Thứ nhất, chất lượng dịch vụ công và
việc đo lường chất lượng dịch vụ công là vấn
đề rất được quan tâm ở các quốc gia và ở Việt
Nam, vì nó không chỉ gắn với hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước, mà còn gắn với
bản chất và mối quan hệ giữa nhà nước với
người dân.
Thứ hai, mặc dù vấn đề đo lường chất
lượng dịch vụ công mới được nêu ra trên thế
giới trong vài thập kỷ gần đây, song cho đến
nay, đã có những bộ chỉ số cho phép thực
hiện việc này một cách khá toàn diện, trên tất
cả các phương diện, trong đó tập trung vào
phương diện dịch vụ hành chính công. Tuy
các bộ chỉ số đo lường này vẫn còn những
hạn chế nhất định, nhưng chúng vẫn được
đón nhận, sử dụng bởi các tổ chức quốc tế và
ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, bên cạnh các bộ chỉ số đo lường
chung được sử dụng bởi các tổ chức quốc tế,
ở Việt Nam còn có một số bộ chỉ số khác do
các tổ chức trong nước xây dựng hoặc hợp
tác với các tổ chức quốc tế xây dựng, nhằm
đo lường những lĩnh vực cụ thể của quản trị
nhà nước và dịch vụ công ở tất cả các cấp
độ, bao gồm cả cấp độ cơ sở. Điều đó cho
thấy sự quan tâm lớn của Nhà nước Việt Nam
với vấn đề cải cách quản trị nhà nước. Đây
cũng là tiền đề cho những biến đổi mạnh mẽ
hơn trong quản trị nhà nước nói chung và việc
cung cấp dịch vụ công nói riêng ở nước ta
trong thời gian tới
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định về thủ tục khởi kiện, thủ tục kháng cáo của đương sự trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Để bảo đảm quyền tố tụng của đương sự thông qua thủ tục tố tụng
dân sự, pháp luật tố tụng dân sự phải quy định trình tự, thủ tục cũng
như các hoạt động tố tụng của các chủ thể trong các giai đoạn tố
tụng một cách khoa học, hợp lý. Tuy nhiên, một số quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành
về thủ tục khởi kiện và thủ tục kháng cáo còn bất cập và chưa gắn
liền với việc bảo đảm quyền khởi kiện và quyền kháng cáo của
đương sự trong tố tụng dân sự . Để bảo đảm cho các quyền tố tụng
của đương sự được thực thi hữu hiệu, các quy định này cần được
sớm hoàn thiện.
Nguyễn Thị Thúy Hằng*
* ThS. NCS. Trường Đại học Luật - Đại học Huế
Abstract
For assurance of the litigation rights of the litigants through civil
proceedings, the legal regulations on the civil procedure should
provide the procedures and proceedings of the subjects in the
procedural stages in scientific and reasonable manner. However, a
number of provisions of the Civil Procedure Code of 2015 and its
guiding legal regulations on procedures for lawsuits and appeals are
inadequate and are not associated with the assurance requirements
of the right to sue and the rights to protest litigants' statements in
the civil proceedings. In order to ensure that the litigation rights of
the litigants are effectively enforced, these regulations should be
further reviewed and improved.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thủ tục khởi kiện, thủ tục
kháng cáo, bảo đảm quyền tố tụng của
đương sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/12/2018
Biên tập : 05/01/2019
Duyệt bài : 09/01/2019
Article Infomation:
Keywords: procedures for lawsuits and
appeals, ensuring the litigation right of
the litigants.
Article History:
Received : 01 Dec. 2018
Edited : 05 Jan. 2019
Approved : 09 Jan. 2019
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC KHỞI KIỆN, THỦ TỤC
KHÁNG CÁO CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Quy định của pháp luật về thủ tục khởi
kiện, thủ tục kháng cáo với việc bảo đảm
quyền khởi kiện, quyền kháng cáo của
đương sự
1.1 Quy định pháp luật về thủ tục khởi
kiện với việc bảo đảm quyền khởi kiện của
đương sự
1 Tống Công Cường (2007), Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
Khởi kiện là hành vi tố tụng đầu tiên
của nguyên đơn làm phát sinh các quan hệ
pháp luật tố tụng1. Để Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện, đơn khởi kiện phải bảo đảm
các nội dung luật định. Một trong những nội
dung mà đơn khởi kiện phải có là: tên, nơi
cư trú, làm việc của người bị kiện, người
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 8(384) T4/2019
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là cá nhân
hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan,
tổ chức2. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân (TAND) tối cao đã ban hành Nghị quyết
số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn về trả lại
đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại
vụ án. Theo đó, khoản 2 Điều 5 Nghị quyết
quy định, để Tòa án thụ lý vụ án thì người
khởi kiện phải chứng minh mình ghi đúng
địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan (được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng
minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)3.
Chính vì vậy, khi đương sự nộp đơn khởi
kiện, ngoài các hồ sơ tài liệu theo quy định,
Tòa án còn yêu cầu cung cấp thêm các giấy
tờ xác nhận của chính quyền địa phương về
việc người bị kiện đang cư trú tại địa chỉ
trong đơn khởi kiện4. Hướng dẫn của Nghị
quyết đã gây ảnh hưởng đến quyền quyền
khởi kiện của đương sự, bởi lẽ, không dễ
dàng để yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xác nhận đó là địa chỉ của người bị
kiện hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan. Thực tế cho thấy, “có Tòa án yêu cầu
đến chính quyền cơ sở nơi bị đơn cư trú xác
nhận (vào một văn bản khác) là bị đơn hiện
vẫn đang cư trú tại địa chỉ được ghi trong
đơn khởi kiện thì mới nhận đơn”5. Tương
tự như vậy, trong một thông báo yêu cầu bổ
sung tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện số 124 ngày 15/6/2017 của TAND tỉnh
Thừa Thiên Huế yêu cầu người khởi kiện
phải nộp tài liệu chứng cứ xác thực nơi cư
trú của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan mới thụ lý vụ án.
2 Bộ luật TTDS 2015, điểm e, đ khoản 4 Điều 189.
3 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 192 Bộ luật TTDS về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, Điều 5 khoản 2.
4 Công ty luật hợp danh Nghiêm & Chính (2015), Góp ý sửa đổi Bộ luật TTDS, Hội thảo tham vấn hoàn thiện Bộ luật
TTDS để cải thiện môi trường kinh doanh, Hà Nội, 2015, tr.2.
