Bốn là, Khoản 1 Điều 103 Dự thảo
Luật xác định: “Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu
tư chứng khoán gồm tất cả các nhà đầu tư, là
cơ quan quyết định cao nhất của quỹ đầu tư
chứng khoán”. Khoản 3 Điều này xác định:
“Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán
được triệu tập hàng năm hoặc bất thường
nhằm xem xét và quyết định các nội dung
thuộc thẩm quyền của Đại hội nhà đầu tư
quỹ đầu tư chứng khoán”. Như vậy, Đại hội
nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán được
triệu tập hàng năm nhằm xem xét và quyết
định các nội dung thuộc thẩm quyền của Đại
hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán. Nên
về nguyên tắc, phải coi quyết định của Đại
hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán được
triệu tập hàng năm là các thông tin định kỳ
cần phải công bố. Tuy nhiên, trong Điều
125 Dự thảo Luật khi quy định về nội dung
CBTT của quỹ đại chúng thì điều này hoàn
toàn không có. Vì vậy, cần phải bổ sung nội
dung này vào phần quy định về nghĩa vụ
CBTT của quỹ đại chúng.
Năm là, quy định về nội dung CBTT
của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng
chưa chính xác. Bởi lẽ, công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng theo Dự thảo Luật là một
loại của quỹ đầu tư chứng khoán và được
tổ chức dưới hình thức CTCP theo quy định
của Luật Doanh nghiệp để đầu tư chứng
khoán10. Theo Luật Doanh nghiệp, ĐHĐCĐ
của CTCP có hai loại: ĐHĐCĐ thường niên
và ĐHĐCĐ bất thường11. Khoản 1 Điều 126
Dự thảo Luật quy định: “Công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán CBTT định kỳ về công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng đối với các
nội dung sau đây: .Nghị quyết ĐHĐCĐ
thường niên”. Tuy nhiên, trong toàn bộ
Điều 126 Dự thảo Luật không đề cập đến
việc thông qua “Nghị quyết ĐHĐCĐ bất
thường” của Công ty đầu tư chứng khoán
đại chúng. Vậy nếu công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng có tiến hành ĐHĐCĐ bất
thường và có thông qua Nghị quyết thì nội
dung này có cần phải CBTT không? Rõ ràng
đây là sự thiếu sót của Dự thảo Luật vì Nghị
quyết của ĐHĐCĐ ảnh hưởng rất nhiều đến
công ty.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định về công bố thông tin trong dự thảo luật chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
TRONG DỰ THẢO LUẬT CHỨNG KHOÁN (SỬA ĐỔI)
Tóm tắt:
Trong Dự thảo lần 4 Luật Chứng khoán (sửa đổi), quy định về
hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán vẫn
còn nhiều điểm chưa hợp lý, như về tên của một số điều khoản,
nguyên tắc công bố thông tin, nội dung của các thông tin cần
công bố của các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin... Vì vậy,
cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định trong nội dung
công bố thông tin nhằm bảo vệ hiệu quả hơn nữa nhà đầu tư và
tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển bền vững.
Phan Phương Nam*
* TS. Phó trưởng Khoa Luật thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
In the version 4 of the Bill of Law on Securities (amendment),
there are a number of unreasonable provisions on information
disclosure in the stock market, such as the names of articles and
principles of information disclosure of the information contents
to be disclosed by the entities that are obliged to disclose the
information. Therefore, it is required to review for further
improvement of the provisions on information disclosure so that
it is to more effectively protect the investors and to facilitate to
stably develop the stock market.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công bố thông tin, đối tượng
công bố thông tin, nội dung thông tin
công bố.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/08/2019
Biên tập : 26/08/2019
Duyệt bài : 29/08/2019
Article Infomation:
Keywords: information disclosure;
subjects to disclose information; contents
of information disclosure.
