Về việc hủy bỏ và thay thế biện pháp
ngăn chặn
Chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định tại
Điều 125 BLTTHS năm 2015 về hủy bỏ hoặc
thay thế biện pháp ngăn chặn theo hướng sau
đây:
- Khoản 1 bổ sung quy định về việc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong
trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình
chỉ vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với bị
can, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
- Khoản 2 bổ sung thêm nhóm chủ thể
có thẩm quyền hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
bao gồm các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra và sửa
đổi cụm từ “biện pháp tạm giữ” thành cụm từ
“việc gia hạn tạm giữ” để đảm bảo phù hợp
với quy định tại Điều 118 BLTTHS năm 2015.
Tóm lại, việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự là một nhu cầu
khách quan xuất phát từ thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự. Với tính chất là một lĩnh vực
pháp luật trực tiếp phát hiện và đấu tranh
với tội phạm - hành vi nguy hiểm nhất cho
xã hội, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong trường hợp cần thiết
nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành
vi phạm tội, ngăn chặn kẻ phạm tội cố tình
lẩn trốn, cố tình gây khó khăn cho quá trình
điều tra, truy tố, xét xử và quá trình thi hành
án hình sự. Trong phạm vi bài viết của mình,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015
về vấn đề này, nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng của việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn trên thực tiễn thi hành.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
1. Những hạn chế, bất cập trong quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về biện pháp ngăn chặn
1.1. Về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Nhóm biện pháp ngăn chặn được quy
định tại Chương VII “Biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế” của BLTTHS năm
2015. Theo Điều 109, biện pháp ngăn chặn
bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm
hoãn xuất cảnh.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự trước hết phải tuân thủ chặt
chẽ các quy định về căn cứ áp dụng, trên cơ
sở đảm bảo nguyên tắc “Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân” (Điều 8 BLTTHS năm 2015);
nguyên tắc “Bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể” (Điều 10 BLTTHS năm
2015). Theo quy định tại khoản 1 Điều 109
BLTTHS năm 2015, cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng chỉ được phép áp
dụng biện pháp ngăn chặn khi có các căn
cứ sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; khi
có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để đảm bảo thi hành án. Mỗi biện
pháp ngăn chặn có thể vận dụng một hoặc
nhiều căn cứ, tùy thuộc vào tính chất của
biện pháp ngăn chặn đó. Ví dụ: Biện pháp
ngăn chặn “giữ người trong trường hợp
khẩn cấp” áp dụng trong trường hợp có căn
cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng 1 (điểm a, khoản
1 Điều 110). Như vậy, căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn trong trường hợp này là để
kịp thời ngăn chặn tội phạm. Trong khi đó,
biện pháp ngăn chặn tạm giam có thể được
áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị
cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp
tục phạm tội (khoản 2 Điều 119 BLTTHS
năm 2015).
* Tiến sĩ, Khoa Pháp luật hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015...
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRẦN THỊ LIÊN*
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự cần phải được quy định chặt chẽ về căn cứ,
trình tự, thủ tục áp dụng vì đó là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có thể tác động
đến quyền con người, quyền công dân. Bài viết phân tích các bất cập trong quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về biện pháp ngăn chặn, từ đó đề xuất một số
kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về vấn đề này.
Từ khoá: Biện pháp ngăn chặn, tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Ngày nhận bài: 15/5/2020; Biên tập xong: 08/6/2020; Duyệt đăng: 10/8/2020.
Preventive measures in criminal proceedings need to be strictly prescribed on the
applied grounds, procedures and formalities since they are coercive measures of the State
that can affect human rights and citizen rights. The paper sheds light on inadequacies
of the 2015 Criminal Procedures Code on preventive measures, then suggests some
solutions to perfect the 2015 CrPC’s provisions on this matter.
Keywords: Preventive measures, criminal procedures, the 2015 Criminal Procedures Code.
TRẦN THỊ LIÊN
29Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 109 quy định
cả ba căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong một cụm từ là “khi có căn cứ chứng tỏ
người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội
hoặc để bảo đảm thi hành án”. Việc quy định
cả ba căn cứ trong một cụm từ như trên là
không hợp lý vì đối tượng áp dụng biện
pháp ngăn chặn được nêu trong căn cứ này
là “người bị buộc tội”; trong khi căn cứ thứ
ba “để đảm bảo thi hành án” không chỉ áp
dụng đối với người bị buộc tội mà còn áp
dụng với đối tượng là người bị kết án.