5 Tưởng Duy Lượng (2015), “Báo cáo khảo sát về chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng”, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo
tham vấn hoàn thiện Bộ luật TTDS để cải thiện môi trường kinh doanh, Hà Nội, Tr.3&4.
Một trong những điều kiện khác để
Tòa án thụ lý vụ án là người khởi kiện phải
nộp tiền tạm ứng án phí nếu họ không thuộc
trường hợp được miễn án phí. Thời hạn nộp
tiền tạm ứng án phí được quy định trong Bộ
luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 là 7
ngày. Tiền tạm ứng án phí phải nộp tối thiểu
bằng 50% tiền án phí. Tiền án phí được tính
theo giá ngạch, tức là giá trị tranh chấp càng
lớn thì án phí càng cao. Đối với những vụ án
tranh chấp đất đai hoặc tranh chấp những tài
sản có giá trị lớn mà người khởi kiện không
có khả năng kinh tế nhưng không thuộc
trường hợp được miễn, giảm án phí thì thời
hạn 7 ngày là quá ngắn, gây ảnh hưởng đến
quyền khởi kiện của đương sự.
1.2 Các quy định của pháp luật về thủ tục
kháng cáo với việc bảo đảm quyền kháng
cáo của đương sự
Quyền kháng cáo là quyền của đương
sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại
bản án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật. Quyền kháng cáo của đương sự thực
hiện có hiệu quả hay không phụ thuộc một
phần vào thủ tục kháng cáo. Tuy nhiên,
không phải quy định nào về thủ tục kháng
cáo cũng bảo đảm quyền kháng cáo của
đương sự. Khoản 1 Điều 272 Bộ luật TTDS
năm 2015 chỉ quy định một hình thức kháng
cáo là đơn kháng cáo. Tuy nhiên, có những
trường hợp đương sự không biết chữ hoặc
người cao tuổi có khó khăn trong việc soạn
thảo đơn, thì quy định này sẽ gây ảnh hưởng
đến quyền kháng cáo của các đương sự.
Theo quy định Bộ luật TTDS, đương
sự phải kháng cáo trong thời hạn luật định,
hết thời hạn kháng cáo thì đương sự mất
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 8(384) T4/2019
quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, Điều 275 Bộ
luật TTDS năm 2015 quy định trường hợp
ngoại lệ là đương sự vì một lý do nào đó mà
không thể thực hiện quyền kháng cáo đúng
hạn thì vẫn chấp nhận quyền kháng cáo quá
hạn. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS năm 2015
không xác định cụ thể trường hợp kháng cáo
quá hạn nào có thể được chấp nhận. Điều này
có thể dẫn tới sự thiếu thống nhất, thậm chí
là tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật. Trên
thực tế, đơn kháng cáo quá hạn của đương
sự được chấp nhận hay không phụ thuộc vào
ý kiến của Hội đồng xét đơn kháng cáo.
Pháp luật TTDS Pháp có quy định
về kháng cáo quá hạn, nhưng chỉ được áp
dụng trong hai trường hợp là: đương sự rơi
vào hoàn cảnh không có khả năng thực hiện
quyền kháng cáo hoặc đương sự không biết
được bản án để thực hiện kháng cáo kịp thời
nhưng không phải do lỗi của họ6. Như vậy,
so với pháp luật TTDS Việt Nam, việc quy
định cụ thể các trường hợp chấp nhận kháng
cáo quá hạn như pháp luật TTDS Pháp sẽ
bảo đảm quyền kháng cáo của đương sự hơn.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về thủ
tục khởi kiện, thủ tục kháng cáo để bảo
đảm quyền khởi kiện, quyền kháng cáo
của đương sự
2.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật về
thủ tục khởi kiện để bảo đảm quyền khởi
kiện của đương sự
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của
khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-
HĐTP theo hướng, người khởi kiện không
phải xác minh địa chỉ của bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan để bảo đảm
quyền khởi kiện của đương sự.
Thứ hai, bổ sung quy định cho phép
đương sự được nhờ người bão lãnh cho việc
6 https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do;jsessionid=C00555382AC3B1B39618A3AD0C1073E3.tplgfr27s_1?id-
SectionTA=LEGISCTA000006135895&cidTexte=LEGITEXT000006070716&dateTexte=20181001, Điều 50, truy
cập ngày 5/10/2017.
nộp tiền tạm ứng án phí để bảo đảm quyền
khởi kiện của đương sự.
Theo quy định của điểm d khoản 1
Điều 192 Bộ luật TTDS năm 2015, nếu hết
thời hạn theo luật định mà người khởi kiện
không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí
cho Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi
kiện. Quy định này sẽ dẫn đến hậu quả là đối
với những trường hợp số tiền tạm ứng án phí
đương sự phải nộp có giá trị lớn mà đương
sự không thể chuẩn bị kịp để nộp trong thời
hạn luật định thì Tòa án sẽ không thụ lý vụ
án. Trên thực tế, không phải đương sự nào
cũng có đủ khả năng để chuẩn bị một số
tiền lớn trong một gian ngắn. Vì vậy, để giải
quyết vấn đề tạm ứng án phí, nhằm bảo đảm
quyền khởi kiện của đương sự, TAND tối
cao nên ban hành văn bản hướng dẫn theo
hướng: đối với trường hợp đương sự không
có đủ tiền để nộp tiền tạm ứng án phí mà
không thuộc đối tượng được miễn, giảm án
phí thì cho phép đương sự được nhờ người
bão lãnh cho việc nộp tiền tạm ứng án phí,
thủ tục bảo lãnh được tiến hành tại cơ quan
thi hành án. Đương sự nộp giấy bảo lãnh cho
Tòa án thì Tòa án sẽ thụ lý vụ án.