Article History:
Received : 19 Aug. 2019
Edited : 26 Aug. 2019
Approved : 29 Aug. 2019
1. Dẫn nhập
Trên thị trường chứng khoán (TTCK),
thông tin đóng vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ,
thông tin là cơ sở rất cần thiết cho nhà đầu
tư khi quyết định mua, bán chứng khoán.
Tuy nhiên, vì nhiều yếu tố mà vấn đề bất
1 Nguyễn Văn Vân (2010), “Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán là cá nhân trong điều
kiện toàn cầu hóa tài chính - tiền tệ”, Báo cáo tổng kết Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp bộ, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, tr.88.
2 Sông Trà (2018), Tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán, báo Nhân dân, https://www.nhandan.com.vn/
chungkhoan/item/36797602-tang-tinh-minh-bach-cua-thi-truong-chung-khoan.html, truy cập ngày 12/08/2019.
cân xứng thông tin vẫn đã, đang diễn ra
trên TTCK nói chung và TTCK Việt Nam
nói riêng1. Sự bất cân xứng thông tin xảy
ra không chỉ ảnh hưởng đến nhà đầu tư mà
còn tạo ra hệ quả lâu dài về niềm tin đối với
TTCK2. Mà “niềm tin là một thứ khó gây
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 17(393) T9/2019
dựng, song lại dễ mất”3, vì thế, nếu để “niềm
tin” bị mất sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự
tồn tại và phát triển của TTCK nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Xác định được tầm
quan trọng của thông tin trên, pháp luật về
chứng khoán và TTCK của các quốc gia đều
có những quy định điều chỉnh vào hoạt động
công bố thông tin (CBTT) trên TTCK nhằm
đảm bảo sự công khai, minh bạch thông tin,
tạo điều kiện cho sự phát triển của TTCK4.
Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Chứng
khoán năm 2010 đã có những quy định cơ
bản về hoạt động CBTT cho TTCK. Luật đã
xác định về chủ thể, nội dung thông tin cần
công bố, phương thức CBTT trên TTCK.
Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn những
điểm hạn chế như: chưa bao quát hết tất cả
chủ thể có thông tin và thông tin cần phải
công bố, các nội dung thông tin cần công bố
còn chưa đầy đủ, bao quát hết các thông tin
mà TTCK cần để nhà đầu tư thực hiện hoạt
động đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước thực
hiện công việc quản lý. Dự thảo Luật Chứng
khoán lần 4 (Dự thảo Luật) đang cố gắng
khắc phục các tồn tại này5.
2. Đánh giá và kiến nghị hoàn thiện những
quy định công bố thông tin của Dự thảo
Luật
Dự thảo Luật đã dành toàn bộ Chương
VIII với 10 Điều để quy định về CBTT.
Nhìn chung, Dự thảo Luật đã có những tiến
bộ nhất định so với Luật Chứng khoán hiện
hành khi quy định về CBTT ở những điểm
sau:
Một là, Dự thảo Luật xác định nhiều
hơn các đối tượng có nghĩa vụ CBTT như:
3 Xem Phạm Duy Nghĩa (2009), Giáo trình Luật kinh tế, Chương 10 Phần 3: “CTCP và TTCK: Cuộc trường chinh hướng
tới xã hội cổ đông”, Nxb. Công an nhân dân, tr.266.
4 Trần Trọng Nguyên, Đàm Thanh Tú, Bùi Thị Hà Linh (2019), Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin
tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam - Tổng quan nghiên cứu và đề xuất mô hình, Tạp chí Khoa học và Đào
tạo ngân hàng, Số 202 - tháng 3/2019, tr.45.
5 Dự thảo Luật Chứng khoán lần 4, đăng trên:
=1&LanID=1721, truy cập ngày 15/08/2019.
cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế
chuyển nhượng của công ty đại chúng, công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng; nhóm nhà
đầu tư nước ngoài có liên quan sở hữu từ 5%
trở lên số cổ phiếu đang lưu hành có quyền
biểu quyết của một tổ chức phát hành hoặc
từ 5% trở lên chứng chỉ quỹ của quỹ đóng;...