Tách riêng quy định này, đây là ba căn
cứ độc lập: i) khi có căn cứ chứng tỏ người
bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử; ii) khi có căn cứ chứng
tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội; iii)
để đảm bảo thi hành án. Căn cứ “để đảm
bảo thi hành án” là một trong các căn cứ để
áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, biện pháp tạm giam và một số biện
pháp ngăn chặn khác. Cụ thể, khoản 2 Điều
329 BLTTHS năm 2015 quy định “Trường
hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử
phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành
hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, đối tượng áp dụng biện pháp bắt
tạm giam khi bản án đã có hiệu lực pháp
luật phải là người bị kết án chứ không còn
là bị cáo nữa. Tương tự, khoản 3 Điều 347
BLTTHS năm 2015 quy định “Đối với bị cáo
không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì Hội
đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị
cáo ngay sau khi tuyên án.” Bản án của Tòa án
cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án1 nên việc áp dụng biện pháp
tạm giam trong trường hợp này áp dụng với
người bị kết án phạt tù chứ không phải là
với bị cáo. Mặt khác, theo quy định tại Điều
391 BLTTHS năm 2015, ở giai đoạn xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
Hội đồng giám đốc thẩm cũng có quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn với người đã bị
kết án khi có căn cứ cho rằng cần phải tiếp
tục tạm giam họ. Do đó, với tính chất là một
1 Khoản 2 Điều 355 BLTTHS năm 2015.
điều luật quy định căn cứ chung áp dụng
cho tất cả các biện pháp ngăn chặn, nếu
khoản 1 Điều 109 chưa quy định về căn cứ
áp dụng đối với người bị kết án nhằm đảm
bảo thi hành án thì việc quy định về việc áp
dụng biện pháp tạm giam đối với người bị
kết án ở giai đoạn xét xử và giai đoạn xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
như quy định tại Điều 329, Điều 347 và Điều
391 BLTTHS năm 2015 là không phù hợp và
thống nhất. Thực tiễn cho thấy, ngay trong
biểu mẫu của ngành Tòa án cũng không có
biểu mẫu nào áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giam đối với người bị kết án2.
Bên cạnh đó, khoản 1 và khoản 2, Điều
109 BLTTHS năm 2015 đều đề cập đến cùng
một biện pháp ngăn chặn là biện pháp “bắt
người” nhưng giữa hai khoản của điều luật
lại có sự mâu thuẫn với nhau về tên gọi
của biện pháp này. Khoản 1 Điều 109 dùng
thuật ngữ “bắt” nhưng khoản 2 Điều 109
quy định cụ thể về các trường hợp bắt lại
sử dụng thuật ngữ là “bắt người”. Biện pháp
bắt người quy định tại khoản 2 Điều 109
bao gồm: biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội
quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị
can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu
cầu dẫn độ. Các biện pháp bắt người này
được quy định cụ thể tại các Điều 110 (Giữ
người trong trường hợp khẩn cấp), Điều
111 (Bắt người phạm tội quả tang), Điều
112 (Bắt người đang bị truy nã), Điều 113
(Bắt bị can, bị cáo để tạm giam) và Điều 503
(Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ).
Tuy nhiên, tên gọi của một số biện pháp
ngăn chặn không thống nhất với quy định
tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015. Cụ
thể, biện pháp “Bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp” không được quy định trong
một điều luật cụ thể. Điều 110 quy định
về biện pháp “Giữ người trong trường hợp
2 Xem: Danh mục 60 biểu mẫu trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của BLTTHS (Ban hành kèm theo Nghị
quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 9 năm 2017
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015...
30 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
khẩn cấp” nhưng trong đó bao gồm cả biện
pháp “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp”. Điều 503 quy định về biện pháp “bắt
tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ” chứ không
phải là “bắt người bị yêu cầu dẫn độ” như quy
định tại khoản 2 Điều 109.
Những lỗi kĩ thuật lập pháp nêu trên có
ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều chỉnh
quy định về các biện pháp ngăn chặn cụ thể
và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Ví dụ, mặc dù khoản 2 Điều 109 BLTTHS
năm 2015 quy định về biện pháp bắt người
bị yêu cầu dẫn độ và Điều 503 cũng quy định
biện pháp “bắt tạm giam người bị yêu cầu
dẫn độ”, nhưng trong biểu mẫu tố tụng của
cả ba cơ quan tiến hành tố tụng đều không
đề cập đến quyết định tố tụng áp dụng biện
pháp ngăn chặn này31.
