Thứ nhất, một bộ phận công chức có
năng lực xin ra khỏi bộ máy hành chính
chuyển sang làm việc cho khu vực tư nhân.
Lý do cơ bản nhất khiến công chức có năng
lực rời bỏ công vụ không phải là mức tiền
lương, mà chính là do cách đánh giá bình
quân chủ nghĩa dẫn đến hệ thống hành chính
công vụ không đáp ứng được nhu cầu tự
khẳng định của những công chức có năng
lực, không thừa nhận được những đóng góp
của họ cho công việc.
Thứ hai, không ít công chức không có
động lực làm việc, thậm chí thờ ơ với chức
trách, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, một
số công chức không phấn đấu nâng cao năng
lực chuyên môn, chỉ tập trung “xây dựng”
các mối quan hệ để có được nhận xét, đánh
giá tốt từ thủ trưởng, từ đồng nghiệp. Hiện
tượng này trở thành bình thường và phổ biến
là trở ngại lớn nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức và hiệu quả của nền công vụ.
Nhìn xa hơn, chúng ta sẽ thấy vấn đề
lớn về mặt quản lý mà chúng ta đang phải
đối mặt hiện nay đó là nếu đánh giá không
đúng hiệu quả thực thi công việc của công
chức sẽ dẫn tới thái độ và chất lượng hiệu
quả làm việc của công chức sẽ giảm xuống,
gây ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước
và suy giảm lòng tin của người dân - những
người trực tiếp thụ hưởng các dịch vụ công
và những hoạt động khác mà công chức đại
diện cho Nhà nước là một bên chủ thể trong
quan hệ hành chính.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy trình đánh giá công chức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Đánh giá công chức được xem là một quy trình quan trọng trong
hoạt động quản lý công chức bởi kết quả đánh giá công chức là cơ
sở giúp các cơ quan, đơn vị biết được năng lực, phẩm chất của từng
công chức, từ đó mới có thể bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với công chức.
Hiện nay, việc đánh giá công chức đang được thực hiện theo quy
định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quy trình đánh giá
công chức hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập cần được tiếp tục
hoàn thiện.
Vũ Thị Ngọc Dung*
* ThS. GV. Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.
Abstract
Assessment of civil servants is known as a crucial procedure
in personnel management of the civil servants because the
assessment results are used to provide the public employers with
the information of the civil servants’s professional qualifications,
ethics, expertise so that arrangements, training, capacity building,
rewarding, disciplining and policy developments would be well
carried out for the civil servants
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công chức, đánh giá công
chức, quy trình đánh giá công chức
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/06/2018
Biên tập : 10/07/2018
Duyệt bài : 17/07/2018
Article Infomation:
Keywords: civil servants, assessment
of civil servants, the assessment
procedure of civil servants.
Article History:
Received : 06 Jun 2018
Edited : 10 Jul. 2018
Approved : 17 Jul. 2018
HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC
1. Quy trình đánh giá công chức theo quy
định của pháp luật hiện hành
Hiện nay, quy trình đánh giá công chức
đang được thực hiện theo quy định tại Luật
Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính
phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý công chức (Nghị định số 24), Nghị định số
56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính
phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công
chức và viên chức (Nghị định số 56), Nghị
định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017
của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 56/2015/NĐ-CP
ngày 09/06/2015 của Chính phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 18(370) T9/2018
(Nghị định số 88). Theo đó, việc đánh giá,
phân loại công chức được thực hiện theo
từng năm công tác. Trường hợp công chức
khi chuyển công tác thì cơ quan, tổ chức,
đơn vị mới có trách nhiệm đánh giá, phân
loại kết hợp với ý kiến nhận xét của cơ quan,
tổ chức, đơn vị cũ (đối với trường hợp có
thời gian công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị
cũ từ 06 tháng trở lên).
