Đào tạo đội ngũ luật sư: Luật sư là lực lượng
nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý nói
chung và tham gia bào chữa trong vụ án hình
sự nói riêng. Tuy nhiên, số luật sư hiện nay
trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu được tư vấn pháp lý và bào chữa18.
Trước thực trạng trên, Thủ tướng Chính phủ
vừa ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg
ngày 5/7/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển
nghề luật sư đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu
của Chiến lược là đến năm 2020, phát triển số
lượng khoảng từ 18.000 - 20.000 luật sư, đạt
tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Hy vọng với định hướng phát triển này sẽ đáp
ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng các dịch vụ tư
vấn pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có
những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm tạo khung
pháp lý đồng bộ về đội ngũ luật sư, đó là: (i)
mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề
luật sư đối với viên chức nhà nước đang là
giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại
học. Giảng viên luật tại các trường đại học là
những người có nền tảng kiến thức pháp luật
vững chắc và phù hợp với nghề luật sư. Việc
tham gia của đội ngũ giảng viên luật trong hoạt
động nghề nghiệp luật sư không chỉ đáp ứng
về mặt chất lượng mà còn bổ sung hiệu quả về
số lượng luật sư đang thiếu hụt. Tuy nhiên, kể
từ khi Luật Luật sư được ban hành và có hiệu
lực từ ngày 1/7/2006, những giảng viên luật là
viên chức nhà nước đã có chứng chỉ và đang
hành nghề luật sư buộc phải lựa chọn hoặc từ
bỏ viên chức nhà nước để tiếp tục hành nghề
hoặc ngược lại.19 Quy định này được cho là
phù hợp với Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm
2003.20 Tuy nhiên hiện tại, Luật Viên chức đã
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào
ngày 1/1/2012 là cơ sở pháp lý cho phép viên
chức nhà nước được tham gia vào các hoạt
động nghề nghiệp phù hợp với chuyên môn
và không trái pháp luật.21 Vì vậy, cần sớm bổ
sung quy định của Luật Luật sư theo hướng
mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề
đối với giảng viên dạy luật là viên chức tại các
trường đại học công lập; (ii) mở rộng hợp tác
đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề; tăng
cường hợp tác trao đổi với các tổ chức luật sư
nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm; nâng cao
mức thù lao chi phí đối với luật sư chỉ định.
Hiện nay, rất nhiều ý kiến cho rằng, mức thù
lao được trả cho luật sư là 120.000 đồng/1ngày
làm việc của luật sư đối với những vụ án do
cơ quan THTT yêu cầu không hợp lý.22 Để
phù hợp với tình hình lạm phát kinh tế và đáp
ứng tốt chất lượng bào chữa, Nhà nước cần có
chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả
cho luật sư chỉ định và không nên đưa ra một
mức thù lao áp đặt.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 183 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
1. Những kiến nghị mang tính định hướng
1.1. Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi
nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản,
quan trọng trong tố tụng hình sự
Mục đích cuối cùng của TTHS là đảm bảo
tính công bằng của pháp luật và hơn hết là đảm
bảo quyền con người, quyền công dân trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì
vậy, tranh tụng công bằng cần phải được nhìn
nhận là một yếu tố đảm bảo nguyên tắc xét xử
công bằng. Đây là tiền đề cho việc xác định
đúng đắn vai trò của NBC cũng như đảm bảo
tốt hơn quyền có NBC của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
Với cách tiếp cận đó, đảm bảo tranh tụng
công bằng trong hoạt động TTHS là vấn đề
mang tính khách quan. Xét về bản chất, tranh
tụng luôn gắn liền với hoạt động tài phán và
chỉ có thể được thực hiện trọn vẹn ở phiên
tòa với sự tham gia đầy đủ của các bên.3 Tuy
nhiên, sẽ là không toàn diện nếu chỉ giới hạn
tranh tụng trong phạm vi của phiên tòa hoặc
đồng nhất tranh tụng với tranh luận tại phiên
tòa; hay chỉ coi các quy định về trình tự, thủ
tục xét xử vụ án tại phiên tòa mới là các quy
định về tranh tụng.4 Một bản án công bằng phải
là kết quả của việc xem xét đầy đủ chứng cứ
của các bên trong các giai đoạn của quá trình
giải quyết vụ án mà không chỉ ở giai đoạn xét
LƯơNG THị Mỹ QUỳNH*
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự (TTHS) Việt Nam.1 Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc thông qua
người bào chữa (NBC) - bao gồm luật sư, bào chữa viên nhân dân (BCVND) hoặc người đại diện hợp pháp của
họ. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, vai trò của NBC khi tham gia tố tụng chưa được tôn
trọng và quyền có NBC chưa được bảo bảm một cách toàn diện, thậm chí bị vi phạm. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này bắt nguồn từ những quy định thiếu nhất quán và không mang tính khả thi. Vì
vậy, cần thiết phải sớm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS (BLTTHS) về quyền có NBC. Việt Nam đã và
đang tiến hành cải cách tư pháp. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách đó là mở rộng
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng hơn nữa quyền của
NBC và của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.2 Bài viết đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện BLTTHS về bảo
đảm quyền có NBC, nâng cao hiệu quả trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
HOÀN THIỆN QUY ĐịNH
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯờI BÀO CHỮA
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(*) ths. Đại học Luật tP. Hồ chí Minh.
