế thường trú tại hộ”11.
Hiện nay, theo hướng dẫn của Nghị
quyết 1211/2016/UBTVQH13 thì chỉ tiêu
này được xác định gồm dân số thống kê
thường trú và dân số tạm trú đã quy đổi. Dân
số tạm trú từ 6 tháng trở lên được tính như
dân số thường trú, dưới 6 tháng quy đổi về
dân số tạm trú. Điều này có nghĩa rằng, quy
mô dân số địa phương được xác định trên cơ
sở dân số thường trú và dân số tạm trú. Theo
chúng tôi điều này cần xem xét vì quy mô
dân số của địa phương nên được xác định
theo quy định của pháp luật về thống kê thì
phù hợp hơn. Hiện nay trong số các chỉ tiêu
thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đã có
quy định về chỉ tiêu thống kê về quy mô dân
số. Do đó, nên quy định xác định quy mô
dân số trên cơ sở số liệu do cơ quan thống
kê công bố.
Thứ hai, về chỉ tiêu số ĐVHC trực
thuộc
Chỉ tiêu này chỉ có đối với việc phân
loại ĐVHC cấp tỉnh và cấp huyện. Trước
đây, số ĐVHC trực thuộc không phải là chỉ
tiêu độc lập để tiến hành phân loại ĐVHC.
Chỉ tiêu này được xem xét ở chỉ tiêu tính chất
đặc thù về số ĐVHC. Hiện nay, theo hướng
10 Xem tiểu mục 2.1.1, Mục I Thông tư 05/2006/TT-BNV.
11 Nhân khẩu thực tế thường trú tại hộ là những người những người thực tế thường xuyên cư trú tại hộ tính đến thời điểm
thống kê đã được 6 tháng trở lên, trẻ em mới sinh ra trước thời điểm thống kê và những người mới chuyển đến ở ổn
định tại hộ không phân biệt họ đã được đăng ký hộ khẩu thường trú hay chưa.
12 Lẽ dĩ nhiên phải quy định ĐVHC loại I nhiều điểm hơn ĐVHC loại II, loại III
13 Xem khoản 1 Điều 128 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015
dẫn của Nghị quyết 1211/2016/UBTVQH13
thì chỉ tiêu này là một trong năm chỉ tiêu để
xem xét phân loại ĐVHC. Theo đó, chỉ tiêu
này đối với từng ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện
được xem xét các ĐVHC trực thuộc và mức
điểm tối đa cho chỉ tiêu này là 10 điểm (tối
đa 6 điểm đối với việc tính số ĐVHC trực
thuộc và tối đa 4 điểm đối với việc tính tỷ lệ
ĐVHC đô thị trên tổng số ĐVHC cùng cấp).
Tuy nhiên, việc quy định cách tính
điểm chỉ tiêu này đơn thuần chỉ dựa vào số
lượng các ĐVHC trực thuộc là chưa phù
hợp. Theo chúng tôi, nên quy định số lượng
ĐVHC gắn với loại ĐVHC. Ví dụ quy định
đối với cấp tỉnh thì mỗi ĐVHC cấp huyện loại
I, ĐVHC loại II, ĐVHC loại III trực thuộc
được bao nhiêu điểm; tương tự đối với cấp
huyện thì quy định mỗi ĐVHC cấp xã loại I,
ĐVHC cấp xã loại II, ĐVHC cấp xã loại III
trực thuộc được bao nhiêu điểm12. Quy định
điểm số chỉ tiêu số ĐVHC trực thuộc không
nên chỉ dựa vào số lượng ĐVHC trực thuộc
mà phải xem ĐVHC trực thuộc đó được
xếp loại như thế nào và xét tính đặc thù đô
thị, nông thôn của ĐVHC. Quy định này sẽ
góp phần hiện thực hoá chủ trương “khuyến
khích việc nhập các ĐVHC cùng cấp”13 mà
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã xác định.
Bởi lẽ, khi sáp nhập các ĐVHC cùng cấp
thì diện tích, dân số của ĐVHC sau khi sáp
nhập sẽ tăng lên và ĐVHC sau khi sáp nhập
dễ đạt các tiêu chí ĐVHC loại I, II. Đồng
thời quy định này cũng phù hợp với việc xác
định điểm số khi tính tỷ lệ ĐVHC đô thị trên
tổng số ĐVHC cùng cấp.
Do đó, chỉ tiêu số ĐVHC trực thuộc
không đơn thuần chỉ là tính số lượng ĐVHC
trực thuộc mà phải gắn với loại ĐVHC và
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 6(382) T3/2019
gắn với tính chất đô thị, nông thôn của các
ĐVHC trực thuộc này.