2.2 Hoàn thiện quy định về thủ tục kháng
cáo để bảo đảm quyền kháng cáo của
đương sự
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản
1 Điều 272 Bộ luật TTDS năm 2015 theo
hướng bổ sung hình thức kháng cáo để bảo
đảm quyền kháng cáo của đương sự. Theo
đó, khoản 1 Điều 272 Bộ luật TTDS năm
2015 được viết lại như sau:
“Điều 272. Đơn kháng cáo
1. Khi thực hiện quyền kháng cáo,
người kháng cáo có thể làm đơn kháng cáo
hoặc người kháng cáo có thể trình bày trực
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 8(384) T4/2019
tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa
án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Trường
hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với
Tòa án thì Tòa án phải lập biên bản về việc
kháng cáo của người kháng cáo và người
kháng cáo xem như đã kháng cáo hợp lệ”.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều
275 Bộ luật TTDS năm 2015 theo hướng
quy định rõ các trường hợp được kháng cáo
quá hạn để bảo đảm quyền kháng cáo của
đương sự. Theo đó, khoản 1 Điều 275 Bộ
luật TTDS năm 2015 được viết lại như sau:
“Điều 275. Kháng cáo quá hạn và xem
xét kháng cáo quá hạn
1. Việc kháng cáo quá hạn được chấp
nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan mà người kháng cáo không
thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời
hạn do Bộ luật này quy định. Sau khi nhận
được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp
sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường
trình của người kháng cáo về lý do kháng
cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có)
cho Tòa án cấp phúc thẩm.
2.”.
Thứ ba, bổ sung quy định về khiếu nại
và giải quyết khiếu nại đối với quyết định
không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn.
Theo đó, cần thiết kế điều luật riêng quy
định về vấn đề này với nội dung như sau:
“Điều về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại đối với quyết định không chấp
nhận đơn kháng cáo quá hạn.
1. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định không chấp nhận đơn
kháng cáo quá hạn, đương sự có quyền khiếu
nại với Tòa án đã ra quyết định.
2. Ngay sau khi nhận được đơn khiếu
nại về việc không chấp nhận đơn kháng cáo
quá hạn của đương sự, Chánh án Tòa án phải
phân công một Thẩm phán khác xem xét,
giải quyết khiếu nại.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày được phân công, Thẩm phán phải
mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại.
Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại có
sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng
cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp
đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến
hành phiên họp.
4. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ kháng
cáo quá hạn, ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát, Thẩm phán phải ra một trong các quyết
định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn kháng
cáo và thông báo cho đương sự, Viện kiểm
sát cùng cấp.
b) Nhận lại đơn kháng cáo quá hạn và
tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ
lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
5. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định trả lời khiếu nại về việc
trả lại đơn kháng cáo quá hạn của Thẩm phán,
người kháng cáo có quyền khiếu nại với Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải
quyết.
6. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn
kháng cáo, Chánh án Tòa án trên một cấp
trực tiếp phải ra một trong các quyết định
sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn kháng
cáo;
b) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận
lại đơn kháng cáo và tài liệu, chứng cứ kèm
theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Quyết định giải quyết khiếu nại của
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có
hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người
kháng cáo. Quyết định của Chánh án Tòa án
cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng”
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 8(384) T4/2019
Vũ Công Giao*
* PGS.TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
VẤN ĐỀ ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM1
1 Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp bộ: “Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” do GS.TS. Phan Trung Lý làm Chủ nhiệm.
1. Khái quát về dịch vụ công và chất lượng
dịch vụ công
1.1 Dịch vụ công
Để hiểu về dịch vụ công, đầu tiên phải
bắt đầu từ khái niệm dịch vụ. Có tác giả cho
rằng, “dịch vụ là mọi hành động và kết quả
mà một bên có thể cung cấp cho bên kia. Nó
chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền
Tóm tắt:
Ở Việt Nam, bên cạnh các bộ chỉ số đánh giá chất lượng dịch vụ
công mang tính tổng quát do một số tổ chức quốc tế giới thiệu, còn
có một số bộ chỉ số khác do các tổ chức trong nước tự xây dựng
hoặc hợp tác với các tổ chức quốc tế xây dựng. Các bộ chỉ số này
đề cập đến một phạm vi rộng các vấn đề của quản trị nhà nước, cho
phép đánh giá chất lượng dịch vụ công trên nhiều lĩnh vực và ở mọi
cấp độ quản lý. Điều đó chứng tỏ Nhà nước Việt Nam rất quan tâm
đến cải cách quản trị nhà nước và nâng cao hiệu quả cung cấp dịch
vụ công cho người dân.
Abstract
In Vietnam, along with to the general key performance indicators
of public services introduced by a number of international
organizations, there are a number of key performance indicators
developed by local organizations or from the cooperations between
the local organization and the international ones. These indicators
refer to a wide range of governance issues, allowing assessment
of public service performances by wide range of fields and at all
levels of administration. This proves that the Vietnam Government
is so interested in reforming public governance and improving the
efficiency of providing its public services to the people.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: dịch vụ, dịch vụ công, chất
lượng dịch vụ công, quản trị nhà nước
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/03/2019
Biên tập : 10/04/2019
Duyệt bài : 16/04/2019
Article Infomation:
Keywords: services; public services;
quality of public services; state
governance.
Article History:
Received : 29 Mar. 2019
Edited : 10 Apr. 2019
Approved : 16 Apr. 2019
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 8(384) T4/2019
sở hữu một cái gì đó; nó có thể có hay không
gắn liền với một sản phẩm vật chất”2. Theo
một số tác giả khác, “dịch vụ là những hành
vi, quá trình, cách thức thực hiện một công
việc nào đó nhằm tạo giá trị sử dụng làm
thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách
hàng”3; “Dịch vụ là kết quả tạo ra do các
hoạt động tiếp xúc giữa người cung ứng và
khách hàng để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng”4 Từ những định nghĩa này, có thể
thấy điểm chung trong nhận thức về dịch vụ
đó là mối quan hệ trao đổi giữa hai chủ thể
cung cấp và sử dụng và bản chất của dịch vụ
là đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.
Trong lĩnh vực học thuật, dịch vụ công
hiện vẫn là vấn đề chưa có quan điểm hoàn
toàn thống nhất, đặc biệt là về chủ thể cung
cấp dịch vụ và phạm vi của dịch vụ được
cung cấp. Dù vậy, quan điểm phổ biến cho
rằng dịch vụ công cũng là một dạng dịch vụ,
song có điểm khác biệt cơ bản so với các
dạng dịch vụ khác đó là dịch vụ công do nhà
nước cung cấp hoặc chủ trì, tổ chức cung
cấp. Đây là những hoạt động của cơ quan
nhà nước trong việc thực thi chức năng quản
lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung
ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu
cầu chung, thiết yếu của xã hội5.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), khu
vực công cung cấp các dạng hàng hóa và
dịch vụ “thuần túy” (pure public goods and
services) cho công dân, liên quan đến những
lĩnh vực như: pháp luật, an ninh, quốc phòng,
2 P. Kotler, 1993, “Marketing Managemrnt: Analysis, Planning, Implementation and Control”, Journal of Marketing, pp.
29-42.