(1) Điều 11 BLTTHS 2003.
(2) Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 22/2/2002 và Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
(3) John H. Langbein, The Origins of the Adversary Trial, Oxford, 2003, tr.23.
(4) Trần Văn Độ, Bản chất tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4/2004.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2512
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
xử tại phiên tòa. Do đó, cần phải thay đổi quan
điểm cho rằng hoạt động tranh tụng là hoạt
động chỉ diễn ra ở phiên tòa xét xử. Thực chất,
phiên tòa tranh tụng là thời điểm mấu chốt để
Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng đối với
bị cáo. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự đối tụng
công bằng trong các giai đoạn tố tụng tiền xét
xử (hoạt động điều tra) sẽ khó đảm bảo tính
khách quan và công bằng của bản án. Do đó,
mở rộng phạm vi tranh tụng trong giai đoạn
điều tra cũng chính là mở rộng phạm vi bảo
đảm quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Sự hiện diện của NBC trong quá
trình điều tra vụ án sẽ góp phần đảm bảo tính
khách quan và công bằng cho phán quyết của
Tòa án.
Bên cạnh đó, để tranh tụng đạt kết quả, phải
ghi nhận “tranh tụng” là phương pháp chủ yếu
trong suốt quá trình TTHS mà không chỉ ở
phiên tòa xét xử sơ thẩm. Cần phải hiểu tranh
tụng là sự đối tụng công bằng giữa các bên
đối trọng nhau về quyền lợi. Muốn đạt được
tranh tụng, đòi hỏi các bên phải có những cơ
hội ngang bằng nhau về quyền thu thập chứng
cứ và trình bày chứng cứ, mà không chỉ đơn
thuần là những kết quả thu được từ hoạt động
thẩm vấn.
Chúng tôi cho rằng, mở rộng tranh tụng
cần thiết phải đi đôi với ghi nhận tranh tụng
là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS5. Việc ghi
nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ sở pháp
lý để các bên trong TTHS tiến hành các hoạt
động bình đẳng và tuân thủ pháp luật. Việc ghi
nhận nguyên tắc tranh tụng phải dựa trên một
số tiêu chí: (i) ghi nhận đầy đủ nội dung của
nguyên tắc tranh tụng nhằm phân định rõ các
chức năng cơ bản trong TTHS là: buộc tội, bào
chữa, xét xử; (ii) quy định nhiệm vụ và quyền
hạn của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án phù hợp với chức năng tố
tụng của chủ thể đó theo quy định của pháp
luật; (iii) quy định đầy đủ các điều kiện bảo
đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc
tội và bên bào chữa bình đẳng với nhau trong
tranh tụng.
Từ phương diện bảo vệ quyền của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS, việc
ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ chế
bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó trên
thực tế. Với quy định hiện hành, pháp luật
dường như đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm
chứng minh vụ án lên Hội đồng xét xử, đòi
hỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không
cần thiết trong tranh tụng, dẫn đến tình trạng
Tòa án “lấn sân” các chủ thể khác trong việc
thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa, hạn chế tính chủ động của các chủ thể
đó. Như một tất yếu, chức năng xét xử của Tòa
án cũng bị hạn chế. Do đó, ghi nhận tranh tụng
là một nguyên tắc tố tụng cơ bản sẽ cân bằng
lại vai trò của các bên trước Tòa án, khẳng
định hơn nữa vai trò của NBC, đồng thời sẽ là
cơ chế bảo đảm hiệu quả nhất quyền có NBC
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng
Quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo không thể được bảo đảm nếu cơ
quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT
không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và
tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT, người
THTT là những chủ thể trực tiếp thực hiện các
hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật
nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng
minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm
vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải
nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan,
toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ
mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong
thực tế, không phải tất cả những người THTT
đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người trực
tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người
(5) Hiện tại, BLTTHS năm 2003 dành hẳn một chương (Chương 2) quy định về các nguyên tắc cơ bản (tuy nhiên chưa quy định nguyên
tắc tranh tụng).