Thứ ba, về chỉ tiêu trình độ phát triển
KT-XH
Trước đây, trình độ phát triển KT-XH
chưa được xác định là chỉ tiêu để tiến hành
phân loại ĐVHC. Nghị định số 15/2007/NĐ-
CP và Nghị định số 159/2005/NĐ- CP của
Chính phủ đều quy định yếu tố đặc thù của
ĐVHC thông qua “tỷ lệ thu ngân sách bình
quân hàng năm”. Nghị quyết 1211/2016/
UBTVQH13 làm rõ chỉ tiêu trình độ phát
triển KT-XH trên cơ sở của các yếu tố thành
phần của chỉ tiêu. Các yếu tố này khá cụ thể,
chi tiết giúp việc đánh giá trình độ KT-XH
chính xác, toàn diện hơn.
Theo chúng tôi, để đánh giá về trình
độ KT-XH của ĐVHC cấp tỉnh cần xem xét
bổ sung thêm các yếu tố như: các yếu tố
liên quan đến lực lượng lao động (tỷ lệ lao
14 Trong các yếu tố chỉ mới đề cập đến tỷ lệ lao động qua đào tạo.
động có việc làm, tỷ lệ lao động thiếu việc
làm)14; các yếu tố liên quan đến số lượng các
cơ sở hành chính, số hộ kinh tế cá thể, số
doanh nghiệp; các yếu tố liên quan đến công
nghệ thông tin và truyền thông (tỷ lệ người
dân sử dụng điện thoại, tỷ lệ người dân sử
dụng internet); yếu tố liên quan nhà ở của
người dân (số lượng nhà ở, diện tích nhà ở
bình quân đầu người)
Các yếu tố để đánh giá về trình độ KT-
XH của tỉnh và thành phố trực thuộc trung
ương về cơ bản giống nhau, chỉ khác ở yếu
tố số 5 (tỷ lệ huyện đạt chuẩn nông thôn
mới đối với tỉnh và tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp đối với thành phố trực thuộc trung
ương). Theo quan điểm chúng tôi, cần xem
xét để đảm bảo việc tính điểm một cách phù
hợp. Cần làm rõ hơn sự khác biệt giữa các
yếu tố trong tính điểm giữa tỉnh và thành
phố trực thuộc trung ương.
Bảng 1. Các yếu tố đánh giá trình độ KT-XH của ĐVHC cấp tỉnh
STT Tỉnh Thành phố trực thuộc trung ương
1 Tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia về
ngân sách trung ương
Tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia
về ngân sách trung ương
2 Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
3 Thu nhập bình quân đầu người Thu nhập bình quân đầu người
4 Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế
5 Tỷ lệ huyện đạt chuẩn nông thôn mới Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
6 Tỷ lệ lao động qua đào tạo Tỷ lệ lao động qua đào tạo
7 Tỷ lệ giường bệnh trên một vạn dân Tỷ lệ giường bệnh trên một vạn dân
8 Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân
9 Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 6(382) T3/2019
Tương tự, để đánh giá về trình độ KT-
XH của ĐVHC cấp huyện, cần xem xét bổ
sung thêm các yếu tố như: các yếu tố liên
quan đến lực lượng lao động (tỷ lệ lao động
có việc làm, tỷ lệ lao động thiếu việc làm)15;
các yếu tố liên quan đến số lượng các cơ sở
hành chính, số hộ kinh tế cá thể, số doanh
nghiệp; các yếu tố liên quan đến công nghệ
thông tin và truyền thông (tỷ lệ người dân
sử dụng điện thoại, tỷ lệ người dân sử dụng
internet), yếu tố liên quan nhà ở của người
dân (số lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình
quân đầu người) ở cấp huyện.
15 Trong các yếu tố chỉ mới đề cập đến tỷ lệ lao động qua đào tạo.
16 Các ĐVHC quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đều đánh giá yếu tố
“Tỷ lệ số hộ dân cư được dùng nước sạch”. Trong khi đó đối với huyện lại không có. Theo chúng tôi, ĐVHC huyện
cũng phải được đánh giá yếu tố này.
Ngoài ra, đối với cấp huyện, cần xem
xét bổ sung yếu tố tỷ lệ người dân được
sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh16 và tỷ lệ
người dân sử dụng hố xí hợp về sinh (vì đây
là các chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến mức
sống dân cư).