3 Zeithaml, Valarie A. & Mary Jo Bitner (2000), Services Marketing, New York: McGraw Hill, second edition
4 Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 8402:1999 về Quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng - Thuật
ngữ và định nghĩa do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành, tại https://vanbanphapluat.co/
tcvn-iso-8402-1999-quan-ly-chat-luong-va-dam-bao-chat-luong.
5 Vũ Quỳnh, Chất lượng dịch vụ hành chính công trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Quản
lý kinh tế trung ương năm 2017, tr.6
6 World Bank, World Development Report 1997
7 Tài liệu trên.
8 Tài liệu trên.
9 Crosby, P.B. (1979), Quality is free, McGraw – Hill, NewYork.
phúc lợi xã hội, môi trường và y tế, sở hữu
(tài sản, nhà đất), giấy tờ tùy thân (hộ chiếu,
visa, chứng minh thư), giấy chứng nhận
(khai sinh, khai tử, hôn thú), đăng ký thành
lập (doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức)6 Bên
cạnh đó, khu vực công theo nghĩa mở rộng
còn có thể cung cấp những hàng hóa và dịch
vụ công khác “không thuần tuý” (impure
goods and services), cụ thể như các dịch vụ
về y tế, giáo dục, giao thông đô thị, thông tin,
cơ sở hạ tầng7. Các dạng dịch vụ công“thuần
tuý” chỉ do các cơ quan nhà nước độc quyền
cung cấp, về cơ bản là miễn phí, trong khi
các dạng dịch vụ ‘không thuần tuý” có thể
do cả các cơ quan nhà nước và những chủ
thể ngoài nhà nước (tư nhân, các tổ chức xã
hội, cộng đồng) cung cấp, có thể miễn phí
hoặc thu phí8.
1.2 Chất lượng dịch vụ công
Chất lượng dịch vụ nói chung và chất
lượng dịch vụ công nói riêng là một vấn đề
được quan tâm ở tất cả các quốc gia, vì thế
đây cũng là một đề tài thu hút sự chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế.
Theo một tác giả, chất lượng dịch vụ
“là bất kỳ điều gì phù hợp với đặc điểm của
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng”9.
Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác
định nghĩa chất lượng dịch vụ là “cảm nhận
của khách hàng về kết quả của dịch vụ”, là
“sự khác biệt giữa những dịch vụ được cung
cấp với sự mong đợi về dịch vụ của khách
hàng”, hoặc là “việc đáp ứng các mong
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 8(384) T4/2019
muốn của khách hàng từ sự hiểu biết của họ
về dịch vụ, những kinh nghiệm của họ trong
quá khứ, những lời truyền miệng và quảng
cáo của doanh nghiệp”10.
Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy
điểm chung là gắn chất lượng dịch vụ với sự
hài lòng khách hàng. Dù vậy, cần thấy rằng
chất lượng dịch vụ không phải là yếu tố duy
nhất tạo ra sự hài lòng của khách hàng. Ngoài
chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của khách
hàng còn chịu sự chi phối bởi một vài yếu tố
chủ quan và khách quan khác, trong đó bao
gồm cả tình trạng cảm xúc của khách hàng ở
thời điểm thụ hưởng dịch vụ
2. Đo lường chất lượng dịch vụ công
Đo lường chất lượng dịch vụ nói
chung, dịch vụ công nói riêng, là một yêu
cầu quan trọng để có thể làm cho việc cung
cấp dịch vụ trở lên tốt hơn. Về vấn đề này,
tác giả James Harington đã đúc kết rằng:
“Cái gì mà không đo được thì không hiểu
được, không hiểu được thì không kiểm soát
được, không kiểm soát được thì không cải
thiện được”11.
Xuất phát từ nhận thức về chất lượng
dịch vụ đã nêu ở mục trên, các nghiên cứu
về việc đo lường chất lượng dịch vụ nói
chung trên thế giới tập trung chủ yếu vào
các biện pháp mà nhà cung cấp dịch vụ sử
dụng để đáp ứng những kỳ vọng của khách
hàng12. Đã có khá nhiều nghiên cứu theo
hướng này được công bố, trong đó tiêu biểu
hơn cả là các nghiên cứu đề xuất hai mô hình
SERVQUAL và mô hình Nordic.
10 Cronin JJ and MK Brady (2001), Some new Thoughts on Conceptualizing Perceived Service Quality: a Hierarchical
Approach, Journal of Marketing
11 Theo Đặng Hoàng Giang, Quản trị Nhà nước: phải đo lường được để cải thiện, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần. Xem tại:
oitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-de-su-kien/20140415/quan-tri-nha-nuoc-phai-do-luong-duoc-de-cai-thien/602418.
html
12 Vũ Quỳnh, Chất lượng dịch vụ hành chính công trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tài liệu đã dẫn, tr.10
13 A Parsu Parasuraman, Valarie A. Zeithaml, Leonard L Berry (1988), SERVQUAL: A multiple- Item Scale for measur-
ing consumer perceptions of service quality, Journal of Retailing.
14 Gronroos (1984), A Service Quality Model and its Marketing Implications,
Published by MCB UP Ltd
Mô hình SERVQUAL được
Parasuraman và cộng sự đề xuất vào năm
1988, bao gồm 5 nhân tố cấu thành chất
lượng dịch vụ: (1) Sự tin cậy (reliability);
(2) Khả năng đáp ứng (responsiveness);
(3) Năng lực phục vụ hay sự bảo đảm
(assurance); (4) Sự đồng cảm (empathy) và
(5) Phương diện hữu hình (tangibles)13. Dựa
trên 5 thành phần này, thang đo SERVQUAL
được thiết kế với 22 biến quan sát đã được
ứng dụng vào đánh giá chất lượng dịch vụ
và sự hài lòng khách hàng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau.
Mô hình Nordic được Gronroos đề
xuất vào năm 1984 (vì thế còn được gọi
là mô hình Gronroos), trong đó chất lượng
dịch vụ được đánh giá dựa trên 3 nhân tố là:
(1) Chất lượng chức năng, (2) Chất lượng kỹ
thuật và (3) Hình ảnh doanh nghiệp. Theo
Gronroos, khách hàng không chỉ quan tâm
tới kết quả của quá trình sản xuất (dịch vụ)
họ nhận được, mà còn quan tâm tới quá trình
sản xuất ra nó14. Đây chính là điểm khác biệt
quan trọng giữa mô hình Nordic và mô hình
SERVQUAL.