để đảm bảo tính bao quát và hợp lý của quy
định, xác định chính xác hơn Luật hiện hành
về các chủ thể có thông tin.
Hai là, Dự thảo Luật dành riêng một
điều để quy định về “Nguyên tắc CBTT”.
Cách làm này theo chúng tôi là đúng, vì nó
thể hiện được những nguyên tắc cơ bản cần
tuân thủ của hoạt động CBTT mà các chủ
thể có nghĩa vụ phải thực hiện nhằm đảm
bảo cho hoạt động CBTT đạt được hiệu quả.
Ba là, những nội dung thông tin cần
công bố được Dự thảo Luật xác định chi tiết
hơn, cụ thể hơn cho từng nhóm đối tượng so
với Luật hiện hành. Điều này tạo điều kiện
cho những chủ thể có nghĩa vụ CBTT dễ áp
dụng, dễ thực hiện nghĩa vụ hơn cũng như
tạo sự minh bạch, rõ ràng khi áp dụng trong
hoạt động quản lý nhà nước.
Bên cạnh những thành công trên, theo
chúng tôi, Dự thảo Luật cũng có những hạn
chế nhất định sau:
Thứ nhất, việc xác định vị trí và nội
dung trong quy định về nguyên tắc CBTT
còn chưa hợp lý.
Một là, Dự thảo Luật cần thay đổi
trong sắp xếp một số điều khoản khi quy
định về CBTT. Theo đó, nguyên tắc trong
hoạt động CBTT cần xác định là nội dung
đầu tiên khi quy định về hoạt động CBTT.
Bởi lẽ nguyên tắc được đưa ra nhằm làm nền
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 17(393) T9/2019
tảng cơ bản, làm cơ sở cho những hoạt động
nhất định nên nguyên tắc CBTT sẽ chi phối
đến toàn bộ các quy định của hoạt động này.
Vì lẽ đó, quy định về nguyên tắc cần được
đưa vào điều đầu tiên trong chương này6.
Hai là, nội dung trong quy định về
“nguyên tắc CBTT” còn thiếu. Trong đó,
khoản 1 Điều này quy định “Việc CBTT phải
đầy đủ, chính xác, kịp thời”. Thực chất quy
định này là kế thừa từ Luật Chứng khoán
hiện hành. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng,
cần bổ sung thêm vào quy định này cụm từ
“dễ tiếp cận”, nhằm đảm bảo khả năng dễ
tiếp cận thông tin của nhà đầu tư (thông qua
các quy định về phương thức CBTT do Bộ
Tài chính quy định chi tiết).
Thứ hai, tên gọi Điều 119 Dự thảo
Luật là chưa chính xác.
Tên Điều 119 Dự thảo Luật là “Đối
tượng CBTT”. Tuy nhiên khoản 2 Điều
119 quy định: “Bộ Tài chính quy định cụ
thể nội dung, thời hạn, phương thức, ngôn
ngữ CBTT của từng đối tượng quy định tại
khoản 1 Điều này”. Như vậy là không tương
thích giữa tên điều luật và nội dung. Có hai
cách xử lý: i) thay đổi tên điều này thành
“Đối tượng CBTT, nội dung thông tin công
bố, thời gian, phương thức và ngôn ngữ sử
dụng khi CBTT” hoặc ii) quy định một điều
mới với tên gọi: “Nội dung thông tin công
bố, thời gian, phương thức và ngôn ngữ sử
dụng khi CBTT” và chuyển khoản 2 Điều
119 thành nội dung của điều luật mới. Chọn
phương án thứ nhất sẽ hợp lý và thuận lợi
hơn so với phương án hai.