26 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
THTT phải am hiểu thấu đáo những
quy định của pháp luật về quyền có
NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải thích
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hiểu rõ quyền bào chữa, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để quyền này
được thực hiện có hiệu quả. Muốn
vậy, ngoài việc nâng cao năng lực
chuyên môn, những người THTT
phải có ý thức tuân thủ và nhận thức
một cách nghiêm túc và đúng đắn
vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương
III Khoá VIII của Ban Chấp hành
trung ương Đảng nêu rõ: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong
sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo
đức tốt và có năng lực chuyên môn. Lập quy
hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư
pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn
cụ thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các
cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan THTT
đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây
dựng đội ngũ THTT vừa đủ về số lượng, vừa
đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức
chuyên môn và nhận thức của đội ngũ THTT,
phải tập trung một số vấn đề sau:
Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng
và tập huấn cho những người THTT. Nội dung
đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về
pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ
chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn,
đánh giá trình độ, từ đó có chế độ tuyên dương,
khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong
trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác
phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh;
coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn
của những người THTT về vai trò, vị trí của
NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự
tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ
án được giải quyết đúng đắn. Sự có mặt của
NBC trong vụ án không gây khó khăn cho các
cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội
thiếu căn cứ chứ không phải là “đối thủ” của
các cơ quan THTT. Vì vậy, người THTT cần
phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức
năng bào chữa.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí
phục vụ công tác cho những người THTT.
1.3. tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp
luật đối với người dân
Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp
hiệu quả nhằm nâng cao hiểu biết của người
dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt
giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật,
tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của
bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác
giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và
có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành
vi phạm tội. Do đó, cần thiết phải thay đổi nhận
thức của người dân nói chung và người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự
tham gia tố tụng của NBC là không cần thiết
và tốn kém. Nhận thức không đúng về vai trò
và vị trí của NBC chính là rào cản lớn làm cho
sự tham gia của NBC trở nên khó khăn, trong
khi bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
và người đại diện hợp pháp của họ lại không
có khả năng bào chữa có hiệu quả. Việc NBC
tham gia tố tụng để bảo vệ cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào ý
chí chủ quan của chính họ, người đại diện hợp
pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc
thay đổi nhận thức về vai trò của NBC là cách
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2712
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
tốt nhất để trang bị cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo những phương tiện, biện pháp giúp
họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm
hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ
phía những người THTT, cơ quan THTT nhằm
thực hiện quyền bào chữa của mình.
Đối với NBC, việc bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề là
một việc làm cần thiết. NBC phải nhận thức
và nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình khi
tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. NBC phải thường
xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và
bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có hiệu quả.
2. Những kiến nghị cụ thể
(i) Hiện nay, với quy định hiện hành,6 trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan THTT, bao gồm cả Tòa án. Quy định
này cho thấy Tòa án sẽ đồng thời thực hiện
hai chức năng, vừa chứng minh tội phạm, vừa
xét xử. Cần phải thống nhất quan điểm Tòa
án cũng tham gia hoạt động chứng minh bảo
vệ công bằng pháp luật nhưng thông qua chức
năng xét xử. Quy định như trên vô hình chung
đã ràng buộc Tòa án phải làm thay chức năng
truy tố buộc tội của Viện Kiểm sát. Nếu chức
năng tố tụng không được phân định rõ ràng,
nguyên tắc tranh tụng sẽ khó được đảm bảo
trên thực tế. Để phù hợp với nhiệm vụ trọng
tâm của cải cách tư pháp là nâng cao tính tranh
tụng của phiên tòa xét xử vụ án hình sự, nên
sửa đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng: “trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan
Điều tra và Viện Kiểm sát; Tòa án thực hiện
chức năng xét xử; bị can, bị cáo có quyền
nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình
vô tội”.
(ii) Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS Việt
Nam, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các
trường hợp chỉ định NBC có 3 quyền: quyền
lựa chọn, quyền yêu cầu thay đổi và quyền từ
chối NBC. Tuy nhiên, việc quy định các quyền
này chưa rõ ràng và hợp lý, gây khăn trong
việc áp dụng pháp luật. Do đó, nên sửa đổi, bổ
sung Điều 57 BLTTHS về 3 nội dung:
Thứ nhất, liên quan đến quyền lựa chọn
NBC.7 Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy
định về quyền lựa chọn NBC theo hướng phân
định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp
bị can, bị cáo tự thuê với trường hợp NBC do
cơ quan THTT chỉ định.
Với trường hợp NBC do người người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo thuê: Quyền lựa chọn
NBC cần được quy định theo hướng phân định
rõ ràng giữa quyền lựa chọn NBC của bị can,
bị cáo là người đã thành niên với bị can, bị
cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Với trường hợp người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người đã thành niên, họ có quyền lựa
chọn và thay đổi NBC cho mình. Trong trường
hợp họ không thể trực tiếp mời (thuê) NBC thì
người đại diện hợp pháp có thể mời NBC với
sự đồng ý của họ.
Đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì
người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền
lựa chọn NBC. Nếu có sự không thống nhất về
việc lựa chọn NBC giữa người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ,
thì quyền quyết định cuối cùng sẽ do người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo quyết định.
Với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ
định: Để bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có ngay NBC, cần bổ sung khoản 2 Điều
57 BLTTHS về quyền lựa chọn NBC theo
(6) Điều 10 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình
tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”
(7) Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, bị can, bị cáo
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền lựa chọn NBC. Tuy nhiên, cả BLTTHS và văn bản trên đều không phân định rõ ràng
quyền lựa chọn NBC này là đối với trường hợp NBC chỉ định hay NBC được thuê.
28 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
hướng: Trong các trường hợp chỉ định NBC,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền lựa
chọn NBC dựa trên danh sách các luật sư mà
cơ quan THTT cung cấp. Cơ quan THTT có
nghĩa vụ tập hợp và cung cấp ngay cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo danh sách các luật sư
có đủ năng lực từ các đoàn luật sư.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nội dung liên
quan đến quyền từ chối NBC. Sự có mặt của
NBC trong trường hợp này là thực sự cần thiết
không chỉ đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo mà còn đảm bảo tính tranh tụng trong quá
trình chứng minh tội phạm. Người chưa thành
niên, người có khiếm khuyết về tâm thần hoặc
thể chất là đối tượng đặc biệt, hạn chế về nhận
thức nên cần thiết phải có NBC trong quá trình
TTHS. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy,
quyền từ chối NBC nên được khuyến cáo hạn
chế áp dụng trong những trường hợp có nghi
vấn về khả năng tự bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, ví dụ như trường hợp họ là
người chưa thành niên hoặc người bị hạn chế
về năng lực tâm thần.8 Trong khi một số nước
khác không quy định người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo có quyền từ chối NBC trong các trường
hợp bắt buộc chỉ định NBC.9 Vấn đề bảo đảm
quyền trước hết phải xuất phát từ mong muốn
của người người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (khi
họ hoàn toàn sáng suốt và ý thức được việc từ
chối quyền mà pháp luật trao). Do đó, quyền
từ chối NBC vẫn cần thiết phải được ghi nhận.
Tuy nhiên, khía cạnh đảm bảo lợi ích chung
của Nhà nước và tính công bằng của pháp luật
cũng cần phải được tôn trọng. Chính vì vậy,
trong những trường hợp nếu thấy rằng quyền
lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể
bị đe dọa vì thiếu vắng sự tham gia của NBC,
Nhà nước cần phải cân nhắc, chấp nhận hay
không việc từ chối của họ. Quy định như hiện
nay tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam là chưa
hợp lý.10 Do đó, nên xây dựng một điều luật
về quyền từ chối NBC theo hướng người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền từ chối quyền
có NBC (trừ trường hợp là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất). Đồng thời, quy định các cơ quan
THTT có nghĩa vụ giải thích những hậu quả
của việc từ chối quyền có NBC; việc từ chối
NBC phải đảm bảo trong điều kiện người từ
chối minh mẫn và tự nguyện; việc từ chối phải
lập thành văn bản có chữ ký của người từ chối
và xác nhận của cơ quan THTT.
Thứ ba, nên quy định về việc cử NBC dự
bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
trường hợp họ gặp khó khăn về việc tự bào
chữa do trước đó đã từ chối NBC. Đây là quy
định được nhiều nước áp dụng. Quy định mở
rộng này sẽ giải quyết được thực trạng khi mà
bị cáo đã từ chối NBC ở giai đoại điều tra,
nhưng sau đó lại đề nghị được chỉ định NBC
tại phiên tòa. Sự tham gia của NBC sẽ đảm bảo
tính công bằng trong TTHS. Theo đó, các cơ
quan THTT chỉ cần nắm danh sách luật sư của
các đoàn luật sư cũng như của các trung tâm
trợ giúp pháp lý để dự trù việc cung cấp kịp
thời NBC dự bị cho người bị tạm giữ, bị can và
bị cáo trong tất cả các giai đoạn tố tụng.
Thứ tư, cần mở rộng phạm vi khoản 2 Điều
57 BLTTHS về đối tượng được chỉ định NBC.
Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo chỉ được chỉ định NBC trong hai
trường hợp: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung
hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật Hình sự; b) Bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất. Quy định này cho
thấy phạm vi đảm bảo quyền có NBC là quá
hẹp so với quy định của nhiều nước trên thế
giới.11 Theo đó, với những người bị cáo buộc
về các tội phạm nghiêm trọng, cần thiết phải
(8) Xem ví dụ án lệ Johnson v. Zerbst 304 U.S., đoạn 464-65 (1938) của Tòa án tối cao Mỹ.