Tương tự, để đánh giá về trình độ KT-
XH của ĐVHC cấp xã cần xem xét bổ sung
thêm các yếu tố như: các yếu tố liên quan
đến lực lượng lao động (tỷ lệ lao động có
việc làm, tỷ lệ lao động thiếu việc làm, tỷ lệ
lao động qua đào tạo); các yếu tố liên quan
đến số lượng các cơ sở hành chính, số hộ
Bảng 2. Các yếu tố đánh giá trình độ KT-XH của ĐVHC cấp huyện
STT Huyện Quận
Thành phố thuộc tỉnh
và Thành phố thuộc
thành phố trực thuộc
trung ương
Thị xã
1 Cân đối thu, chi ngân
sách địa phương
Cân đối thu, chi
ngân sách địa
phương
Cân đối thu, chi ngân
sách địa phương
Cân đối thu, chi
ngân sách địa
phương
2 Tỷ trọng công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ
Tỷ trọng công
nghiệp, xây
dựng và dịch vụ
Tỷ trọng công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ
Tỷ trọng công
nghiệp, xây
dựng và dịch vụ
3 Tỷ lệ xã trực thuộc đạt
chuẩn nông thôn mới
Tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp
Tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp
4 Tỷ lệ lao động qua đào
tạo
Tỷ lệ lao động
qua đào tạo
Tỷ lệ lao động qua đào
tạo
Tỷ lệ lao động
qua đào tạo
5 Tỷ lệ ĐVHC cấp xã
trực thuộc đạt tiêu chí
quốc gia về y tế
Tỷ lệ phường
đạt tiêu chí
quốc gia về y tế
Tỷ lệ ĐVHC cấp xã
trực thuộc đạt tiêu chí
quốc gia về y tế
Tỷ lệ ĐVHC cấp
xã trực thuộc đạt
tiêu chí quốc gia
về y tế
6 Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo
7 Tỷ lệ số hộ dân
cư được dùng
nước sạch
Tỷ lệ số hộ dân cư
được dùng nước sạch
Tỷ lệ số hộ dân
cư được dùng
nước sạch
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 6(382) T3/2019
kinh tế cá thể, số doanh nghiệp; các yếu tố
liên quan đến công nghệ thông tin và truyền
thông (tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại,
tỷ lệ người dân sử dụng internet) ở cấp
xã, yếu tố liên quan nhà ở của người dân
(số lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình quân
đầu người) Ngoài ra, đối với cấp xã cần
xem xét bổ sung yếu tố tỷ lệ người dân được
sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh17 và tỷ lệ
người dân sử dụng hố xí hợp vệ sinh (vì đây
là các chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến mức
sống dân cư).
Thứ tư, về chỉ tiêu các yếu tố đặc thù
Theo chúng tôi, cần nghiên cứu xem
xét bổ sung thêm các yếu tố đặc thù liên
quan như: ĐVHC có cửa khẩu quốc tế; tỷ lệ
tín đồ theo tôn giáo ở ĐVHC
3. Quy định về thẩm quyền, thủ tục phân
loại đơn vị hành chính
Hiện nay, Nghị quyết 1211/2016/
UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định thẩm quyền phân loại ĐVHC
như sau: Thủ tướng Chính phủ quyết định
17 Các ĐVHC xã, phường, thị trấn đều đánh giá yếu tố “Tỷ lệ số hộ dân cư được dùng nước sạch”. Trong khi đó đối với
xã lại không có. Theo chúng tôi, ĐVHC xã cũng phải được đánh giá yếu tố này.
18 Riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh mặc nhiên được công nhận là ĐVHC loại đặc biệt theo Luật định.
19 Đây cũng là vấn đề mà Luật về Đơn vị HC-KT đặc biệt cần quan tâm.
20 Trình Thủ tướng quyết định nếu là ĐVHC cấp tỉnh, trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ nếu là ĐVHC cấp huyện, trình Chủ tịch
UBND cấp tỉnh nếu là ĐVHC cấp xã.