1.2. Về các biện pháp ngăn chặn cụ thể
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định cụ
thể về biện pháp ngăn chặn, chúng tôi cho
rằng BLTTHS năm 2015 còn một số điểm
bất cập như sau:
Thứ nhất, quy định về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp tại Điều
110 BLTTHS năm 2015 còn có điểm chưa
thống nhất và mâu thuẫn với một số quy
định khác trong BLTTHS năm 2015. Mặc dù
tên của điều luật là biện pháp “giữ người
trong trường hợp khẩn cấp” nhưng trong
đó quy định cả biện pháp “bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp”, trong khi
đây là hai biện pháp ngăn chặn riêng biệt.
“Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” là
3 Xem: Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017
của Bộ công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách
về điều tra hình sự; Danh mục mẫu văn bản tố tụng,
văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra
và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-
VKSTC ngày 09 tháng 01 năm 2017 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao); Danh mục 60 biểu mẫu
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án
và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP
ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao).
một biện pháp ngăn chặn độc lập, còn “bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”
là một trường hợp bắt cụ thể của biện pháp
ngăn chặn độc lập khác là “bắt người”42.
Như vậy, trong một điều luật đã quy định
cả hai biện pháp ngăn chặn, nhưng tên gọi
lại chỉ thể hiện một biện pháp ngăn chặn là
“giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Do
vậy, nếu giữ nguyên tên gọi của Điều 110 là
“giữ người trong trường hợp khẩn cấp” thì
cần phải có một điều luật độc lập quy định
về việc “bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp”, hoặc tên của Điều 110 BLTTHS
năm 2015 phải thể hiện rõ cả hai biện pháp
này thì mới đảm bảo sự thống nhất trong
quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện
pháp ngăn chặn.
Mặt khác, việc quy định các thủ tục tiến
hành ngay sau khi giữ người trong trường
hợp khẩn cấp cũng không phù hợp và thống
nhất với các quy định về việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác. Cụ thể, khoản 4 Điều
110 BLTTHS năm 2015 quy định ngay sau
khi ra lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã ra lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp hoặc Cơ
quan điều tra tiếp nhận người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp phải lấy lời khai ngay
và phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt
người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người
đó. Như vậy, ngay sau khi ra lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều
tra phải ra quyết định tạm giữ rồi mới ra
lệnh bắt người này. Điều 59 và Điều 117
BLTTHS năm 2015 cũng quy định biện pháp
tạm giữ áp dụng đối với người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ là
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Rõ
ràng, nếu thực hiện lệnh bắt sau khi đã có
quyết định tạm giữ thì người bị bắt không
phải là người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp nữa, mà đã là người bị tạm giữ.
Đối chiếu các điều luật này với nhau,
có thể thấy rõ sự không phù hợp trong việc
4 Vũ Gia Lâm, Biện pháp ngăn chặn “Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp” theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát, số 01/2019, tr.20
TRẦN THỊ LIÊN
31Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
sắp xếp thứ tự các hoạt động mà Cơ quan
điều tra phải thực hiện ngay sau khi giữ
người trong trường hợp khẩn cấp hoặc tiếp
nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp. Cần phải xác định rõ, việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp là tiền đề để
“chờ” Viện kiểm sát phê chuẩn hay không
phê chuẩn lệnh bắt họ, ngay sau khi ra
lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
thì cần phải ra lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp rồi mới ra quyết định
tạm giữ. Khi đó, quyết định bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp mới chính xác và
phù hợp với mục đích tạm giữ là để kiểm
tra, xác minh nhân thân của đối tượng và
xác định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với họ.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giữ tại khoản 2
Điều 117 BLTTHS năm 2015 không phù hợp
với thực tiễn áp dụng và mâu thuẫn với quy
định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm
2015. Khoản 2 Điều 117 quy định những
người có thẩm quyền ra lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp thì có quyền ra
quyết định tạm giữ nhưng lại không loại trừ
chủ thể không phải là người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng như chỉ huy tàu bay, tàu
biển (điểm c, khoản 2 Điều 110). Chỉ huy tàu
bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi
sân bay, bến cảng là người có quyền quyết
định cao nhất trong việc đảm bảo an toàn
cho hành khách và những người có mặt trên
tàu bay, tàu biển nên họ có quyền ra lệnh
giữ người trong trường hợp khẩn cấp là
phù hợp. Tuy nhiên, các chủ thể này không
thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ
được bởi họ không phải là những chủ thể
được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động tố
tụng chuyên trách, họ cũng không có cách
thức để áp dụng được biện pháp ngăn chặn
tạm giữ trên tàu bay, tàu biển phù hợp với
quy định tại Điều 117 và Luật tạm giữ, tạm
giam năm 2015.