Các mô hình đã nêu dùng để đo lường
dịch vụ nói chung, trong đó có dịch vụ công.
Trong thực tế, trong một thời gian dài, việc
đo lường chủ yếu tập trung vào dịch vụ của
các doanh nghiệp. Vấn đề đo lường dịch vụ
công mới chỉ được nêu ra trong khoảng vài
thập kỷ gần đây, cùng với xu hướng phổ
biến trên thế giới bắt đầu từ những thập
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 8(384) T4/2019
kỷ 1980 về đổi mới quản trị nhà nước theo
hướng quản trị tốt, quản trị dân chủ. Chính
những quá trình chuyển đổi này đặt ra yêu
cầu phải đo lường dịch vụ công mà trước đó
chủ yếu do nhà nước cung cấp, để đánh giá
và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Xuất phát từ đặc thù của dịch vụ công
nên ngoài những yếu tố cốt lõi để đo lường
dịch vụ chung, các nghiên cứu về đo lường
dịch vụ công còn sử dụng một số yếu tố khác
để đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ
quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công. Ví dụ,
Aurel Mihail Titu và Anca Ioana Vlad xác định
mô hình cho phép đo lường chất lượng dịch vụ
công thông qua một tập hợp các chỉ số được
phân thành 5 nhóm bao gồm15: 1) Chất lượng
của dịch vụ công; 2) Tính chuyên nghiệp của
các cơ quan cung cấp dịch vụ công; 3) Tính
liên kết, hợp tác trong hệ thống các cơ quan
cung cấp dịch vụ công; 4) Sự phù hợp giữa
mục tiêu và chất lượng của dịch vụ công được
cung cấp; 5) Việc quản lý chất lượng dịch vụ
công, bao gồm tính kịp thời của việc cung cấp
dịch vụ. Mỗi nhóm lớn trong 5 nhóm lại được
chia thành các nhóm nhỏ hơn, trong đó hàm
chứa những yếu tố/chỉ số cụ thể để đánh giá
chất lượng dịch vụ công được cung cấp bởi
các cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, sử dụng
các nhóm tiêu chí này có thể đánh giá không
chỉ chất lượng của dịch vụ công mà còn cả
chất lượng và tính chuyên nghiệp của nguồn
nhân lực trong lĩnh vực công cũng như chất
lượng mối quan hệ hợp tác với công dân của
các cơ quan cung cấp dịch vụ công.
15 Aurel Mihail Titu và Anca Ioana Vlad (2014), Quality Indicators in Reference to the Evaluation of the Quality
Management of Services in Local Public Administration, Procedia Economics and Finance 16 ( 2014 ) 131 – 140.
16 George A.Boyne (2009) (edited), Public Service Performance: Perspectives on Measurement and Management,
Cambridge University Press, Online publication date: September 2009, https://doi.org/10.1017/CBO9780511488511
17 Xem Daniel Kaufmann và Aart Kraay, The Worldwide Governance Indicators: Methodology and Analytical Issues,
2010, WB Policy Research Working Papers, tại
18 Xem chi tiết tại:
19 Xem chi tiết tại:
Tương tự như Mihail Titu và Anca
Ioana Vlad, George A.Boyne cũng đưa ra 5
cách tiếp cận được nhìn nhận để cải thiện
chất lượng dịch vụ công, đó là: (1) Nguồn
lực; (2) Những quy định hành chính; (3) Cấu
trúc thị trường; (4) Tổ chức; và (5) Cách
thức quản lý16.
Bên cạnh các tiêu chí do các học giả
nêu ra, một số tổ chức quốc tế cũng góp
phần vào việc đo lường chất lượng dịch vụ
công thông qua việc xây dựng các bộ chỉ số
đánh giá chất lượng quản trị quốc gia. Về
phạm vi, các bộ chỉ số này có nội dung rộng
hơn, song rất nhiều yếu tố có thể được sử
dụng để đánh giá chất lượng dịch vụ công.
Tiêu biểu cho các công cụ loại này là Bộ
chỉ số quản trị thế giới (World Governance
Indicators - WGI) do Ngân hàng Thế giới
(WB) giới thiệu từ năm 1996. Bộ chỉ số này
cho phép đánh giá và so sánh (nhưng không
xếp hạng) hơn 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên 6 lĩnh vực, từ sự ổn định chính trị,
tiếng nói của người dân tới chất lượng của
ngành lập pháp17 Bên cạnh WGI còn có
một số bộ chỉ số toàn cầu khác, trong đó
bao gồm: Chỉ số cảm nhận tham nhũng do
Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency
International - TI) giới thiệu từ năm 1995,
nhằm cho điểm và xếp hạng mức độ tham
nhũng của các quốc gia18; Chỉ số Năng lực
cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn Kinh tế thế
giới xây dựng, trong đó xếp loại năng lực
cạnh tranh về mặt thương mại của các nhà
nước19; Chỉ số pháp quyền toàn cầu của Dự
án công lý thế giới (WJP Rule of Law Index)
cho phép đánh giá mức độ quản trị quốc gia
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 8(384) T4/2019
từ góc độ hoạt động của các cơ quan và thiết
chế tư pháp20
Các bộ chỉ số nêu trên đều lấy mẫu
khảo sát ngẫu nhiên từ các nhóm xã hội khác
nhau ở từng quốc gia. Những người được
khảo sát sẽ trả lời các câu hỏi được thiết kế
dựa vào những yếu tố cụ thể của các chỉ số
thành phần, sau đó kết quả khảo sát được
xử lý, phân tích bằng các phần mềm chuyên
dụng. Có những chỉ số xếp hạng các quốc
gia, nhưng có những chỉ số không xếp hạng
mà chỉ cung cấp thông tin tham khảo hiện
quốc gia đó đang ở đâu trên bản đồ thế giới
trong lĩnh vực quản trị tương ứng. Chính vì
vậy, thông qua các bộ chỉ số này, các quốc
gia có thể thấy vị trí của mình trong mối
tương quan quốc tế. Dù vậy, các bộ chỉ số
này cũng có nhược điểm đó là chỉ cho phép
đánh giá tình hình ở tầm quốc gia chứ không
ở mức địa phương. Hơn nữa, do được thiết
kế để áp dụng ở nhiều nước và phải thỏa
mãn yêu cầu so sánh liên quốc gia, chúng
không thể đi sâu vào các ngữ cảnh cụ thể
của từng nước.