Thời điểm đánh giá, phân loại công
chức được tiến hành trong tháng 12 hàng
năm, trước khi thực hiện việc bình xét thi
đua, khen thưởng hàng năm. Riêng đối với
đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo và một số lĩnh
vực khác có thời điểm kết thúc năm công
tác trước tháng 12 hàng năm, thời điểm đánh
giá, phân loại công chức do người đứng đầu
quyết định. Điều 17 Nghị định số 56 quy
định như sau:
1.1. Quy trình đánh giá công chức là người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị:
Thứ nhất, công chức làm báo cáo tự
đánh giá kết quả công tác nhiệm vụ được
giao tại theo Mẫu phiếu đánh giá và phân
loại công chức.
Sau một năm công tác, công chức làm
báo cáo tự đánh giá theo mẫu và tự phân loại
đánh giá công chức trên cơ sở kết quả thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, công chức trình bày báo cáo
tự đánh giá kết quả công tác tại cuộc họp
của cơ quan, tổ chức, đơn vị để mọi người
tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến. Các ý
kiến được ghi vào biên bản và thông qua tại
cuộc họp1.
Đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị có
1 Điểm b Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
2 Điểm b Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
3 Điểm b Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
4 Điểm c Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
5 Điểm d Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
6 Điểm d Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
các đơn vị cấu thành, thành phần tham dự
là đại diện cấp ủy đảng, công đoàn, đoàn
thanh niên và người đứng đầu các đơn vị
cấu thành2.
Đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị không
có các đơn vị cấu thành, thành phần tham dự
là toàn thể công chức và người lao động của
cơ quan, tổ chức, đơn vị3.
Ý kiến góp ý được lập thành biên bản
và thông qua tại cuộc họp để đảm bảo cuộc
họp được diễn ra là có thật và khách quan,
được tập thể thông qua, là cơ sở để người
đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp tham
khảo khi đánh giá người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị cấp dưới.
Thứ ba, cấp ủy đảng cùng cấp nơi
công chức công tác có ý kiến bằng văn bản
về công chức được đánh giá, phân loại4.
Thứ tư, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị cấp trên trực tiếp tham khảo các
ý kiến góp ý, quyết định đánh giá, phân loại
đối với người đứng đầu đơn vị cấp dưới5.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị tham khảo các ý kiến góp ý, quyết
định đánh giá, phân loại đối với cấp phó của
mình6.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị khi đánh giá cấp phó của mình phải tham
khảo biên bản cuộc họp góp ý của các thành
phần tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến và
cấp ủy đảng cùng cấp nơi công chức công
tác để công tác đánh giá được toàn diện, cụ
thể, khách quan, công bằng, chính xác.
Thứ năm, người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị thông báo kết quả đánh
giá, phân loại cho công chức theo quy định
chung.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 18(370) T9/2018
Công chức có quyền được biết về kết
quả đánh giá, phân loại của mình để đảm bảo
tính chính xác, công khai, khách quan trong
đánh giá.
1.2. Quy trình đánh giá công chức không
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
Thứ nhất, công chức cũng làm báo cáo
tự đánh giá kết quả công tác theo nhiệm vụ
được giao theo mẫu phiếu đánh giá và phân
loại công chức.
Thứ hai, công chức trình bày báo cáo
tự đánh giá kết quả công tác tại cuộc họp
của cơ quan, tổ chức, đơn vị để mọi người
tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến. Các ý
kiến được ghi vào biên bản và thông qua tại
cuộc họp7.
Thứ ba, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị tham khảo ý kiến góp ý và quyết
định đánh giá, phân loại công chức; thông báo
kết quả đánh giá, phân loại cho công chức.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị sử dụng công chức khi đánh giá công chức
phải tham khảo ý kiến của những người tham
gia góp ý cho công chức và là người có thẩm
quyền sau cùng kết luận việc đánh giá công
chức và đưa ra kết quả đánh giá, quyết định
phân loại công chức tại cuộc họp đánh giá
công chức hàng năm.