Mặt khác, khoản 4 Điều 110 cũng quy
định rất rõ: Chỉ huy tàu bay, tàu biển được
áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp khi tàu bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng, nhưng sau đó họ
phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu
liên quan đến việc giữ người trong trường
hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có
sân bay hoặc bến cảng đầu tiên trở về chứ
họ cũng không có thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ. Vì vậy, việc không loại trừ thẩm
quyền ra quyết định tạm giữ của chỉ huy
tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng trong quy định tại
khoản 2 Điều 117 vừa mâu thuẫn với quy
định tại khoản 4 Điều 110, vừa không phù
hợp với hoạt động thực tế của chỉ huy tàu
bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng.
Thứ ba, việc quy định về thẩm quyền và
đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
bị can, bị cáo để tạm giam và biện pháp tạm
giam chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều
113, Điều 119 BLTTHS năm 2015, đối tượng
áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam và biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo
(người đã bị khởi tố về hình sự). Tuy nhiên,
căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 329, khoản
3 Điều 347 và Điều 391, đối tượng áp dụng
biện pháp này không chỉ là bị can, bị cáo mà
còn bao gồm cả người bị kết án. Đối chiếu
với quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật tạm
giữ, tạm giam năm 2015 cũng quy định rõ:
“Người bị tạm giam là người đang bị quản
lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giam, gia hạn tạm giam theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị
cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án
tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp
luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị
tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”. Bởi
biện pháp tạm giam có thể áp dụng đối với
cả người bị kết án nên việc quy định thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam như
quy định của BLTTHS sẽ có điểm không
hợp lý, cụ thể như sau:
Theo Điều 119 BLTTHS năm 2015,
những người có thẩm quyền áp dụng biện
pháp tạm giam bao gồm Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng,
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015...
32 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án và Hội đồng xét xử.
Tuy vậy, căn cứ quy định tại Điều 391, chủ
thể áp dụng biện pháp tạm giam còn bao
gồm cả Hội đồng giám đốc thẩm. Cũng có
ý kiến cho rằng, việc quy định Hội đồng
xét xử có thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam đã bao gồm cả Hội
đồng giám đốc thẩm nên không cần phải
quy định thêm chủ thể là Hội đồng giám
đốc thẩm nữa. Tuy nhiên, cần phải nhận
thức rõ giám đốc thẩm không phải là một
cấp xét xử. Việc xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm mang tính chất kiểm tra, xem xét
tính hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ
án, phát hiện những vi phạm pháp luật để
khắc phục, bảo đảm tính hợp pháp của các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án, không phải thủ tục xét xử. Vì vậy,
quan điểm đồng nhất thuật ngữ Hội đồng
xét xử với Hội đồng giám đốc thẩm trong
quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam là không hợp lý.
Thứ tư, việc quy định đối tượng áp dụng
biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh
tại các điều 121, 122, 123, 124 BLTTHS năm
2015 không có sự thống nhất. Cụ thể: Khoản
1 Điều 121 quy định biện pháp bảo lĩnh là
biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam và
áp dụng đối với bị can, bị cáo (trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử) và khoản 3
Điều 121 quy định rõ nghĩa vụ của bị can, bị
cáo được bảo lĩnh. Tuy nhiên, khoản 5 Điều
121 quy định về thời hạn bảo lĩnh lại xác
định đối tượng áp dụng biện pháp này bao
gồm cả người bị kết án phạt tù và chỉ duy
nhất khoản 5 Điều 121 đề cập đến đối tượng
là người bị kết án phạt tù (Thời hạn bảo lĩnh
đối với người bị kết án phát tù không quá
thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời
điểm người đó đi chấp hành án phạt tù).
