Thứ nhất, sửa đổi Luật Đất đai theo
hướng:
- Cho phép người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ở gắn với nhà ở ngoài dự
án phát triển nhà ở thông qua giao dịch đổi
nhà ở, nghĩa vụ tài chính trong trường hợp
này sẽ được xác định tương tự như trường
hợp hộ gia đình, cá nhân trong nước thực
hiện giao dịch mua bán nhà ở gắn liền với
đất ở;
- Công nhận quyền sử dụng đất nói
chung, quyền sử dụng đất ở nằm ngoài dự án
nhà ở nói riêng cho người Việt Nam định cư
ở nước ngoài trong trường hợp họ đã xác lập
quyền sử dụng đất hợp pháp vào thời điểm
trước đây. Có thể giải quyết theo một trong
các cách thức sau:
Cho phép người Việt Nam định cư ở
nước ngoài chuyển nhượng, tặng cho, để
thừa kế cho đối tượng đủ điều kiện sử dụng
đất theo quy định của pháp luật và phải thực
hiện các nghĩa vụ tài chính về đất đai theo
quy định của pháp luật trong trường hợp
người Việt Nam định cư ở nước ngoài không
đủ điều kiện sử dụng đất theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất hiện tại;
Nếu đất trước đây có nguồn gốc là được
Nhà nước giao đất có thu tiền, nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì
được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn sử
dụng đất còn lại mà không phải chuyển sang
thuê đất theo quy định của Luật Đất đai, khi
hết thời hạn sử dụng đất nếu được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền gia hạn theo quy
định thì phải chuyển sang thuê đất và phải
nộp tiền thuê đất, nhưng được giảm 50% tiền
sử dụng đất;
Nếu đất trước đây có nguồn gốc từ việc
được Nhà nước giao đất không thu tiền hoặc
được công nhận quyền sử dụng đất như giao
đất có thu tiền sử dụng đất thì được tiếp tục
sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn
lại mà không phải chuyển sang thuê đất, khi
hết thời hạn sử dụng đất nếu được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền gia hạn theo quy
định thì phải chuyển sang thuê đất và phải
nộp tiền thuê đất theo quy định pháp luật8.
Thứ hai, sửa đổi Luật Xây theo hướng
cho phép người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở, trong
trường hợp họ đã xác lập quyền sử dụng đất
hợp pháp vào thời điểm trước đây (không bị
khống chế bởi việc thửa đất đó có đang nằm
trong dự án phát triển nhà ở hay không)
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sử dụng đất ở, nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 4(404) - T2/202038 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, “Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận
không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam”1. Nguyên tắc Hiến định này khẳng
định, cộng đồng người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, luôn luôn vẫn là “người Việt
Nam” và đất nước Việt Nam vẫn chào đón
và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để họ
“giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê
hương, góp phần xây dựng quê hương, đất
nước”2. Luật Đất đai năm 2013 đã có những
quy định quan trọng về quyền và nghĩa vụ
sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại Việt Nam, qua đó đã tạo hành
1 Khoản 1 Điều 18 Hiến pháp năm 2013.
2 Khoản 2 Điều 18 Hiến pháp năm 2013.
hoÀn thiện quy định pháp LuẬt về quyền SỬ dỤng đất Ở,
nhÀ Ở cỦa người việt naM định cư Ở nưỚc ngoÀi
Trần Vang Phủ*
Trần Thụy Quốc Thái**
* Giảng viên, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ.
** Giảng viên, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quyền sử dụng đất ở, quyền sở
hữu nhà ở, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 21/11/2019
Biên tập : 12/12/2019
Duyệt bài : 16/12/2019
Article Infomation:
Keywords: residential land use right,
ownership of houses, the overseas
Vietnamese
Article History:
Received : 21 Nov. 2019
Edited : 12 Dec. 2019
Approved : 16 Dec. 2019
Tóm tắt:
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm cho rằng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vì vậy, việc hoàn thiện quy
định của pháp luật liên quan đến việc sử dụng đất ở nói riêng,
các loại đất khác nói chung cũng như tạo nhiều điều kiện thuận
lợi hơn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu, đầu
tư xây dựng nhà ở tại Việt Nam là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý
luận và thực tiễn nhằm khuyến khích người Việt Nam định cư
ở nước ngoài về đoàn tụ cùng gia đình cũng như đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam.