(9) Xem ví dụ Điều 141 BLTTHS Đức.
(10) Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị ban, bị cáo có quyền từ chối NBC do họ mời hoặc do cơ quan THTT chỉ định.
(11) Ví dụ, ở Mỹ quyền được chỉ định NBC được áp dụng cho những trường hợp bị cáo buộc về hình phạt tù (xem án lệ: Bett v. Brady,
316 U.S. 455 (1942), Gideon v. Wainwright 372 U.S. 335 (1963), Argersinger v. Hamlin, 407, U.S. 25 (1972)). Ở Đức, việc chỉ định NBC
được tiến hành nếu người bị buộc tội bị truy tố về một tội phạm nghiêm trọng hoặc kết quả của việc truy tố là cấm hành nghề
(Điều 140 BLTTHS).
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 2912
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
có cơ chế bảo đảm cho họ có quyền có NBC.
Chính vì vậy, nên bổ sung quy định tại khoản
2 Điều 57 BLTTHS theo hướng quy định thêm
các trường hợp được bào chữa chỉ định, bao
gồm những tội theo khung hình phạt có mức
cao nhất là hai mươi năm, tù chung thân hoặc
tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự
(hiện nay chỉ áp dụng đối với mức tử hình).
(iii) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 58 theo
hướng cho phép NBC tham gia từ khi khởi tố
bị can đối với những tội xâm phạm an ninh
quốc gia.
Sự tham gia của NBC, đặc biệt là của luật sư
vào các giai đoạn tố tụng là điều kiện rất quan
trọng để bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Quy định như Điều 58
BLTTHS,12 đã hạn chế sự tham gia của NBC
trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia; hạn chế
quyền của NBC thu thập chứng cứ đối với tài
liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác
Nhiệm vụ đảm bảo bí mật an ninh quốc gia là
nhiệm vụ tối quan trọng và đòi hỏi sự bảo mật.
Tuy nhiên với ý kiến cho rằng sự tham gia của
NBC ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tố
tụng sẽ gây khó khăn cho cơ quan THTT trong
việc điều tra vụ án, không bảo đảm bí mật điều
tra, làm lộ bí mật nhà nước, bí mật công tác
là không có sơ sở và không thuyết phục. Hơn
thế nữa, việc quy định hạn chế trên là không
phù hợp với nguyên tắc “Bảo đảm bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật”.13 Cùng là
bị can, bị cáo nhưng các chủ thể trong những
trường hợp trên lại không được hưởng trọn vẹn
quyền bào chữa theo quy định của pháp luật.
Hơn thế nữa, những bị can, bị cáo trong trường
hợp này rất cần thiết sự giúp đỡ của NBC bởi
tính chất phức tạp của loại tội xâm phạm an
ninh quốc gia. Sự tham gia của NBC ngay từ
đầu đối với tất cả các vụ án sẽ là điều kiện
không những đảm bảo cho việc điều tra đầy
đủ, toàn diện và khách quan mà còn giúp đỡ
cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
có hiệu quả. Hơn ai hết, khi tham gia vào các
vụ án trên, NBC phải hiểu và ý thức được tầm
quan trọng của vụ án cũng như xác định trách
nhiệm của mình trong việc bảo đảm bí mật
điều tra, bí mật nhà nước. Việc tiết lộ bí mật
điều tra, bí mật nhà nước, bí mật công tác
đã có các chế tài pháp luật hình sự khác đủ để
điều chỉnh và xử lý NBC nếu họ vi phạm. Vì
vậy, đối với quy định tại Điều 58 BLTTHS cần
thiết nên sửa đổi theo hướng mở rộng hơn, cho
phép NBC có quyền tham gia từ khi khởi tố bị
can đối với cả tội xâm phạm an ninh quốc gia.
(iv) Sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLTTHS
quy định về sự có mặt và sự tham gia tranh
tụng của NBC tại phiên toà. Việc cho phép Tòa
án vẫn tiến hành phiên tòa nếu NBC vắng mặt
như hiện nay vô hình chung sẽ tạo điều kiện
cho NBC được quyền thiếu trách nhiệm trong
việc bào chữa.14 Mặt khác, việc Tòa án tiến
hành phiên tòa thiếu sự có mặt của NBC sẽ
khiến cho việc đánh giá chứng cứ không khách
quan, vì bản án của Tòa án đưa ra phải là kết
quả của việc xem xét đầy đủ và khách quan
các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và cả những
chứng cứ khác phát sinh trong quá trình xét
xử tại phiên tòa. Chính vì vậy, nên quy định
sự có mặt của NBC là bắt buộc. Mọi trường
hợp vắng mặt NBC, Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên toà.