3. Đo lường chất lượng dịch vụ công ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, ngoài các chỉ số đánh giá
quản trị toàn cầu đã nêu ở mục trên, trong
những năm gần đây còn xuất hiện một số
bộ chỉ số đo lường các khía cạnh khác nhau
của quản trị quốc gia ở cấp độ địa phương.
Như đã đề cập, các bộ chỉ số này cũng có thể
áp dụng để đánh giá việc cung cấp dịch vụ
công của các cơ quan nhà nước. Tiêu biểu
trong số đó là Chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (gọi tắt là PCI) do Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tiến
hành hàng năm từ năm 200621; Chỉ số hiệu
20 Xem tại: https://worldjusticeproject.org/our-work/research-and-data/wjp-rule-law-index-2017%E2%80%932018
21 Xem cụ thể hơn tại đây:
22 Xem cụ thể hơn tại đây:
23 Xem cụ thể hơn tại đây:
24 Đặng Hoàng Giang, Tlđd.
quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở
Việt Nam (gọi tắt là PAPI) do Chương trình
Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tiến hành
hàng năm từ 201122; Chỉ số công lý (JUPI)
do UNDP tiến hành 2 năm một lần từ 201323,
Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính
(SIPAS) do Bộ Nội vụ thực hiện từ năm
2015; Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách
hành chính (PAR INDEX)
Các bộ chỉ số nêu trên đều được triển
khai trên phạm vi toàn quốc, dựa trên trải
nghiệm của hàng ngàn doanh nghiệp, người
dân và các tổ chức xã hội được chọn ngẫu
nhiên, đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau.
Việc lấy ý kiến của doanh nghiệp,
người dân và tổ chức xã hội để đánh giá chất
lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy công
quyền có thể coi là một điểm mới nổi bật
trong hoạt động quản trị nhà nước ở Việt
Nam. Đây là một trong những biểu hiện rõ
ràng của sự chuyển đổi tư duy từ mô hình
nhà nước cai trị sang nhà nước phục vụ.
Đồng thời, đây cũng có thể xem là một dấu
hiệu cho thấy những bước đi tiến bộ trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một số bộ chỉ số như PCI và PAPI, được
đánh giá cao không chỉ ở Việt Nam mà còn
trên thế giới. Tại hội nghị toàn cầu về “Quản
lý hiệu quả bộ máy chính quyền” tổ chức ở
Ấn Độ tháng 11/2013, PAPI được đánh giá
là 1 trong 12 sáng kiến hay trên thế giới về
theo dõi và đánh giá hiệu quả của bộ máy
chính quyền24. Bên cạnh đó, dữ liệu và kết
quả nghiên cứu của PCI, PAPI, JUPI ngày
càng được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước sử dụng trong các công trình
xuất bản trên các tạp chí học thuật quốc tế.
Dưới đây đề cập cụ thể hơn đến một số bộ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 8(384) T4/2019
chỉ số quan trọng đang được sử dụng để
đo lường chất lượng quản trị nhà nước nói
chung, chất lượng cung cấp dịch vụ công nói
riêng ở Việt Nam hiện nay.
Chỉ số hiệu quả quản trị và hành
chính công cấp tỉnh tại Việt Nam (PAPI)
Một trong các mô hình đầu tiên đang
được sử dụng để đánh giá dịch vụ công ở
Việt Nam và được đánh giá cao đó là Chỉ số
hiệu quả quản trị và hành chính công cấp
tỉnh tại Việt Nam (PAPI). Đây là sản phẩm
hợp tác giữa Trung tâm Nghiên cứu Phát
triển, Hỗ trợ Cộng đồng (CECODES) thuộc
Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật Việt
Nam (VUSTA) và UNDP tại Việt Nam từ
năm 2009, cùng với sự hỗ trợ của một số đối
tác khác25. Kể từ khi công bố lần đầu tiên
(năm 2011) tới nay, PAPI đã đóng vai trò
là một bộ chỉ báo hữu dụng phản ánh năng
lực và hiệu quả quản trị của chính quyền ở
cấp trung ương và cấp tỉnh của Việt Nam
theo từng năm và mức độ chuyển biến qua
các năm. Không chỉ vậy, PAPI còn được
ghi nhận là công cụ phản ánh tiếng nói của
người dân về mức độ hiệu quả của bộ máy
nhà nước và chất lượng cung ứng dịch vụ
của chính quyền các cấp, bởi lẽ các chỉ số
PAPI tạo điều kiện để người dân phản ánh ý
kiến của mình với chính quyền và các chủ thể
cung ứng dịch vụ công.
PAPI bao gồm 6 chỉ số nội dung, 22
chỉ số nội dung thành phần, và 92 chỉ tiêu
chính. Sáu chỉ số nội dung bao gồm:
(1)Sự tham gia của người dân ở cấp
cơ sở
PAPI tìm hiểu mức độ tham gia vào
quản lý nhà nước của người dân ở cấp cơ sở,
qua đó đánh giá hiệu quả của các cấp chính
quyền địa phương trong việc huy động sự
tham gia của người dân cũng như tính chủ
động thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân
25 Chi tiết về PAPI xem tại www.papi.vn
của người dân. Chỉ số nội dung thứ nhất bao
gồm 4 chỉ số thành phần: tri thức công dân;
cơ hội tham gia; chất lượng bầu cử và đóng
góp tự nguyện.
(2) Công khai, minh bạch
PAPI đo lường “quyền được biết” về
chính sách, pháp luật của nhà nước mà có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ
tham gia quản lý xã hội của người dân, trong
đó chỉ số nội dung ‘công khai, minh bạch’
được cấu thành từ ba chỉ số nội dung thành
phần là: công khai, minh bạch danh sách hộ
nghèo; công khai, minh bạch ngân sách cấp
xã; và công khai, minh bạch quy hoạch/kế
hoạch sử dụng đất và khung giá đất đền bù.
Chỉ số nội dung thứ hai bao gồm 3 chỉ số
thành phần là: danh sách hộ nghèo; thu, chi
ngân sách cấp xã phường và quy hoạch kế
hoạch sử dụng đất, khung giá đền bù.
(3) Trách nhiệm giải trình với người dân
Chỉ số nội dung ‘Trách nhiệm giải trình
với người dân’ đo lường hiệu quả tương tác
giữa chính quyền với người dân và hiệu quả
hoạt động trên thực tế của các thiết chế thực
hiện dân chủ cơ sở, gồm Ban Thanh tra nhân
dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.