công nhận phân loại ĐVHC cấp tỉnh18; Bộ
trưởng Bộ Nội vụ quyết định công nhận phân
loại ĐVHC cấp huyện; Chủ tịch UBND cấp
tỉnh quyết định công nhận phân loại ĐVHC
cấp xã. Tuy nhiên, hiện nay thẩm quyền, tiêu
chí phân loại các đơn vị HC-KT đặc biệt
vẫn chưa được quy định19. Về trình tự, thủ
tục phân loại các ĐVHC được quy định cụ
thể tại Điều 26, Điều 27, Điều 28 của Nghị
quyết 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Như vậy, theo quy định, hồ sơ phân
loại ĐVHC cấp nào phải được UBND cấp
đó chuẩn bị và trình Hội đồng nhân dân
(HĐND) cùng cấp thông qua trước khi trình
chủ thể có thẩm quyền quyết định20. Tuy
nhiên, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 không
quy định thẩm quyền của HĐND thông qua
hồ sơ phân loại ĐVHC trước khi trình chủ
thể có thẩm quyền quyết định. Trong khi đó,
Luật lại có quy định các vấn đề HĐND phải
thông qua trước khi trình chủ thể có thẩm
quyền quyết định. Vậy quy định về hồ sơ
về phân loại ĐVHC có nhất thiết phải trình
Bảng 3. Các yếu tố đánh giá trình độ KT-XH của ĐVHC cấp xã
STT Xã Phường Thị trấn
1 Cân đối được thu,
chi ngân sách địa
phương
Cân đối được thu, chi ngân
sách địa phương
Cân đối được thu, chi ngân
sách địa phương
2 Xã nông thôn mới Tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp
Tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp
3 Tiêu chí quốc gia về y tế Tiêu chí quốc gia về y tế
4 Tỷ lệ số hộ dân cư được
dùng nước sạch
Tỷ lệ số hộ dân cư được dùng
nước sạch
5 Tỷ lệ hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 6(382) T3/2019
HĐND thông qua hay không? Theo chúng
tôi, nếu cần thông qua HĐND thì phải bổ
sung quy định về việc HĐND thông qua hồ
sơ phân loại ĐVHC trước khi trình chủ thể
có thẩm quyền quyết định. Ngoài ra, khi quy
định điều này cũng cần lưu ý, giả sử HĐND
cùng cấp thông qua Nghị quyết đồng ý kết
quả phân loại ĐVHC nhưng khi trình lên
chủ thể có thẩm quyền thì kết quả thẩm định
các tiêu chí lại có sự khác biệt so với hồ sơ
trình của địa phương thì phải xử lý thế nào.
Trường hợp vấn đề này không cần thông qua
HĐND tức là vấn đề này trao thẩm quyền
cho UBND trình thì có thể bỏ qua quy định
phải trình HĐND thông qua.
Bên cạnh đó, theo quy định thì hồ sơ
phân loại ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện do Bộ
Nội vụ thẩm định, hồ sơ phân loại ĐVHC
cấp xã do Sở Nội vụ thẩm định. Vì các chỉ
tiêu để phân loại ĐVHC liên quan đến nhiều
21 Hội đồng này cần có đại diện của các Bộ, ngành có liên quan đến các chỉ tiêu đánh giá.
22 Hội đồng này ngoài đại diện các Sở, ngành của địa phương cần quy định có đại diện của Bộ Nội vụ.
ngành, lĩnh vực, do đó, cần trao thẩm quyền
thẩm định này cho Hội đồng thẩm định (do
Bộ Nội vụ đề xuất đối với Hội đồng thẩm
định phân loại ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện21;
do Sở Nội vụ đề xuất đối với Hội đồng thẩm
định phân loại ĐVHC cấp xã22).
Ngoài ra, việc quyết định phân loại
ĐVHC cấp xã mặc dù trao thẩm quyền cho
Chủ tịch UBND cấp tỉnh, nhưng để bảo đảm
tính chặt chẽ trong quy trình, thiết nghĩ cần
quy định sau khi Hội đồng thẩm định cấp
tỉnh thẩm định và báo cáo Chủ tịch UBND
cấp tỉnh thì UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Nội
vụ cho ý kiến về kết quả thẩm định này.
Đồng thời quy định Bộ Nội vụ phải có văn
bản phản hồi về kết quả thẩm định của Hội
đồng thẩm định cấp tỉnh (trong tường hợp
cần thiết, Bộ Nội vụ có thể thành lập Hội
đồng thẩm định để thẩm định lại kết quả
thẩm định của địa phương).
Bảng 3. Các yếu tố đặc thù trong phân loại ĐVHC
Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã
- Đối với tỉnh: tỷ lệ
dân số là người dân
tộc thiểu số; tỷ lệ số
ĐVHC cấp huyện có
đường biên giới
- Đối với TP trực
thuộc trung ương: tỷ
lệ dân số tạm trú quy
đổi
- Đối với huyện: tỷ lệ dân số là
người dân tộc thiểu số; tỷ lệ ĐVHC
cấp xã trực thuộc có đường biên
giới; huyện nghèo
- Đối với quận: tỷ lệ dân số tạm
trú quy đổi
- Đối với thị xã;thành phố thuộc
tỉnh; thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương: tỷ lệ dân
số tạm trú quy đổi; thành phố
thuộc tỉnh vùng cao hoặc miền
núi; tỷ lệ ĐVHC cấp xã có đường
biên giới; tỷ lệ dân số là người dân
tộc thiểu số.