Vậy khi được áp dụng biện pháp bảo lĩnh,
người bị kết án phạt tù có phải thực hiện các
nghĩa vụ như quy định tại khoản 3 Điều 121
hay không, bởi khoản 3 Điều 121 chỉ quy
định “Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm
giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:”
mà không đề cập đến đối tượng là người bị
kết án. Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận
bảo lĩnh cho người bị kết án vi phạm nghĩa
vụ đã cam đoan thì có áp dụng quy định
tại khoản 6 Điều 121 hay không, vì khoản 6
Điều 121 cũng chỉ đề cập đến “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo
vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan”. Tương
tự, các biện pháp ngăn chặn khác như biện
pháp đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi
cư trú, tạm hoãn xuất cảnh quy định tại các
điều 122, 123 và 124 cũng không có sự thống
nhất trong việc quy định đối tượng áp dụng
giống như biện pháp bảo lĩnh.
1.3. Về việc hủy bỏ hoặc thay thế biện
pháp ngăn chặn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 125
BLTTHS năm 2015, mọi biện pháp ngăn
chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi
thuộc một trong các trường hợp: a) Quyết
định không khởi tố vụ án hình sự; b) Đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; c) Đình chỉ điều
tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với
bị can; d) Bị cáo được Tòa án tuyên không
có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn
hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng
án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, khoản 2
Điều 125 cũng quy định, khi thấy không
còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện
pháp ngăn chặn khác thì Cơ quan tiến hành
tố tụng cũng có thể hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn đang áp dụng. Qua khảo sát thực
tiễn giải quyết án hình sự, chúng tôi nhận
thấy việc quy định về các trường hợp hủy
bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn còn
chưa bao quát hết tất cả các trường hợp. Với
trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình
chỉ vụ án, hiện nay chưa có quy định rõ các
biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với
bị can, bị cáo sẽ được xử lý như thế nào.
Ví dụ: Cơ quan điều tra áp dụng lệnh
bắt bị can để tạm giam với đối tượng A. Tuy
nhiên, khi thực hiện lệnh bắt tại nơi ở, Cơ
quan điều tra đã không bắt được đối tượng
vì đối tượng đã bỏ trốn khỏi địa phương,
TRẦN THỊ LIÊN
33Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị
can. Hết thời hạn điều tra vẫn không bắt
được đối tượng, Cơ quan điều tra ra quyết
định tạm đình chỉ điều tra. Một thời gian
sau, A đã bị bắt theo quyết định truy nã, vụ
án được phục hồi và Cơ quan điều tra ra
lệnh tạm giam A. Vấn đề đặt ra là lệnh bắt
bị can để tạm giam vẫn còn tồn tại trong hồ
sơ vụ án sẽ được giải quyết như thế nào?
Rõ ràng, lệnh bắt bị can để tạm giam trong
hồ sơ đó bị rơi vào tình trạng pháp lý “lơ
lửng”, không có quyết định hủy bỏ, cũng
không có quyết định thay thế biện pháp
ngăn chặn khác. Để giải quyết vướng mắc
này, việc bổ sung quy định về việc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với
trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình
chỉ vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với bị
can, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can là
hoàn toàn cần thiết.
Ngoài ra, ngay tại khoản 2 Điều 125 quy
định về các chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ
hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn cũng
chưa chính xác. Trong tố tụng hình sự, ngoài
ba cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn, còn có một số
chủ thể khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra cũng có thẩm
quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn. Tuy
nhiên, khoản 2 Điều 125 chỉ quy định ba cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền hủy
bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn. Vậy
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra có thể hủy
bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn hay
không? Ví dụ: Đồn biên phòng đã áp dụng
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp và ra quyết định tạm giữ rồi nhưng thấy
không cần thiết phải áp dụng nữa thì có thể
hủy bỏ biện pháp này không?
Mặt khác, khoản 2 Điều 125 cũng có lỗi
kĩ thuật lập pháp cần phải sửa đổi như quy
định đối với những biện pháp ngăn chặn
do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn
điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện
kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày
trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp
ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện
kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp
dụng biện pháp ngăn chặn này phải thông
báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy
bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.
Tuy nhiên, đối chiếu với quy định tại Điều
117 thì Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết
định tạm giữ mà chỉ phê chuẩn quyết định
gia hạn tạm giữ lần thứ nhất và quyết định
gia hạn tạm giữ lần thứ hai. Vì vậy, việc sử
dụng thuật ngữ như quy định tại khoản 2
Điều 125 là không chính xác và cần phải sửa
đổi để đảm bảo sự thống nhất trong các quy
định của BLTTHS năm 2015.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện
pháp ngăn chặn
2.1. Về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Trên cơ sở phân tích những hạn chế nêu
trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi Điều 109
BLTTHS năm 2015 theo hướng bổ sung đối
tượng áp dụng bao gồm cả người bị kết án và
sửa đổi một số thuật ngữ để đảm bảo thống
nhất với các quy định khác của BLTTHS năm
2015 về biện pháp ngăn chặn như sau:
“Điều 109. Các biện pháp ngăn chặn
1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo
đảm thi hành án với người bị kết án, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể
áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ, tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi
nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
2. Các trường hợp bắt người gồm bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt
người phạm tội quả tang, bắt người đang bị
truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt
tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ.”