Trên tinh thần của Pháp lệnh về Thực hiện
dân chủ ở cấp cơ sở 2007, những cơ chế đối
thoại giữa chính quyền và nhân dân chính
là nhằm hiện thực hóa quyền “dân bàn” và
“dân kiểm tra” của người dân. Chỉ số nội
dung thứ ba bao gồm 3 chỉ số thành phần:
hiệu quả tương tác với cấp chính quyền; Ban
Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư
cộng đồng.
(4) Kiểm soát tham nhũng
Chỉ số nội dung này phản ánh cảm
nhận và trải nghiệm của người dân về hiệu
quả phòng, chống tham nhũng của các cấp
chính quyền thông qua bốn chỉ số nội dung
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 8(384) T4/2019
thành phần, bao gồm: kiểm soát tham nhũng
trong chính quyền địa phương; kiểm soát
tham nhũng trong cung ứng dịch vụ công;
công bằng trong tuyển dụng nhân lực vào
khu vực công và quyết tâm chống tham
nhũng. Chỉ số nội dung thứ tư bao gồm 4
chỉ số thành phần đó là: kiểm soát ngân sách
trong chính quyền; kiểm soát ngân sách
trong cũng ứng dịch vụ công; công bằng
trong tuyển dụng vào nhà nước và quyết tâm
chống tham nhũng.
(5) Thủ tục hành chính công
Hiệu quả cung ứng dịch vụ hành chính
công được đo lường thông qua các chỉ số về
chất lượng dịch vụ hành chính công trong
những lĩnh vực cần thiết nhất cho đời sống
của người dân, bao gồm dịch vụ chứng thực,
xác nhận của chính quyền cơ sở; dịch vụ cấp
giấy phép xây dựng; dịch vụ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và dịch vụ hành
chính công cấp xã/phường. Các chỉ số đánh
giá tập trung vào các yếu tố tác động đến
sự hài lòng của người dân với những dịch
vụ hành chính công này. Chỉ số nội dung
thứ năm bao gồm 4 chỉ số thành phần đó là:
chứng thực xác nhận; giấy phép xây dựng;
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thủ
tục hành chính cấp xã phường.
(6) Cung ứng dịch vụ công
Chất lượng cung ứng dịch vụ công
được đo lường qua mức độ hiệu quả cung
ứng bốn dịch vụ căn bản cho người dân, gồm
y tế công lập; giáo dục tiểu học công lập; cơ
sở hạ tầng căn bản; và an ninh, trật tự tại
địa bàn khu dân cư. Thông qua Chỉ số PAPI,
người dân chia sẻ trải nghiệm của mình về
mức độ thuận tiện khi sử dụng dịch vụ công,
chất lượng và mức độ sẵn có của các dịch
vụ công căn bản ở các cấp xã/phường, quận/
huyện và tỉnh/thành phố. Chỉ số nội dung
thứ sáu bao gồm 4 chỉ số thành phần: y tế
công lập; giáo dục tiểu học công lập; cơ sở
hạ tầng căn bản và an ninh, trật tự.
Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành
chính (SIPAS)
Ngoài PAPI, vào năm 2015, Bộ Nội
vụ đã tiến hành triển khai Kế hoạch xác định
Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối
với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà
nước (gọi chung là Chỉ số hài lòng về sự
phục vụ hành chính - SIPAS), nhằm đánh
giá khách quan chất lượng cung cấp dịch vụ
hành chính công của các cơ quan hành chính
nhà nước, đồng thời thông qua đó nắm bắt
được yêu cầu, mong muốn của người dân, tổ
chức để có những biện pháp cải thiện chất
lượng cung cấp dịch vụ hành chính công.
SIPAS sử dụng 4 nhóm chỉ tiêu cơ bản
để đo lường sự hài lòng của người dân, tổ
chức với dịch vụ hành chính do các cơ quan
hành chính nhà nước cung cấp. Bốn chỉ tiêu
này được cụ thể hoá thành các tiêu chí thành
phần, cụ thể như sau:
(1) Tiếp cận dịch vụ
Tiêu chí này nhằm đánh giá chất lượng
cung cấp thông tin về dịch vụ hành chính
và cơ sở vật chất tại nơi cung cấp dịch vụ
hành chính, bao gồm các yếu tố về: nguồn
thông tin về dịch vụ hành chính; sự thuận
tiện trong việc tìm hiểu thông tin về dịch vụ
hành chính; mức độ đáp ứng yêu cầu của
người dân, tổ chức về thông tin dịch vụ được
cung cấp; mức độ đáp ứng yêu cầu về cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ người dân,
tổ chức tại cơ quan cung cấp dịch vụ hành
chính; sự hài lòng đối với thông tin về dịch
vụ và cơ sở vật chất tại nơi cung cấp dịch vụ
hành chính.
(2) Thủ tục hành chính
Tiêu chí này nhằm đánh giá chất
lượng thủ tục hành chính thông qua các yếu
tố về: sự công khai, minh bạch của thủ tục
hành chính; sự đơn giản, dễ hiểu trong các
quy định về hồ sơ của thủ tục hành chính;
sự thuận tiện trong thực hiện quy trình giải
quyết thủ tục hành chính; sự hài lòng về thủ
tục hành chính.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 8(384) T4/2019
(3) Sự phục vụ của công chức
Tiêu chí này nhằm đánh giá sự phục
vụ của công chức thông qua các yếu tố về:
thái độ phục vụ của công chức; năng lực giải
quyết công việc của công chức; sự hài lòng
đối với sự phục vụ của công chức.
(4) Kết quả giải quyết công việc của
cơ quan hành chính nhà nước
Tiêu chí này nhằm đánh giá kết quả
giải quyết công việc thông qua các yếu tố về:
kết quả mà người dân, tổ chức nhận được từ
cơ quan hành chính nhà nước; thời gian giải
quyết công việc; chi phí người dân, tổ chức
phải trả để giải quyết công việc; việc tiếp
nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị của người
dân, tổ chức về kết quả giải quyết công việc
của cơ quan hành chính nhà nước; sự hài
lòng về kết quả giải quyết công việc của cơ
quan hành chính nhà nước.
Trên cơ sở 4 nhóm chỉ tiêu trên, SIPAS
cũng cho phép đánh giá chỉ tiêu có tính chất
tổng hợp là: sự hài lòng về phục vụ hành
chính của người dân, tổ chức.