Thứ ba, có sự nhầm lẫn khi quy định
về nội dung CBTT của một số chủ thể có
nghĩa vụ CBTT. Điều này thể hiện qua:
Theo quy định, công ty đại chúng
có nghĩa vụ CBTT bất thường khi “thông
6 Điều này đã được Dự thảo Luật áp dụng trong Mục II Chương III quy định về quản trị công ty đại chúng đã xác định
ngay tại Điều đầu tiên của mục II là “Nguyên tắc quản trị công ty đại chúng”.
7 Điểm c khoản 2 Điều 121 Dự thảo Luật.
8 Khoản 1 Điều 136 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông
(ĐHĐCĐ) theo quy định của Luật Doanh
nghiệp”7. Điều này là không hợp lý. Bởi
lẽ, theo quy định của Luật Doanh nghiệp
hiện hành, ĐHĐCĐ của công ty cổ phần
(CTCP) có hai loại là ĐHĐCĐ thường niên
và ĐHĐCĐ bất thường8. Theo đó, điểm d
khoản 1 Điều 121 Dự thảo Luật đã xác định
một trong các nội dung mà Công ty đại chúng
phải CBTT định kỳ là “Nghị quyết ĐHĐCĐ
thường niên”. Điều này có nghĩa là điểm c
khoản 2 Điều 121 Dự thảo Luật quy định
Công ty đại chúng phải CBTT bất thường
là “quyết định của ĐHĐCĐ bất thường
theo quy định của Luật Doanh nghiệp”. Tuy
nhiên, vì thiếu cụm từ “bất thường” nên đã
làm cho quy định tại điểm c khoản 2 Điều
121 Dự thảo luật trở nên không chính xác và
làm cho người đọc hiểu là công ty đại chúng
phải CBTT bất thường bất cứ khi nào có
quyết định của ĐHĐCĐ. Cần bổ sung cụm
từ trên để đảm bảo tính chính xác và hợp lý
trong quy định.
Hai là, theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, ngoài CTCP thì công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) cũng được quyền phát
hành trái phiếu. Điều 14 Dự thảo Luật quy
định điều kiện chào bán trái phiếu ra công
chúng cũng không quy định chỉ có CTCP
mới có thể chào bán trái phiếu ra công chúng.
Nhưng tại điểm c khoản 1 Điều 122 Dự thảo
Luật xác định một trong các nội dung CBTT
của tổ chức chào bán chứng khoán ra công
chúng chỉ là “Nghị quyết ĐHĐCĐ thường
niên” trong khi điều này chỉ phù hợp với tổ
chức phát hành là CTCP. Còn nếu tổ chức
phát hành là công ty TNHH thì đây phải là
“quyết định của Hội đồng thành viên định
kỳ”. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung cụm
từ “hoặc quyết định của Hội đồng thành viên
định kỳ” vào quy định này.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 17(393) T9/2019
Ba là, quy định về nội dung CBTT của
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
chưa chính xác. Theo Điều 72 Dự thảo Luật,
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
có thể tồn tại dưới hình thức công ty TNHH,
CTCP. Vậy nếu công ty chứng khoán, công
ty quản lý quỹ tồn tại dưới hình thức công
ty TNHH thì làm sao các công ty này lại có
nghĩa vụ phải CBTT đối với “Nghị quyết
ĐHĐCĐ thường niên”9. Vì vậy, điểm đ
khoản 1 Điều 124 Dự thảo Luật nên điều
chỉnh theo hướng bổ sung cụm từ “nếu có”
sẽ phù hợp hơn. Ngoài ra, khoản 2 Điều 124
Dự thảo Luật nên bổ sung thêm một nội dung
cần phải công bố nằm trong nội dung công
bố bất thường là: “Nghị quyết ĐHĐCĐ bất
thường hoặc Nghị quyết (quyết định) của Hội
đồng thành viên bất thường hoặc quyết định
của Chủ sở hữu công ty hoặc quyết định của
Chủ tịch công ty”. Bởi lẽ các thông tin này
là những thông tin không phải xuất hiện theo
định kỳ nhưng có thể ảnh hưởng không nhỏ
đến các hoạt động của các công ty.