(v) Các trình tự tố tụng tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm và phúc thẩm phải được tiến hành
trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc đảm bảo
tính tranh tụng - một đặc tính của tố tụng tranh
tụng (adversary legal system). Theo đó, phiên
tòa xét xử phải được quy định là một phiên
tòa tranh tụng (adversarial trial). Thủ tục xét
hỏi tại phiên toà (từ Điều 206 đến Điều 216
BLTTHS) phải được sửa đổi theo hướng tập
trung vào hoạt động tranh tụng giữa các bên,
(12) Khoản 1 Điều 58 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện
trưởng Viện kiểm sát quyết định để NBC tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
(13) Điều 5 BLTTHS.
(14) Điều 190 BLTTHS 2003 quy định: “NBC có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. NBC có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu NBC
vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử”.
30 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
giữa bên bào chữa và bên buộc tội, mà không
chỉ đơn thuần là xét hỏi. Các bên tham gia
phiên tòa thực hiện quyền đưa ra các chứng cứ
và tiến hành hoạt động đối chứng. Thẩm phán
lắng nghe các bên trình bày chứng cứ và đóng
vai trò là người trọng tài, điều khiển và định
hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên diễn
ra tại phiên tòa, mà không phải là người thẩm
tra. Trách nhiệm của thẩm phán là xem xét các
chứng cứ và tranh luận giữa các bên và đưa ra
phán quyết. Bản án của Tòa án phải dựa trên
kết quả tranh tụng và tuân thủ các quy định
của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Các
kết luận của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm
sát về hành vi phạm tội sẽ là cơ sở pháp lý
ban đầu để Tòa án xem xét và cân nhắc khi ra
bản án. Điều này, một mặt sẽ giảm bớt gánh
nặng của Tòa án trong việc nghiên cứu hồ sơ
vụ án, mặt khác, đề cao vai trò tranh tụng của
các bên, đồng thời nâng cao tính khách quan
cho bản án.
(vi) Nên bổ sung một điều luật quy định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được
im lặng.15 Đồng thời quy định điều tra viên
có nghĩa vụ phải thông báo và giải thích cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền được
im lặng cho đến khi có mặt NBC do họ mời
hoặc do cơ quan THTT chỉ định. Điều tra viên
chỉ được tiến hành lấy lời khai người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trừ khi họ từ chối quyền có
NBC.
(vii) Sửa đổi, bổ sung thêm một số quy
định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NBC
khi tham gia vụ án:
- Cần quy định lại Điều 58, khoản 2(b)
BLTTHS theo hướng cơ quan THTT có nghĩa
vụ phải thông báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can. NBC có quyền được
thông báo mà không chỉ là quyền đề nghị được
thông báo như quy định hiện hành.
- Cần quy định nghĩa vụ của cơ quan THTT
trong việc tiếp nhận chứng cứ do NBC cung
cấp và trách nhiệm của cơ quan THTT phải hỗ
trợ NBC trong việc liên hệ với các cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân tạo điều kiện thuận lợi để
thu thập chứng cứ. Đồng thời quy định NBC
có quyền được nhận thông báo về việc trưng
cầu giám định và kết quả giám định.
- Bổ sung quy định về quyền của NBC được
gặp gỡ và trao đổi với thân chủ đang bị tạm giữ,
tạm giam. Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị
định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998, NBC
chỉ được phép trao đổi với thân chủ không quá
1 tiếng đồng hồ cho một lần gặp. Quy định
này chưa hợp lý vì không đảm bảo tính hiệu
quả của hoạt động bào chữa. Thời gian 1 tiếng
đồng hồ là quá ít trong khi việc gặp gỡ thân
chủ đang bị tạm giam luôn gặp khó khăn bởi
cơ quan quản lý trại tạm giam.16 Theo đó, cần
sửa đổi lại quy định tại điểm e khoản 2 Điều
58 BLTTHS theo hướng NBC không bị giới
hạn số lần và thời gian tiếp xúc với thân chủ
của mình. Việc trao đổi có thể trực tiếp hoặc
qua thư từ, trừ những trường hợp người đang
bị tạm giữ, tạm giam vi phạm những tội xâm
phạm an ninh quốc gia thì việc trao đổi bằng
thư từ sẽ không được phép.
- Nên bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC.
Hiện nay, theo quy định tại khoản 4 Điều 56
BLTTHS, NBC muốn tham gia bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được
Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án
cấp giấy chứng nhận NBC. Các cơ quan này
cũng có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận
NBC nhưng phải nêu rõ lí do. Quy định thủ
tục cấp giấy chứng nhận NBC xuất phát từ
việc ngoài luật sư, còn có những người khác
(BCVND hoặc người đại diện hợp pháp của
(15) Quyền im lặng là quyền pháp lý cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền này được ghi nhận rất sớm ở Anh vào thế kỷ 16.
Nền tảng lý luận của quyền im lặng xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng giữa quyền lực nhà nước và quyền công dân.
Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bắt buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc không buộc phải nhận mình
phạm tội. Nhà nước có nghĩa vụ phải tìm kiếm chứng cứ để chứng minh những cáo buộc của mình. (Xem: Ronald Banaszak, Fair
Trial Rights of the Accused, Greenwood Press, 2002, tr.10). Nội dung này được ghi nhận tại Điều 14.3(g) Công ước quốc tế về Các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.
(16) Phát biểu của nhiều luật sư tham dự Hội thảo quốc tế về “Quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam” do Liên đoàn Luật sư Việt Nam
phối hợp với UNDP (Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc) tổ chức vào ngày 02-03/12/2010 tại Tp. Hồ Chí Minh.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 3112
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được tham gia
vụ án như NBC để giúp đỡ họ. Những người
này không phải là luật sư chuyên nghiệp và
không bắt buộc phải là người có đầy đủ kiến
thức về pháp luật. Do đó, họ cần thiết phải
được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trước
khi tham gia là NBC trong vụ án. Tuy nhiên,
trên thực tế, khi những người này tham gia bào
chữa, họ đương nhiên phải xuất trình văn bản
yêu cầu NBC của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo kèm them giấy giới thiệu của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nếu là BCVND.
Trên cơ sở đó, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm
sát hoặc Tòa án phải xem xét và quyết định
có chấp nhận hay không chấp nhận cấp giấy
chứng nhận NBC. Hiện tại, Nghị quyết số
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã
ban hành mẫu Giấy chứng nhận NBC và mẫu
Quyết định thu hồi giấy chứng nhận NBC trong
trường hợp NBC vi phạm các quy định của
BLTTHS về hoạt động bào chữa. Tuy nhiên,
đối với Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát,
vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn về
vấn đề này. Đây là một thiếu sót cần phải sớm
được bổ sung và hoàn thiện. Việc quy định
thiếu đồng bộ về thủ tục cấp giấy chứng nhận
bào chữa như hiện nay đã dẫn đến tình trạng
gây khó khăn từ phía cơ quan THTT có thẩm
quyền, mà thông thường là việc chậm cấp giấy
chứng nhận NBC17 Điều này gây cản trở và
ảnh hưởng đến hoạt động của NBC.
Tại nhiều nước trên thế giới, luật sư chỉ cần
xuất trình thẻ luật sư khi tham gia bào chữa mà
không phải làm bất cứ một thủ tục hành chính
nào trước cơ quan THTT. Thẻ luật sư là căn cứ
pháp lý để luật sư được quyền tham gia tố tụng
với tư cách là NBC. Đối chiếu với quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam, thủ tục cấp
giấy chứng nhận NBC đã làm phức tạp hơn các
thủ tục hành chính, đồng thời làm ảnh hưởng
đến tính hiệu quả trong hoạt động bào chữa
của NBC, thậm chí gây thiệt hại cho quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo (khi cơ quan THTT gây khó dễ trong
việc cấp giấy chứng nhận NBC). Pháp luật cần
tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho NBC để
họ tham gia vào vụ án bảo vệ cho thân chủ một
cách hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải thiết lập
một kênh thông tin giữa các cơ quan THTT với
các đoàn luật sư, cũng như Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam về tình trạng của luật sư và
BCVND. Điều này sẽ cho phép loại bỏ những
trường hợp NBC không đủ điều kiện tham gia
bào chữa. Ngoài ra, cũng nên bỏ thủ tục cấp
giấy chứng nhận NBC; thay vào đó, NBC chỉ
cần phải trình cho cơ quan THTT những loại
giấy tờ cần thiết liên quan đến việc bào chữa
như: văn bản yêu cầu NBC của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo (trong trường hợp NBC do
cơ quan THTT chỉ định, không cần phải có văn
bản này); thẻ luật sư (nếu là luật sư); giấy giới
thiệu của văn phòng luật sư hoặc của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nếu là BCVND).
- Phát triển đội ngũ NBC nhằm đáp ứng tốt
nhu cầu được trợ giúp pháp lý.
Đào tạo đội ngũ luật sư: Luật sư là lực lượng
nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý nói
chung và tham gia bào chữa trong vụ án hình
sự nói riêng. Tuy nhiên, số luật sư hiện nay
trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu được tư vấn pháp lý và bào chữa18.
Trước thực trạng trên, Thủ tướng Chính phủ
vừa ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg
ngày 5/7/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển
nghề luật sư đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu
của Chiến lược là đến năm 2020, phát triển số
lượng khoảng từ 18.000 - 20.000 luật sư, đạt
tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Hy vọng với định hướng phát triển này sẽ đáp
ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng các dịch vụ tư
vấn pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có
những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm tạo khung
pháp lý đồng bộ về đội ngũ luật sư, đó là: (i)
(17) Theo khoản 4 Điều 56 BLTTHS thì trong thời hạn 3 ngày (hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ) kể từ ngày nhận được đề nghị của
NBC kèm theo những giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng
nhận NBC để họ thực hiện việc bào chữa.