Abstract:
Our Party and Vietnamese government keep consistently a view
that the overseas Vietnamese are an integral part of the
Vietnamese community. Therefore, it is urgently required both
theoretically and practically to improve the legal regulations
related to the use of residential land in particular and other types
of lands in general as well as provision of more favorable
conditions for the overseas Vietnamese to own or purchase
housing as an investment in Vietnam so that it is to encourage
overseas Vietnamese to reunite with their families and to do
business in Vietnam.
39Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
lang pháp lý thuận lợi để thu hút cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài về
nước sinh sống, đầu tư, góp phần xây dựng
đất nước, gắn chặt hơn nữa khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Tuy nhiên, trong những năm
vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước đã có nhiều thay đổi làm phát sinh
nhiều vấn đề liên quan đến đất đai, nhà ở.
Điều này dẫn đến một số quy định của Luật
Đất đai năm 2013 và các văn bản có liên
quan (nhà ở, kinh doanh bất động sản, xây
dựng) đã bộc lộ những điểm hạn chế, chưa
theo kịp, thậm chí làm trở ngại cho hoạt
động sinh sống và đầu tư của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
1. Quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà
ở của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài tại Việt Nam
1.1. Quyền và nghĩa vụ sử dụng đất ở
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Theo quy định tại Điều 186 Luật Đất đai
năm 2013, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, khi sử dụng đất ở tại Việt Nam có các
quyền và nghĩa vụ sau:
Một là, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu
nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở
thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền
sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Hai là, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền
sử dụng đất ở tại Việt Nam có các quyền và
nghĩa vụ sau đây:
i) Quyền và nghĩa vụ chung quy định tại
Điều 166 và Điều 170 của Luật Đất đai năm
2013;
ii) Chuyển quyền sử dụng đất ở khi bán,
tặng cho, để thừa kế, đổi nhà ở cho tổ chức,
cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở
tại Việt Nam để ở; tặng cho nhà ở gắn liền
với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng
đồng dân cư, tặng cho nhà tình nghĩa theo
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của
Luật Đất đai năm 2013. Trường hợp tặng
cho, để thừa kế cho đối tượng không thuộc
diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đối
tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở;
iii) Thế chấp nhà ở gắn liền với quyền
sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng được phép
hoạt động tại Việt Nam;
iv) Cho thuê, ủy quyền quản lý nhà ở
trong thời gian không sử dụng.
Ba là, trường hợp tất cả người nhận thừa
kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất đều là người
nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở
nước ngoài không thuộc đối tượng được mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại
Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 186
Luật Đất đai năm 2013, thì người nhận thừa
kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất, nhưng được chuyển
nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng
đất thừa kế theo quy định sau đây:
i) Trong trường hợp chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thì người nhận thừa kế
được đứng tên là bên chuyển nhượng trong
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất;
ii) Trong trường hợp tặng cho quyền sử
dụng đất thì người được tặng cho phải là đối
tượng được quy định tại điểm e khoản 1
Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 và phù hợp
với quy định của pháp luật về nhà ở, trong
đó người nhận thừa kế được đứng tên là bên
tặng cho trong hợp đồng hoặc văn bản cam
kết tặng cho;
iii) Trong trường hợp chưa chuyển
nhượng hoặc chưa tặng cho quyền sử dụng
đất thì người nhận thừa kế hoặc người đại
diện có văn bản ủy quyền theo quy định nộp
hồ sơ về việc nhận thừa kế tại cơ quan đăng
ký đất đai để cập nhật vào Sổ địa chính.
Bốn là, trường hợp trong số những
người nhận thừa kế có người Việt Nam định
cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng
được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam, còn những người khác
thuộc diện được nhận thừa kế quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật về đất đai
mà chưa phân chia thừa kế quyền sử dụng
Số 4(404) - T2/202040 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
đất cho từng người nhận thừa kế thì những
người nhận thừa kế hoặc người đại diện có
văn bản ủy quyền theo quy định nộp hồ sơ
về việc nhận thừa kế tại cơ quan đăng ký đất
đai để cập nhật vào Sổ địa chính.