2.2. Về các biện pháp ngăn chặn cụ thể
Thứ nhất, đối với biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp:
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015...
34 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
- Sửa tên của Điều 110 BLTTHS năm 2015
là “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”để phù
hợp với phạm vi điều chỉnh của điều luật.
- Sửa đổi thứ tự hoạt động mà Cơ quan
điều tra phải tiến hành sau khi giữ người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp để đảm bảo
hoạt động kế tiếp ngay sau khi giữ người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp là bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, sau đó
mới ra quyết định tạm giữ. Như vậy, việc
bắt người trong trường hợp này mới chính
xác là bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, còn nếu giữ nguyên quy định
như hiện hành thì vô hình chung, việc bắt
người trong trường hợp này là bắt người bị
tạm giữ, chứ không phải là bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ hai, về biện pháp ngăn chặn tạm giữ:
Khoản 2 Điều 117 cần bổ sung thêm cụm
từ “trừ những người quy định tại điểm c, khoản
2 Điều 110” để loại trừ thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ của chỉ huy tàu bay, tàu biển
khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng; đảm bảo thống nhất với quy định tại
khoản 4 Điều 110 và thực tiễn thi hành.
Thứ ba, về biện pháp bắt bị can, bị cáo để
tạm giam và biện pháp tạm giam:
- Sửa tên của Điều 113 là “Bắt bị can, bị
cáo, người bị kết án để tạm giam” bởi đối
tượng bị áp dụng biện pháp này bao gồm
người bị kết án.
- Điều 119 bổ sung thêm đối tượng áp
dụng biện pháp tạm giam là người bị kết án
phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án
chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ
thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện
việc dẫn độ.
- Khoản 5 Điều 119 quy định về nhóm
chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam cần bổ sung thêm cụm từ “và
khoản Điều 391” sau cụm từ “Những người
có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều
113” bởi căn cứ theo quy định tại Điều
391, Hội đồng giám đốc thẩm cũng có thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam.
Thứ tư, bổ sung quy định tại khoản 1,
khoản 2 các điều 121, 122, 123, 124 BLTTHS
năm 2015 cụm từ “người bị kết án phạt tù”
sau cụm từ “bị can, bị cáo” để đảm bảo quy
định thống nhất về đối tượng áp dụng biện
pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, đảm
bảo xác định đúng quyền và nghĩa vụ của
người bị kết án khi họ được áp dụng một
trong các biện pháp ngăn chặn này.
2.3. Về việc hủy bỏ và thay thế biện pháp
ngăn chặn
Chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định tại
Điều 125 BLTTHS năm 2015 về hủy bỏ hoặc
thay thế biện pháp ngăn chặn theo hướng sau
đây:
- Khoản 1 bổ sung quy định về việc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong
trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình
chỉ vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với bị
can, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
- Khoản 2 bổ sung thêm nhóm chủ thể
có thẩm quyền hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
bao gồm các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra và sửa
đổi cụm từ “biện pháp tạm giữ” thành cụm từ
“việc gia hạn tạm giữ” để đảm bảo phù hợp
với quy định tại Điều 118 BLTTHS năm 2015.
Tóm lại, việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự là một nhu cầu
khách quan xuất phát từ thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự. Với tính chất là một lĩnh vực
pháp luật trực tiếp phát hiện và đấu tranh
với tội phạm - hành vi nguy hiểm nhất cho
xã hội, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong trường hợp cần thiết
nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành
vi phạm tội, ngăn chặn kẻ phạm tội cố tình
lẩn trốn, cố tình gây khó khăn cho quá trình
điều tra, truy tố, xét xử và quá trình thi hành
án hình sự. Trong phạm vi bài viết của mình,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015
về vấn đề này, nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng của việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn trên thực tiễn thi hành./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_cua_bo_luat_to_tung_hinh_su_nam_2015_ve.pdf