Kết quả đánh giá giúp công chức xác
định được năng lực, trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ của mình đang ở mức độ nào và
khả năng đáp ứng đối với yêu cầu của công
việc. Kết quả đánh giá là căn cứ quan trọng
để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng
ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề
nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ
luật và thực hiện các chính sách khác đối
với cán bộ, công chức, viên chức. Trên cơ
7 Điểm b khoản 2 Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
8 Theo ý kiến của đại diện Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau thì hiện nay việc đánh giá công chức ở Cà Mau chỉ được thực hiện theo
các tiêu chí chung, chưa có sự lượng hóa, ngoại lệ chỉ có đánh giá viên chức trong ngành y tế, giáo dục là có sự lượng hóa.
9 Nguyễn Văn Hồng Quân, “Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức” tham luận tại Hội thảo trong
khuôn khổ đề tài cấp Bộ “Đổi mới quy trình tuyển dụng, sử dụng công chức” do PGS.TS.Nguyễn Cảnh Hợp làm Chủ
nhiệm, ngày 15/9/2017 tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
sở đó, công chức sẽ được đánh giá phân loại
theo 4 mức: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm
vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và không
hoàn thành nhiệm vụ.
2. Những hạn chế, bất cập của quy trình
đánh giá công chức hiện nay
2.1. Về tiêu chí phân loại công chức
Hạn chế lớn nhất trong đánh giá công
chức hiện nay là tiêu chí phân loại công
chức còn chung chung, rất khó lượng hoá8
kết quả, hiệu suất công tác của công chức.
Điển hình như tiêu chí đánh giá về tiêu
chuẩn có lập trường, có bản lĩnh chính trị
vững vàng rất khó đánh giá, bởi vì khi cán
bộ chưa được trải nghiệm, trước những khó
khăn, thử thách trong thực tiễn thì khó đánh
giá tiêu chuẩn này hoặc tiêu chuẩn gắn bó
với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm
chưa được cụ thể hóa và chưa có phương
pháp lấy ý kiến góp ý của nhân dân.
Bên cạnh đó, do việc đánh giá công
chức còn chưa chú trọng đến công tác thu
thập các thông tin cần thiết, qua nhiều kênh,
đặc biệt là các thông tin từ quần chúng, nên
có phần còn phiến diện. Pháp luật hiện hành
đã xác định cụ thể chủ thể được đánh giá,
nhưng nội dung đánh giá lại không gắn
với mục tiêu cụ thể. Ví dụ, đánh giá để quy
hoạch, luân chuyển cán bộ chưa gắn với
lộ trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, đơn vị, ngành, do đó, chưa xác định
được công chức nào còn yếu, còn thiếu mặt
nào đó để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
mặt nào mạnh để phát huy cho sát với từng
đối tượng, hướng sử dụng, cụ thể với từng
loại quy hoạch9.
Trong nhóm nội dung đánh giá, ngoài
các nội dung có tính định tính, thì các nội
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 18(370) T9/2018
dung về chuyên môn, kết quả thực hiện
nhiệm vụ cũng chưa được lượng hóa, khó
đo lường. Thực tế cho thấy, do tính chất của
mỗi loại công việc trong hệ thống hành chính
nhà nước là không giống nhau nên yêu cầu
đặt ra là cần phải có tiêu chuẩn, định mức
riêng đối với mỗi loại công việc thì mới có
thể lượng hóa, đo lường được. Để giải quyết
vấn đề này, cần dựa trên cơ sở vị trí việc làm
và bảng phân công công việc cho công chức
tại đơn vị. Do đó, vấn đề cần làm là phải có
phân bổ công việc cho từng vị trí việc làm rõ
ràng, phù hợp với từng công chức.
Điểm h, Khoản 1, Điều 18 Luật Cán
bộ, công chức quy định, công chức được
đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ phải có ít nhất 1 công trình khoa học,
đề án, đề tài hoặc sáng kiến được áp dụng
có hiệu quả trong hoạt động công vụ của
cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm
quyền công nhận. Tuy nhiên, không phải
công chức nào cũng có khả năng nghiên cứu
khoa học để có được các công trình nghiên
cứu, đề án, đề tài chất lượng thỏa mãn tiêu
chí này.