Sau khi giải quyết xong việc phân chia
thừa kế thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất cho người thuộc đối tượng
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất; đối với người Việt Nam định cư
ở nước ngoài không thuộc đối tượng được
mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
tại Việt Nam thì phần thừa kế được giải
quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 186
Luật Đất đai năm 2013. Bên cạnh đó, nếu
người nhận thừa kế trong các trường hợp
quy định tại điểm c khoản 3 và khoản 4 Điều
186 Luật Đất đai năm 2013 được ủy quyền
bằng văn bản cho người trông nom hoặc tạm
sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật về đất đai và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
1.2. Điều kiện được công nhận quyền sở
hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định tại Điều 7 Luật Nhà
ở năm 2014, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài là một trong ba nhóm đối tượng được
phép sở hữu nhà tại Việt Nam. Để được công
nhận quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải
đáp ứng các điều kiện sau:
Một là, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài phải được phép nhập cảnh vào Việt
Nam. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật
Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014), người Việt Nam định cư ở nước ngoài
là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam
cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Như
vậy, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
bao gồm hai nhóm: (i) công dân Việt Nam
(tức là những người còn mang quốc tịch Việt
Nam); (ii) người gốc Việt Nam định cư ở
nước ngoài (là những người hiện không còn
mang quốc tịch Việt Nam). Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và người nước ngoài là
vợ, chồng, con của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài hoặc của công dân Việt Nam sẽ
được miễn thị thực khi nhập cảnh vào Việt
Nam nếu đáp ứng các điều kiện sau3:
Có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại
quốc tế còn giá trị ít nhất 01 năm.
Có giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng
quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị định
số 82/2015/NĐ-CP.
Không thuộc các trường hợp chưa cho
nhập cảnh và tạm hoãn xuất cảnh quy định
tại Điều 214 và Điều 28 của Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014.
Hai là, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được công nhận quyền sở hữu nhà ở
thông qua hình thức mua, thuê mua nhà ở
thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã
kinh doanh bất động sản (sau đây gọi chung
là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản);
mua, nhận tặng cho, nhận đổi, nhận thừa kế
nhà ở của hộ gia đình, cá nhân; nhận chuyển
3 Điều 3 Nghị định số 82/2015/NĐ-CP ngày 24/9/2015 của Chính phủ về miễn thị thực cho người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và người nước ngoài là vợ, chồng, con của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc của công dân Việt Nam.
4 Người nước ngoài sẽ không được phép nhập cảnh vào Việt Nam nếu thuộc một trong chín trường hợp được
quy định tại Điều 21 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm
2014: (i) Không đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này; (ii) Trẻ em dưới 14 tuổi không có
cha, mẹ, người giám hộ hoặc người được ủy quyền đi cùng; (iii) Giả mạo giấy tờ, khai sai sự thật để được
cấp giấy tờ có giá trị nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú; (iv) Người bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh truyền
nhiễm gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng; (v) Bị trục xuất khỏi Việt Nam chưa quá 03 năm kể từ
ngày quyết định trục xuất có hiệu lực; (vi) Bị buộc xuất cảnh khỏi Việt Nam chưa quá 06 tháng kể từ ngày
quyết định buộc xuất cảnh có hiệu lực; (vii) Vì lý do phòng, chống dịch bệnh; (viii) Vì lý do thiên tai; (ix)
Vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án đầu
tư xây dựng nhà ở thương mại được phép
bán nền để tự tổ chức xây dựng nhà ở theo
quy định của pháp luật5.