Ngoài ra, SIPAS còn đưa ra các Chỉ
số đánh giá chất lượng để làm chỉ số gốc so
sánh với các chỉ số xác định trong những
năm tiếp theo, qua đó theo dõi sự thay đổi,
cải thiện chất lượng phục vụ người dân, tổ
chức của các cơ quan hành chính nhà nước.
Chỉ số cải cách hành chính (PAR
INDEX)
Với sự hỗ trợ của Dự án Hỗ trợ cải
cách hành chính của Chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP), Bộ Nội vụ đã xây
dựng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách
hành chính nhà nước (PAR INDEX) để áp
dụng chung trong cả nước. Bộ chỉ số này là
công cụ đánh giá kết quả của chương trình
cải cách hành chính nhà nước mà đối tác
chủ yếu là các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Những mục tiêu cụ thể của PAR
INDEX là:
- Theo dõi, đánh giá một cách thực
chất, khách quan, công bằng kết quả triển
khai cải cách hành chính hàng năm của các
bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong
quá trình triển khai thực hiện Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011 - 2020.
- Đánh giá kết quả triển khai các nhiệm
vụ cải cách hành chính bằng định lượng;
trên cơ sở đó so sánh, xếp hạng kết quả thực
hiện cải cách hành chính hàng năm giữa các
bộ, cơ quan ngang bộ; giữa các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
- Xác định rõ mặt mạnh, mặt yếu
trong thực hiện cải cách hành chính, qua đó
giúp cho các bộ, ngành, các tỉnh có những
điều chỉnh cần thiết về mục tiêu, nội dung
và các giải pháp trong triển khai cải cách
hành chính hàng năm, góp phần nâng cao
hiệu quả cải cách hành chính, xây dựng nền
hành chính trong sạch, vững mạnh, hiệu lực,
hiệu quả.
Cấu trúc của Bộ chỉ số PAR INDEX
bao gồm Chỉ số cải cách hành chính cấp bộ
và Chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh, trong
đó Chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh được
xác định trên 8 lĩnh vực, tương ứng với 8 chỉ
số thành phần, 34 tiêu chí và 104 tiêu chí
thành phần, cụ thể là: công tác chỉ đạo, điều
hành cải cách hành chính; xây dựng và tổ
chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
tại tỉnh; cải cách thủ tục hành chính; cải cách
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài
chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị
sự nghiệp công lập; hiện đại hoá hành chính;
thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa
liên thông.
4. Một số nhận xét, kết luận
Từ những phân tích ở các mục trên, có
thể nêu ra một số nhận định, đánh giá khái
quát như sau:
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 8(384) T4/2019
Thứ nhất, chất lượng dịch vụ công và
việc đo lường chất lượng dịch vụ công là vấn
đề rất được quan tâm ở các quốc gia và ở Việt
Nam, vì nó không chỉ gắn với hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước, mà còn gắn với
bản chất và mối quan hệ giữa nhà nước với
người dân.
Thứ hai, mặc dù vấn đề đo lường chất
lượng dịch vụ công mới được nêu ra trên thế
giới trong vài thập kỷ gần đây, song cho đến
nay, đã có những bộ chỉ số cho phép thực
hiện việc này một cách khá toàn diện, trên tất
cả các phương diện, trong đó tập trung vào
phương diện dịch vụ hành chính công. Tuy
các bộ chỉ số đo lường này vẫn còn những
hạn chế nhất định, nhưng chúng vẫn được
đón nhận, sử dụng bởi các tổ chức quốc tế và
ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, bên cạnh các bộ chỉ số đo lường
chung được sử dụng bởi các tổ chức quốc tế,
ở Việt Nam còn có một số bộ chỉ số khác do
các tổ chức trong nước xây dựng hoặc hợp
tác với các tổ chức quốc tế xây dựng, nhằm
đo lường những lĩnh vực cụ thể của quản trị
nhà nước và dịch vụ công ở tất cả các cấp
độ, bao gồm cả cấp độ cơ sở. Điều đó cho
thấy sự quan tâm lớn của Nhà nước Việt Nam
với vấn đề cải cách quản trị nhà nước. Đây
cũng là tiền đề cho những biến đổi mạnh mẽ
hơn trong quản trị nhà nước nói chung và việc
cung cấp dịch vụ công nói riêng ở nước ta
trong thời gian tới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A Parsu Parasuraman, Valarie A. Zeithaml, Leonard L Berry (1988), SERVQUAL: A multiple- Item Scale for
measuring consumer perceptions of service quality, Journal of Retailing.
2. Aurel Mihail Titu và Anca Ioana Vlad (2014), Quality Indicators in Reference to the Evaluation of the
QualityManagement of Services in Local Public Administration, Procedia Economics and Finance 16 (2014)
131 - 140.
3. Cronin JJ and MK Brady (2001), Some new Thoughts on Conceptualizing Perceived Service Quality: a
Hierarchical Approach, Journal of Marketing.
4. Crosby, P.B. (1979), Quality is free, McGraw – Hill, New York.
5. Daniel Kaufmann và Aart Kraay, The Worldwide Governance Indicators: Methodology and Analytical Issues,
2010, WB Policy Research Working Papers, tại
6. Đặng Hoàng Giang, Quản trị Nhà nước: phải đo lường được để cải thiện, Tuổi Trẻ cuối tuần. Xem tại: http://
tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-de-su-kien/20140415/quan-tri-nha-nuoc-phai-do-luong-duoc-de-cai-
thien/602418.html
7. George A.Boyne (2009) (edited), Public Service Performance: Perspectives on Measurement and
Management, Cambridge University Press, Online publication date: September 2009, https://doi.org/10.1017/
CBO9780511488511
8. Gronroos (1984), A Service Quality Model and its Marketing Implications, Published by MCB UP Ltd
9. Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 8402:1999 về Quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng - Thuật ngữ và định
nghĩa do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành, tại https://vanbanphapluat.co/tcvn-iso-8402-1999-
quan-ly-chat-luong-va-dam-bao-chat-luong.
10. Vũ Quỳnh, Chất lượng dịch vụ hành chính công trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ, Viện Nghiên
cứu Quản lý kinh tế trung ương năm 2017.
11. Zeithaml, Valarie A. & Mary Jo Bitner (2000), Services Marketing, New York: McGraw Hill, second edition
12. World Bank, World Development Report 1997
13.
14.
15. https://worldjusticeproject.org/our-work/research-and-data/wjp-rule-law-index-2017%E2%80%932018
16.
17.
18.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 8(384) T4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_ve_thu_tuc_khoi_kien_thu_tuc_khang_cao_c.pdf