- Đối với xã: tỷ lệ dân số là
người dân tộc thiểu số; xã đặc
biệt khó khăn; xã an toàn khu;
Có di tích quốc gia đặc biệt
hoặc có di sản được UNESCO
công nhận;
- Đối với phường, thị trấn: tỷ
lệ dân số là người dân tộc thiểu
số; tỷ lệ dân số tạm trú quy đổi;
phường/thị trấn vùng cao hoặc
miền núi; phường/thị trấn an
toàn khu; Có di tích quốc gia
đặc biệt hoặc có di sản được
UNESCO công nhận;
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 6(382) T3/2019
Việc phân loại các ĐVHC sẽ liên quan
trực tiếp đến việc hoạch định chính sách phát
triển KT-XH; xây dựng tổ chức bộ máy, chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của
CQĐP. Cho nên việc thẩm định hồ sơ phân
loại là vấn đề quan trọng quyết định đến chất
lượng của quyết định phân loại. Do đó cần
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định về
thẩm quyền, quy trình thẩm định một cách
chặt chẽ, đầy đủ hơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ, Thông tư số 05/2006/TT-BNV ngày 30/5/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định số 159/2005/NĐ-
CP ngày 27/12/2005
2. Bộ Nội vụ, Thông tư số 05/2007/TT-BNV ngày 21/6/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 15/2007/NĐ-CP
ngày 26/01/2007
3. Chính phủ, Nghị định số 15/2007/NĐ-CP ngày 26/01/2007về phân loại ĐVHC cấp tỉnh, cấp huyện
4. Chính phủ, Nghị định số 159/2005/NĐ- CP ngày 27/12/2005 về phân loại ĐVHC cấp xã
5. Đại học Quốc gia Hà Nội, Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, NXB Chính trị
Quốc gia, 2016
6. Nguyễn Cửu Việt, Tổ chức đơn vị hành chính - lãnh thổ: cơ sở của cải cách hành chính địa phương, Tạp chí
Khoa học Pháp lý số 2 (57) năm 2010, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
7. Quốc hội, Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
8. Quốc hội, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015
9. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 về tiêu chuẩn của
ĐVHC và phân loại đơn vị hành chính.
ứng được yêu cầu tăng cường trách nhiệm
công vụ của người bị kiện trong TTHC. Để
khắc phục hạn chế này, pháp luật TTHC cần
quy định người bị kiện có nghĩa vụ sửa đổi
hoặc huỷ bỏ quyết định, danh sách cử tri bị
kiện; dừng hành vi bị kiện; khắc phục hậu
quả của quyết định, danh sách, hành vi bị
kiện trong trường hợp không có đủ tài liệu,
chứng cứ để chứng minh các quyết định,
hành vi, danh sách này hoàn toàn hợp pháp.
Thứ năm, để bảo đảm việc chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật về trách
nhiệm công vụ của người bị kiện, pháp luật
TTHC hiện hành cần quy định: Toà án có
trách nhiệm kiến nghị, các đương sự khác
có quyền đề nghị cơ quan, người có thẩm
quyền xử lý kỷ luật đối với người bị kiện,
người đại diện của người bị kiện vi phạm
trách nhiệm công vụ trong TTHC.
Tóm lại, xuất phát từ tính đặc thù của
người bị kiện mà cần thiết phải quy định và
bảo đảm thực hiện trách nhiệm công vụ của
họ trong TTHC. Những quy định của pháp
luật TTHC về vấn đề này chưa thực sự đầy
đủ và hợp lý. Do đó, việc hoàn thiện pháp
luật TTHC nhằm bảo đảm tăng cường trách
nhiệm công vụ của nền hành chính quốc gia
nói chung và của người bị kiện trong TTHC
nói riêng, qua đó góp phần kiểm soát hữu
hiệu hoạt động công vụ của nền hành chính
quốc gia và bảo đảm thực chất sự bình đẳng
giữa các đương sự trong TTHC là hết sức
cần thiết
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM ...
(Tiếp theo trang 14)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_phap_luat_ve_tieu_chuan_tham_quyen_thu_tuc_phan_l.pdf