Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên

Về việc chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên cần phân biệt hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, bị can, bị cáo có thể “mời” chính người đại diện hợp pháp của mình là người bào chữa, khi đó bị can, bị cáo không còn rơi vào trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa. Trường hợp thứ hai, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo quyết định tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa (tức lựa chọn chính mình) nhưng bị can, bị cáo chưa thành niên muốn cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể thực hiện việc chỉ định người bào chữa vì trường hợp này được xác định là bị can, bị cáo chưa thành niên đã có người bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng không phải thực hiện thủ tục chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS. Theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004, bị can, bị cáo chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ cùng có quyền lựa chọn người bào chữa. Vì vậy, nếu một chủ thể đã lựa người bào chữa, chủ thể khác lại có yêu cầu bào chữa chỉ định thì theo quan điểm của tác giả, để bảo đảm quyền lợi cho bị can, bị cáo chưa thành niên nếu bị can, bị cáo có yêu cầu, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chỉ định người bào chữa cho họ. Bị can, bị cáo sẽ có nhiều người cùng tham gia bào chữa. Cách giải quyết này không trái với quy định của pháp luật, tránh được tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng lợi dụng quy định của pháp luật cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp và né tránh luật sư đồng thời cũng bảo đảm quyền của bị can, bị cáo có thể có nhiều người bào chữa cho mình.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiªn cøu - trao ®æi t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 41 ThS. NguyÔn H¶i Ninh * ảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đối với những vụ án mà bị can, bị cáo chưa thành niên, pháp luật có những quy định riêng về bào chữa để quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể này được bảo vệ tốt nhất. Tuy nhiên, quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật luật sư và một số văn bản hướng dẫn hiện nay còn có những điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất gây khó khăn trong quá trình áp dụng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên. Những vấn đề này cần được sửa đổi, bổ sung hoặc có giải thích chính thức nhằm tạo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đồng thời là điều kiện để quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên được bảo đảm trên thực tế. Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung hoặc giải thích luật bao gồm: - Bổ sung quy định về việc xác định ai là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên,(1) những trường hợp không được công nhận là người đại diện hợp pháp để đảm bảo khi người đại diện hợp pháp “lựa chọn” chính mình là người bào chữa sẽ không gây thiệt hại cho bị can, bị cáo chưa thành niên. - Việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa (bao gồm cả giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên) thực hiện một lần và giấy chứng nhận có giá trị trong các giai đoạn tố tụng trừ trường hợp bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. - Nếu người đại diện hợp pháp tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo nhưng bị can, bị cáo vẫn có yêu cầu bào chữa chỉ định thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chỉ định người bào chữa cho họ. Các đề xuất trên được đưa ra dựa trên những phân tích cụ thể trong các phần sau. 1. Khoản 1 Điều 57 BLTTHS quy định: “Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ lựa chọn”. Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 57 BLTTHS, quyền lựa chọn người bào chữa thuộc về một trong các chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc đại diện hợp pháp của họ. Theo khoản 1 Điều 305 BLTTHS: “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị B * Giảng viên Khoa luật hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội nghiªn cøu - trao ®æi 42 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” và hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004: “Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền được lựa chọn người bào chữa”. Như vậy, theo Điều 305 BLTTHS và hướng dẫn trên, quyền lựa chọn người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên được quy định đồng thời cho các chủ thể là bị can, bị cáo chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ. Quyền này của các chủ thể là quyền độc lập. Khi lựa chọn người bào chữa, nếu giữa các chủ thể có mâu thuẫn thì cách thức giải quyết như sau: - Trường hợp người đại diện hợp pháp lựa chọn người bào chữa nhưng bị can, bị cáo không đồng ý và muốn lựa chọn người khác bào chữa cho mình thì hai chủ thể có thể trao đổi và thống nhất lựa chọn người bào chữa. Nếu giữa các chủ thể không thống nhất được với nhau và mỗi người vẫn muốn mời người mà mình lựa chọn tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì bị can, bị cáo chưa thành