1.3. Những hạn chế, bất cập trong quy
định của pháp luật về đất đai, nhà ở và xây
dựng liên quan đến người Việt Nam định cư
ở nước ngoài
Một là, bất cập trong quy định của Luật
Đất đai năm 2013
Theo quy định của điểm đ khoản 1 Điều
169 Luật Đất đai năm 2013, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài chỉ được quyền sử
dụng đất ở gắn với nhà ở, nếu có nguồn gốc
từ việc mua bán, tặng cho và chỉ được
quyền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ở không gắn với nhà ở, nếu thửa đất ở đó
nằm trong dự án phát triển nhà ở. Quy định
này chưa tính đến các tình huống phát sinh
nên sẽ dẫn đến trường hợp bất cập sau đây:
Giả sử ông A xác lập quyền sử dụng đất đối
với một thửa đất ở nằm ngoài dự án nhà ở,
việc xác lập quyền sử dụng đất này là hoàn
toàn hợp pháp theo quy định của pháp luật
tại thời điểm đó. Một thời gian sau, ông A
xuất cảnh và định cư ở nước ngoài (làm ăn,
sinh sống lâu dài ở nước ngoài). Khi đó, ông
A đã trở thành người sử dụng đất là “người
Việt Nam định cư ở nước ngoài”, tức là
chuyển đổi chủ thể sử dụng đất từ khoản 2
sang chủ thể sử dụng đất thuộc khoản 6 Điều
5 Luật Đất đai năm 2013. Một vấn đề khác
cần lưu ý là, trong thủ tục xuất cảnh để đi
định cư ở nước ngoài hiện nay, pháp luật
không quy định, trước khi đi định cư ở nước
ngoài, hộ gia đình, cá nhân trong nước phải
bán hoặc chuyển nhượng tất cả các bất động
sản của mình. Nói cách khác, ông A đã xác
lập quyền sử dụng đất ở hợp pháp thì trong
trường hợp này, quyền sử dụng đất đối với
thửa đất nêu trên hiện có tiếp tục được công
nhận hay không?6.
Hai là, mâu thuẫn giữa Luật Đất đai
năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014 trong
quy định về các loại giao dịch được thực
hiện để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ở gắn với nhà ở.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
169 Luật Đất đai năm 2013, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở
hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của
pháp luật về nhà ở sẽ được nhận chuyển
quyền sử dụng đất ở thông qua hình thức
“mua, thuê mua, nhận thừa kế, nhận tặng cho
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở hoặc
được nhận quyền sử dụng đất ở trong các dự
án phát triển nhà ở”. Trong khi đó, theo quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 10 Luật Nhà ở
năm 2014, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài có thể thực hiện đến mười hai giao
dịch về nhà ở, và trong đó có giao dịch đổi
nhà ở (có thể gắn với đất ở) mà không ràng
buộc phải ở trong các dự án phát triển nhà ở.
Chúng tôi cho rằng, việc Luật Đất đai
cho phép chuyển, nhưng không cho phép
nhận quyền sử dụng đất ở thông qua giao
dịch đổi nhà ở ngoài khu vực dự án phát
triển nhà ở là không hợp lý và không cần
thiết; bởi lẽ, giao dịch đổi nhà về bản chất là
giao dịch mua bán nhà, nếu pháp luật đã cho
phép thực hiện giao dịch mua bán nhà ở gắn
41Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
5 Điểm b khoản 2 Điều 8 Luật Nhà ở năm 2014.
6 Theo quy định tại Điều 133 Luật Đất đai năm 2013 nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài có nhu cầu sử
dụng đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối thì được Nhà nước xem xét
cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư. Từ quy định này cùng với quy định tại Điều 188 và Điều 191 Luật
Đất đai năm 2013 có thể hiểu người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được sử dụng đất nông nghiệp thông
qua hình thức thuê đất và không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế quyền sử dụng đất
nông nghiệp. Nếu được để thừa kế hoặc tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người Việt Nam định
cư ở nước ngoài không được nhận quyền sử dụng đất mà chỉ được nhận giá trị bằng tiền. Từ đây, một tình
huống tương tự như trên được đặt ra là thời điểm họ xác lập quyền sử dụng đất nông nghiệp là hợp pháp, sau
đó họ đi định cư ở nước ngoài, như vậy, kể từ thời điểm họ xuất cảnh đi định cư lâu dài ở nước ngoài, thì
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất được xác lập có nguồn gốc được giao đất, được công nhận quyền sử
dụng đất, nhận chuyển nhượng từ trước sẽ được giải quyết như thế nào là vấn đề pháp luật đang bỏ ngỏ.
với quyền sử dụng đất ở thì khó thuyết phục
và thiếu hợp lý nếu không cho thực hiện giao
dịch đổi nhà ở gắn với quyền sử dụng đất ở.
Ba là, bất cập trong quy định pháp luật
về đất đai, nhà ở và xây dựng về điều kiện
xây dựng nhà ở riêng lẻ.