32 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề
luật sư đối với viên chức nhà nước đang là
giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại
học. Giảng viên luật tại các trường đại học là
những người có nền tảng kiến thức pháp luật
vững chắc và phù hợp với nghề luật sư. Việc
tham gia của đội ngũ giảng viên luật trong hoạt
động nghề nghiệp luật sư không chỉ đáp ứng
về mặt chất lượng mà còn bổ sung hiệu quả về
số lượng luật sư đang thiếu hụt. Tuy nhiên, kể
từ khi Luật Luật sư được ban hành và có hiệu
lực từ ngày 1/7/2006, những giảng viên luật là
viên chức nhà nước đã có chứng chỉ và đang
hành nghề luật sư buộc phải lựa chọn hoặc từ
bỏ viên chức nhà nước để tiếp tục hành nghề
hoặc ngược lại.19 Quy định này được cho là
phù hợp với Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm
2003.20 Tuy nhiên hiện tại, Luật Viên chức đã
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào
ngày 1/1/2012 là cơ sở pháp lý cho phép viên
chức nhà nước được tham gia vào các hoạt
động nghề nghiệp phù hợp với chuyên môn
và không trái pháp luật.21 Vì vậy, cần sớm bổ
sung quy định của Luật Luật sư theo hướng
mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề
đối với giảng viên dạy luật là viên chức tại các
trường đại học công lập; (ii) mở rộng hợp tác
đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề; tăng
cường hợp tác trao đổi với các tổ chức luật sư
nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm; nâng cao
mức thù lao chi phí đối với luật sư chỉ định.
Hiện nay, rất nhiều ý kiến cho rằng, mức thù
lao được trả cho luật sư là 120.000 đồng/1ngày
làm việc của luật sư đối với những vụ án do
cơ quan THTT yêu cầu không hợp lý.22 Để
phù hợp với tình hình lạm phát kinh tế và đáp
ứng tốt chất lượng bào chữa, Nhà nước cần có
chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả
cho luật sư chỉ định và không nên đưa ra một
mức thù lao áp đặt.
Phát triển trợ giúp viên pháp lý: Mặc dù
công tác đào tạo đội ngũ luật sư đã đáp ứng
phần nào nhu cầu của người dân về hỗ trợ pháp
lý, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở
những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, việc
đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo mời
luật sư tham gia tố tụng là rất khó. Vì vậy, phát
triển đội ngũ trợ giúp viên pháp lý ở các địa
phương sẽ là giải pháp hiệu quả nhằm tăng
cường hoạt động bào chữa.
Hoàn thiện quy định về Bào chữa viên nhân
dân (BCVND): Chức danh BCVND ở nước
ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949 của Chủ tịch nước.23 Tuy nhiên, từ
năm 1989 đến nay, khi các đoàn luật sư được
khôi phục lại thì hoạt động BCVND hầu như
chấm dứt, chức danh BCVND chỉ tồn tại trên
phương diện pháp lý. Hiện tại không có văn
bản pháp quy nào quy định về thành lập, tổ
chức, quản lý, phát triển đội ngũ này. Do đó,
cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật
quy định thống nhất về BCVND. Bên cạnh đó,
ban hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ chức
và hoạt động của BCVND theo hướng giao
cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đứng ra thành
lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu
trách nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
bào chữa.
(18) Theo kết quả khảo sát của Liên đoàn luật sư, đến cuối năm 2009, trong cả nước có 62 Đoàn luật sư với hơn 5.000 luật sư và 2000
người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 1.500 tổ chức hành nghề luật sư. Cũng theo khảo sát này, tỷ lệ số luật sư trên
dân số ở Việt Nam là 1 luật sư/hơn 17.000 người dân. Tỉ lệ này là quá thấp so với các nước lân cận (Thái Lan: 1/1.526, Singapore:
1/1.000, Nhật Bản: 1/4.546).
(19) Luật Luật sư quy định những người đang là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước đã được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư sẽ
bị thu hồi.
(20) Điều 17 Pháp lệnh Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia
quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh
viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư.” Hiện tại, văn bản này đã bị hủy bỏ và được thay thế bằng Luật Cán bộ,
Công chức có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
(21) Điều 14 Luật Viên chức 2010.
(22) Khoản 1, Điều 11 Nghị định 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư.
(23) Điều 1 Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 ghi nhận: “Từ nay, trước các Toà án thường và Toà án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình,
trừ Toà án binh tại mặt trận, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải
được ông Chánh án thừa nhận.”
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_ve_bao_dam_quyen_co_nguoi_bao_chua_trong.pdf