Bốn là, Khoản 1 Điều 103 Dự thảo
Luật xác định: “Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu
tư chứng khoán gồm tất cả các nhà đầu tư, là
cơ quan quyết định cao nhất của quỹ đầu tư
chứng khoán”. Khoản 3 Điều này xác định:
“Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán
được triệu tập hàng năm hoặc bất thường
nhằm xem xét và quyết định các nội dung
thuộc thẩm quyền của Đại hội nhà đầu tư
quỹ đầu tư chứng khoán”. Như vậy, Đại hội
nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán được
triệu tập hàng năm nhằm xem xét và quyết
định các nội dung thuộc thẩm quyền của Đại
hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán. Nên
về nguyên tắc, phải coi quyết định của Đại
hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán được
triệu tập hàng năm là các thông tin định kỳ
cần phải công bố. Tuy nhiên, trong Điều
125 Dự thảo Luật khi quy định về nội dung
CBTT của quỹ đại chúng thì điều này hoàn
toàn không có. Vì vậy, cần phải bổ sung nội
9 Điểm d khoản 1 Điều 124 Dự thảo Luật.
10 Điều 115 Dự thảo Luật.
11 Khoản 1 Điều 136 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
dung này vào phần quy định về nghĩa vụ
CBTT của quỹ đại chúng.
Năm là, quy định về nội dung CBTT
của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng
chưa chính xác. Bởi lẽ, công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng theo Dự thảo Luật là một
loại của quỹ đầu tư chứng khoán và được
tổ chức dưới hình thức CTCP theo quy định
của Luật Doanh nghiệp để đầu tư chứng
khoán10. Theo Luật Doanh nghiệp, ĐHĐCĐ
của CTCP có hai loại: ĐHĐCĐ thường niên
và ĐHĐCĐ bất thường11. Khoản 1 Điều 126
Dự thảo Luật quy định: “Công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán CBTT định kỳ về công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng đối với các
nội dung sau đây: ...Nghị quyết ĐHĐCĐ
thường niên”. Tuy nhiên, trong toàn bộ
Điều 126 Dự thảo Luật không đề cập đến
việc thông qua “Nghị quyết ĐHĐCĐ bất
thường” của Công ty đầu tư chứng khoán
đại chúng. Vậy nếu công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng có tiến hành ĐHĐCĐ bất
thường và có thông qua Nghị quyết thì nội
dung này có cần phải CBTT không? Rõ ràng
đây là sự thiếu sót của Dự thảo Luật vì Nghị
quyết của ĐHĐCĐ ảnh hưởng rất nhiều đến
công ty.
Thứ tư, Dự thảo Luật Chứng khoán
chưa bao quát hết các nội dung mà các chủ
thể có nghĩa vụ CBTT phải công bố. Khoản
1 Điều 119 Dự thảo Luật xác định rất nhiều
chủ thể có nghĩa vụ CBTT. Sau đó, trong
các Điều 121, 122, 123, 124, 125, 126, 127,
128 Dự thảo Luật đã lần lượt xác định nhiều
nội dung của một số chủ thể được liệt kê
tại khoản 1 Điều 119 Dự thảo Luật cần phải
CBTT. Tuy nhiên, có những chủ thể sau:
cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế
chuyển nhượng của công ty đại chúng, công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng; người nội
bộ của công ty đại chúng, người nội bộ của
quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán
đại chúng theo quy định... và người có liên
quan của người nội bộ; nhóm nhà đầu tư
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 17(393) T9/2019
nước ngoài có liên quan sở hữu từ 5% trở
lên số cổ phiếu đang lưu hành có quyền biểu
quyết của một tổ chức phát hành hoặc từ 5%
trở lên chứng chỉ quỹ của quỹ đóng chưa
được Dự thảo Luật xác định các nội dung
thông tin cơ bản cần phải công bố. Theo
chúng tôi, Dự thảo Luật nên có những quy
định cơ bản về các chủ thể này để sau đó
Bộ Tài chính quy định cụ thể hơn. Ví dụ:
“Những chủ thể... trước khi thực hiện hoạt
động làm thay đổi tỷ lệ sở hữu trước đó về
chứng khoán có liên quan thì có nghĩa vụ
phải CBTT theo quy định của Bộ Tài chính”.