Theo quy định của Luật Xây dựng năm
2014, để được cấp giấy phép xây dựng nhà
ở, chủ đầu tư phải có giấy tờ chứng minh
mình có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với
thửa đất dự định đầu tư xây dựng7. Một vấn
đề đặt ra từ tình huống nêu trên là việc ông
A xác lập quyền sử dụng đất ở không gắn với
nhà ở trước đây là hợp pháp vào thời điểm
xác lập, nhưng hiện nay do thay đổi điều
kiện chủ thể sử dụng đất, nên việc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở mà
không gắn với nhà ở trên đất đó là không
phù hợp với quy định của pháp luật nhà ở và
đất đai hiện hành. Như vậy, nếu như ông A
quay về Việt Nam hoặc ủy quyền cho người
khác sử dụng thửa đất này, và chính ông A
hoặc người được ủy quyền nộp hồ sơ đề nghị
cấp giấy phép xây dựng, thì cơ quan có thẩm
quyền có đồng ý cấp giấy phép xây dựng nhà
ở riêng lẻ cho ông A hay không?
2. Kiến nghị
Từ những phân tích trên, chúng tôi đề
xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, sửa đổi Luật Đất đai theo
hướng:
- Cho phép người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ở gắn với nhà ở ngoài dự
án phát triển nhà ở thông qua giao dịch đổi
nhà ở, nghĩa vụ tài chính trong trường hợp
này sẽ được xác định tương tự như trường
hợp hộ gia đình, cá nhân trong nước thực
hiện giao dịch mua bán nhà ở gắn liền với
đất ở;
- Công nhận quyền sử dụng đất nói
chung, quyền sử dụng đất ở nằm ngoài dự án
nhà ở nói riêng cho người Việt Nam định cư
ở nước ngoài trong trường hợp họ đã xác lập
quyền sử dụng đất hợp pháp vào thời điểm
trước đây. Có thể giải quyết theo một trong
các cách thức sau:
Cho phép người Việt Nam định cư ở
nước ngoài chuyển nhượng, tặng cho, để
thừa kế cho đối tượng đủ điều kiện sử dụng
đất theo quy định của pháp luật và phải thực
hiện các nghĩa vụ tài chính về đất đai theo
quy định của pháp luật trong trường hợp
người Việt Nam định cư ở nước ngoài không
đủ điều kiện sử dụng đất theo quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất hiện tại;
Nếu đất trước đây có nguồn gốc là được
Nhà nước giao đất có thu tiền, nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì
được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn sử
dụng đất còn lại mà không phải chuyển sang
thuê đất theo quy định của Luật Đất đai, khi
hết thời hạn sử dụng đất nếu được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền gia hạn theo quy
định thì phải chuyển sang thuê đất và phải
nộp tiền thuê đất, nhưng được giảm 50% tiền
sử dụng đất;
Nếu đất trước đây có nguồn gốc từ việc
được Nhà nước giao đất không thu tiền hoặc
được công nhận quyền sử dụng đất như giao
đất có thu tiền sử dụng đất thì được tiếp tục
sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn
lại mà không phải chuyển sang thuê đất, khi
hết thời hạn sử dụng đất nếu được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền gia hạn theo quy
định thì phải chuyển sang thuê đất và phải
nộp tiền thuê đất theo quy định pháp luật8.
Thứ hai, sửa đổi Luật Xây theo hướng
cho phép người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở, trong
trường hợp họ đã xác lập quyền sử dụng đất
hợp pháp vào thời điểm trước đây (không bị
khống chế bởi việc thửa đất đó có đang nằm
trong dự án phát triển nhà ở hay không) n
Số 4(404) - T2/202042 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
7 Xem thêm Điều 93 và 95 Luật Xây dựng năm 2014; Điều 8 Thông tư số 15/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn về cấp phép xây dựng; Điều 3 Nghị định số 53/2017/NĐ-CP ngày
08/5/2017 của Chính phủ quy định các loại giấy tờ hợp pháp về đất đai để cấp giấy phép xây dựng.
8 Kiến nghị này được xây dựng dựa trên quy định tại Điều 60 Luật Đất đai năm 2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_phap_luat_ve_quyen_su_dung_dat_o_nha_o_c.pdf