niên sẽ có nhiều người bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải cấp giấy chứng nhận bào chữa cho các chủ thể được mời nếu họ không rơi vào trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS vì “nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (khoản 3 Điều 56). - Trường hợp người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo “lựa chọn” chính mình là người bào chữa cho bị can, bị cáo trong khi bị can, bị cáo lại không muốn người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho mình (có thể do không yên tâm về trình độ pháp luật của người đại diện hợp pháp, có thể do người đại diện hợp pháp có những quyền lợi đi ngược lại với chính lợi ích của bị can, bị cáo) thì cơ quan tiến hành tố tụng có cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo hay không? Mặc dù không có quy định cụ thể trong BLTTHS nhưng căn cứ vào các quy định hiện hành của pháp luật, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên (vì quyền tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên là quyền độc lập của họ không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo chưa thành niên). Cách thức giải quyết trong tình huống nêu trên là đúng quy định của pháp luật nhưng trong một số trường hợp có thể không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên. Đó chính là trường hợp bị can, bị cáo chưa thành niên không đồng ý người đại diện hợp pháp bào chữa cho mình với lí do quyền lợi của họ sẽ không được bảo đảm vì mâu thuẫn về lợi ích. Xuất phát từ thực tế có thể người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tham gia tố nghiªn cøu - trao ®æi t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 43 tụng không vì lợi ích của bị can, bị cáo (do họ là người đại diện theo pháp luật) mà chỉ chính bị can, bị cáo mới biết được nên ngoài trường hợp bị can, bị cáo từ chối người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa còn có thể xảy ra trường hợp bị can, bị cáo không muốn họ là người đại diện hợp pháp của mình. Liên quan đến vấn đề này, trong Công văn của TANDTC số 117/2004/KHXX ngày 22/7/2004 lưu ý: “Cần nghiên cứu nắm chắc các quy định tại các điều 56 và 57 BLTTHS và những văn bản có liên quan để xác định đúng trường hợp nào thì được công nhận là người đại diện hợp pháp của bị cáo và được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo”. Như vậy, Công văn mới chỉ lưu ý để xác định “đúng” người đại diện hợp pháp của bị cáo còn chưa có giải thích, hướng dẫn cụ thể để đảm bảo khi tham gia tố tụng người đại diện hợp pháp sẽ vì lợi ích của người mà mình đại diện. Về vấn đề này có thể tham khảo pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài. Khoản 1 Điều 49 BLTTHS Cộng hoà Liên bang Nga(2) quy định: “Luật sư được tham gia tố tụng với tư cách của người bào chữa. Theo quyết định của toà án, bên cạnh luật sư thì một trong số những người họ hàng thân thích của bị can hoặc người khác theo yêu cầu của bị can có thể được chấp nhận là người bào chữa”; Điều 426 quy định: “1. Những người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên được tham gia vụ án trên cơ sở quyết định của kiểm sát viên, dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu từ thời điểm lấy lời khai người bị tình nghi lần đầu tiên với tư cách người bị tình nghi hoặc bị can 4. Người đại diện hợp pháp có thể bị từ chối tham gia vào vụ án nếu có căn cứ cho rằng hành vi của họ gây thiệt hại cho lợi ích của người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên”; khoản 2 Điều 428 quy định: “Theo quyết định của toà án, người đại diện hợp pháp có thể bị từ chối tham gia vào quá trình xét xử nếu có căn cứ cho rằng hành vi của họ gây thiệt hại cho lợi ích của người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên”. Việc xác định người không được công nhận là người đại diện hợp pháp được quy định trực tiếp trong BLTTHS tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên trong vụ án hình sự. Cũng có ý kiến cho rằng “không nên quy định người bào chữa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”(3) vì cho rằng những người này không hiểu phải vận dụng những quy định nào của pháp luật để thực hiện quyền bào chữa đồng thời các cơ quan tiến hành tố tụng cũng lợi dụng quy định này để cấp giấy chứng nhận tuỳ tiện cho người đại diện hợp pháp và là cái cớ để cơ quan tiến hành tố tụng né tránh luật sư. Tác giả không đồng ý với ý kiến trên bởi những lí do sau: Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng tuỳ tiện cấp giấy chứng nghiªn cøu - trao ®æi 44 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp với mục đích né tránh luật sư thì cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm của người tiến hành tố tụng bằng việc giáo dục ý thức trách nhiệm, bằng các biện pháp chế tài... và thậm chí cần phải sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định pháp luật.(4) Còn lí do không nên quy định người đại diện hợp pháp là người bào chữa do họ không có kiến thức cần thiết về pháp luật không có sức thuyết phục. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể mời người khác là luật sư bào chữa cho mình cùng với người đại diện hợp pháp. Trong nhiều trường hợp, họ muốn người đại diện hợp pháp bào chữa cho mình vì đó có thể là người hiểu họ nhất, sự tham gia của người đại diện hợp pháp tạo tâm lí tốt cho họ trong quá trình tố tụng. Mặt khác, tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp sẽ chấm dứt khi người mà họ đại diện thành niên, khi đó họ vẫn tham gia tố tụng cùng người họ bảo vệ quyền lợi hợp pháp với tư cách là người bào chữa. Vì vậy để bảo vệ được người chưa thành niên, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự đúng đắn vẫn nên quy định người bào chữa có thể là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Như vậy, để bảo đảm người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên cần bổ sung quy định về việc xác định ai là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên. Trong đó cần quy định rõ những trường hợp không được công nhận là người đại diện hợp pháp để trường hợp người đại diện hợp pháp “lựa chọn” chính mình là người bào chữa sẽ không gây thiệt hại cho bị can, bị cáo chưa thành niên. Bổ sung quy định về tư cách tố tụng của người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên tại Chương IV BLTTHS(5) đồng thời bổ sung quy định về trường hợp không được tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp, cụ thể như sau: “Điều 1. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có thể là 2. Người đại diện hợp pháp của của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất tham gia tố tụng theo quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. 3. Người đại diện hợp pháp có thể bị từ chối tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách này khi có căn cứ cho rằng việc họ tham gia tố tụng sẽ gây thiệt hại cho lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. 4. Quyền của người đại diện hợp pháp” 2. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể yêu cầu người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp quyết định tự mình tham gia bào nghiªn cøu - trao ®æi t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 45 chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ để họ thực hiện quyền bào chữa của mình. Nếu được cấp giấy chứng nhận, họ sẽ tham gia tố tụng với hai tư cách: người đại diện hợp pháp và người bào chữa. Hiện nay, các luật sư được mời tham gia bào chữa gặp nhiều khó khăn khi xin cấp giấy chứng nhận. Vì vậy có ý kiến cho rằng nên bỏ quy định về việc phải có giấy chứng nhận bào chữa. Về ý kiến này, quan điểm của tác giả như sau: Nếu luật quy định chỉ có luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì việc bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa là cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho các luật sư khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, ngoài luật sư còn có người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân cũng được luật quy định có thể tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, nếu không có giấy chứng nhận bào chữa, việc tham gia tố tụng của các chủ thể này sẽ gặp rất nhiều khó khăn (khi muốn gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam nếu không có giấy chứng nhận bào chữa thì phải có giấy tờ nào để họ có thể thực hiện được quyền này đồng thời không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án). Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa là bắt buộc trong mọi trường hợp. Người đại diện hợp pháp đã được cấp giấy chứng nhận bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên có phải xin cấp lại giấy chứng nhận bào chữa khi vụ án chuyển sang giai đoạn tố tụng khác hay không? Vấn đề này không chỉ được đặt ra đối với người bào chữa là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên mà còn được đặt ra trong cả trường hợp người bào chữa là luật sư, bào chữa viên nhân dân. Khoản 2 Điều 27 Luật luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư)”. Tại khoản 4 Điều 27 quy định: “Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”. Như vậy, theo quy định của Luật luật sư năm 2006, nếu người bào chữa là luật sư, giấy chứng nhận được cấp một lần và không cần cấp lại trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 27 Luật luật sư. Tuy nhiên, tại điểm b mục 1 phần II (về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo) Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn: “Trường hợp trong các giai đoạn tố tụng trước đó, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ đã có nhờ người bào chữa và nay vẫn tiếp tục nhờ người đó bào chữa thì cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người được nhờ bào chữa đó”. Mặc dù đã được cấp giấy chứng nhận bào chữa ở các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng khi toà án thụ nghiªn cøu - trao ®æi 46 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 lí hồ sơ vụ án toà án lại xét để cấp giấy chứng nhận khác. Trên thực tế ở mỗi giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử để gặp được bị can, bị cáo luật sư phải được từng cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án cấp giấy chứng nhận riêng mới thực hiện được các quyền quy định cho người bào chữa.