Quy định này nhằm xác lập quyền và nghĩa
vụ quy định cụ thể cho Bộ Tài chính thực
hiện cho hợp lý, thể hiện được tính bao quát
của Dự thảo Luật khi quy định về vấn đề
này. Ngoài ra, việc xác lập nghĩa vụ cơ bản
trong CBTT của chủ thể này sẽ là tiền đề
quan trọng trong việc đưa ra hình thức xử
lý khi các chủ thể vi phạm nghĩa vụ CBTT
theo quy định.
Phát triển TTCK minh bạch không chỉ
là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước
mà còn cần sự nỗ lực của tất cả các chủ thể
tham gia TTCK để TTCK thật sự là kênh
đầu tư hấp dẫn, huy động vốn hiệu quả cho
nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu trên, điều
quan trọng là bảo đảm độ cân xứng thông
tin trên TTCK, làm cho tính công khai, minh
bạch thông tin trên TTCK ngày càng rõ nét,
tạo dựng và duy trì được lòng tin của nhà
đầu tư
cách tiếp cận đối với Luật Thanh niên. Đạo
luật về Chương trình thanh niên 2001 của
Ireland quy định về (1) Vai trò của Chính
phủ, (2) Vai trò của các tổ chức tình nguyện
đối với việc thực hiện chương trình thanh
niên; (3) Quy trình lập nội dung cho các
chương trình thanh niên và (4) Ngân sách
dành cho chương trình thanh niên17.
Như vậy, thay vì quy định các quyền
và nghĩa vụ của thanh niên, các quốc gia nêu
trên tập trung vào việc thiết lập chính sách
thanh niên, thiết lập các cơ quan kể cả thuộc
chính phủ hay không thuộc chính phủ để
thực hiện chính sách thanh niên, và quy định
các vấn đề ngân sách nhằm thực hiện các
chính sách đó. Như vậy, các đạo luật này tập
trung vào việc thiết lập cơ chế và đảm bảo
làm sao để cơ chế đó hoạt động hiệu quả, đạt
được mục đích của chính sách thanh niên tại
các quốc gia đó.
Liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
thanh niên, dường như các quốc gia này đều
17 Youth Work Act 2011.
chia sẻ một đồng thuận ngầm rằng, thanh
niên cũng là con người và công dân, nên sẽ
được hưởng các quyền con người và quyền
công dân mà pháp luật quy định. Đồng thời,
nếu một công dân trong độ tuổi thanh niên
thuộc vào một nhóm dễ tổn thương nào đó,
người đó sẽ được hưởng các bảo vệ đặc biệt
đối với nhóm này. Bởi đã có các luật khác
quy định, quyền và nghĩa vụ của thanh niên
không phải là vấn đề mà đạo luật thanh niên
cần điều chỉnh.
4. Kiến nghị
Với cách tiếp cận nêu trên, chúng tôi
cho rằng, Luật Thanh niên không nên quy
định các quyền và nghĩa vụ của thanh niên.
Thay vào đó, Luật này nên tập trung vào
thiết lập các cơ chế nhằm thực thi hiệu quả
chính sách thanh niên. Bởi suy cho cùng,
nếu không có cơ chế hiệu quả để thực hiện,
thì chính sách và luật cũng chỉ là những
mảnh giấy có ngôn từ đẹp nhưng không có
giá trị thực tiễn
HOÀN THIỆN DỰ THẢO LUẬT ...
(Tiếp theo trang 31)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 17(393) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_ve_cong_bo_thong_tin_trong_du_thao_luat.pdf