(6) Cấp giấy chứng nhận nhiều lần với một người bào chữa trong một vụ án hình sự làm mất nhiều thời gian, là thủ tục không cần thiết, mâu thuẫn giữa Luật luật sư và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 cần phải tháo gỡ. Bên cạnh đó, cũng cần phải có quy định cụ thể vì nếu người bào chữa là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên việc cấp giấy chứng nhận nhiều lần sẽ còn gây nhiều phiền hà hơn nữa cho họ. Liên quan đến thời điểm xác định tư cách người bào chữa cần chỉnh sửa nội dung quy định tại khoản 4 Điều 56 trong BLTTHS. Khoản 4 Điều 56 quy định: “Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa”. Cần thay cụm từ “người bào chữa” trong quy định trên thành cụm từ “những người quy định tại khoản 1 của Điều này” mới chính xác vì thời điểm xin cấp giấy chứng nhận họ chưa phải là người bào chữa. 3. Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS, trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, nếu bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo. Khoản 2 Điều 305 BLTTHS cũng quy định: “Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”. Căn cứ vào các quy định trên, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa đối với bị can, bị cáo chưa thành niên khi một trong các chủ thể: bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp không mời người bào chữa. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 “trường hợp bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa và theo yêu cầu của toà án, văn phòng luật sư đã cử người bào chữa cho họ” thì cũng có thể hiểu cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa khi cả bị can, bị cáo chưa thành niên và người đại diện hợp pháp không mời người bào chữa hay nói cách khác cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa khi bị can, bị cáo chưa thành nghiªn cøu - trao ®æi t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 47 niên không có người bào chữa. Như vậy có thể nhận thấy sự thiếu thống nhất giữa quy định của BLTTHS và văn bản hướng dẫn của TANDTC trong việc thực thi quy định về chỉ định người bào chữa. Về việc chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên cần phân biệt hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, bị can, bị cáo có thể “mời” chính người đại diện hợp pháp của mình là người bào chữa, khi đó bị can, bị cáo không còn rơi vào trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa. Trường hợp thứ hai, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo quyết định tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa (tức lựa chọn chính mình) nhưng bị can, bị cáo chưa thành niên muốn cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể thực hiện việc chỉ định người bào chữa vì trường hợp này được xác định là bị can, bị cáo chưa thành niên đã có người bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng không phải thực hiện thủ tục chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS. Theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004, bị can, bị cáo chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ cùng có quyền lựa chọn người bào chữa. Vì vậy, nếu một chủ thể đã lựa người bào chữa, chủ thể khác lại có yêu cầu bào chữa chỉ định thì theo quan điểm của tác giả, để bảo đảm quyền lợi cho bị can, bị cáo chưa thành niên nếu bị can, bị cáo có yêu cầu, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chỉ định người bào chữa cho họ. Bị can, bị cáo sẽ có nhiều người cùng tham gia bào chữa. Cách giải quyết này không trái với quy định của pháp luật, tránh được tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng lợi dụng quy định của pháp luật cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp và né tránh luật sư đồng thời cũng bảo đảm quyền của bị can, bị cáo có thể có nhiều người bào chữa cho mình./. (1). Về vấn đề xác định ai là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành niên có thể tham khảo Đỗ Thị Phượng, “Kiến nghị bổ sung quy định về tư cách tố tụng của người đại diện hợp pháp và người bị kết án vào BLTTHS năm 2003”, Tạp chí luật học, số 7/2008. Tuy nhiên trong bài viết này, tác giả chỉ thuần tuý đề cập việc bổ sung tư cách tố tụng của chủ thể này, chưa đề cập việc không thừa nhận tư cách đại diện hợp pháp để đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên. (2). Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC, Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga (dịch từ nguyên bản tiếng Nga), Hà Nội, 2002. (3).Xem: Phạm Minh Tuyên “Một số vần đề về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 21/2007. (4). Tác giả đề cập cụ thể trong phần (3) của bài viết. (5).Xem: Đỗ Thị Phượng, Thủ tục tố tụng đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2009. (6). Thực tế hiện nay các luật sư phải xin cấp lại giấy chứng nhận bào chữa khi vụ án chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, làm mất nhiều thời gian. Xem: (Luật sư tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra, chuyện cũ như mới, tháng 10/2006); com/tintuc/view.asp? Trần Công Ly Tao, Sự phối hợp về trợ giúp pháp lí trong hoạt động tố tụng, tháng 3/2009.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_quy_dinh_cua_phap_luat_nham_bao_dam_quyen_bao_chu.pdf
Tài liệu liên quan