Nhận thức được thực tế này, nhiều
Sở Nội vụ10 xây dựng dự thảo về Bộ tiêu
chí đánh giá công chức dựa theo khung quy
định tại Nghị định số 56 để trên cơ sở Bộ
tiêu chí này, các sở trên địa bàn tỉnh sẽ xây
dựng Quy chế đánh giá công chức của đơn
vị mình. Bộ tiêu chí này sẽ đánh giá theo
thang điểm 100, định lượng cho từng tiêu
chí. Ví dụ: 5 điểm cho sáng kiến Việc
đánh giá dựa trên các tiêu chí rõ ràng, lượng
hoá được là rất quan trọng, tuy nhiên, cần
lưu ý vì trong quản lý nhà nước, định lượng
công việc rất khó, nhất là khi tính chất các
công việc khác nhau, quan trọng nhất là
hướng đến hiệu quả công việc.
10 Như Sở Nội vụ Bình Dương, Bạc Liêu,...
11 Đây cũng là ý kiến đề xuất của Nguyễn Văn Hồng Quân, trong tham luận “Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công
chức, viên chức” của tại Hội thảo trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ “Đổi mới quy trình tuyển dụng, sử dụng công chức”
do PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp làm Chủ nhiệm, ngày 15/9/2017 tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Việc sử dụng các tiêu chí đánh giá
công chức có ý nghĩa quan trọng đối với
việc thực hiện đánh giá, bởi tiêu chí càng
được thể hiện cụ thể thì đánh giá càng chính
xác. Trên thế giới, việc xác định các tiêu
chí đánh giá này được các quốc gia công bố
trong khung năng lực áp dụng với công chức
hoặc luật hoá thành các quy định pháp luật
cụ thể. Năm 2001, Chính phủ Anh công bố
khung năng lực áp dụng đối với công chức
cao cấp với mục tiêu “xác định kiểu hành
vi mà các nhà quản lý cấp cao nhất cần có
để thể hiện sự thay đổi trong văn hóa công
vụ” và đồng thời là cơ sở để đánh giá đối
với công chức cấp cao. Các yêu cầu này bao
gồm: 1) cung cấp mục tiêu và chỉ dẫn; 2) tạo
ảnh hưởng cá nhân; 3) tư duy chiến lược; 4)
tận dụng tối đa năng lực con người; 5) học
hỏi và cải thiện chất lượng thực thi; 6) tập
trung vào cung cấp các dịch vụ theo thẩm
quyền và trách nhiệm.
Ở Mỹ, quá trình thực thi của công chức
liên bang được quản lý theo định hướng kết
quả đầu ra với một hệ thống đánh giá. Theo
đó, ở đầu kỳ đánh giá, công chức có một kế
hoạch thực thi công vụ, trong đó thiết lập
các mục tiêu cần đạt được dựa trên nhiệm
vụ chính. Mỗi cơ quan thiết lập một hoặc
một số hệ thống đánh giá kết quả thực thi
công vụ, bao gồm các chỉ số đánh giá thực
thi công vụ như năng lực, tinh thần đồng
đội, việc cung cấp dịch vụ công cho người
dân, đồng thời khuyến khích sự tham gia của
công chức trong thiết lập các tiêu chuẩn này.
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc
tế và thực tiễn đánh giá công chức tại Việt
Nam, chúng tôi đề xuất11 một số nội dung,
thang điểm đánh giá công chức như sau:
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 18(370) T9/2018
a) Đánh giá
Tổng thang điểm: 100 điểm
- Cho tối đa 60 điểm: về đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao:
- Cho tối đa 10 điểm: về nội dung
đánh giá phẩm chất chính trị, chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước:
- Cho tối đa 20 điểm: về nội dung đánh
giá phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong,
lề lối làm việc. Trong đó, dành 10 điểm là
cho tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân
(tận tụy với công việc, kiên quyết đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng, không hách
dịch, cửa quyền, không sách nhiễu, gây
phiền hà, khó khăn cho tổ chức, công dân
trong thực hiện nhiệm vụ)
- Cho tối đa 10 điểm: về nội dung đánh
giá ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật.
b) Phân loại:
- Tổng điểm đánh giá là 100 điểm.
Căn cứ vào kết quả đánh giá công chức được
phân loại theo 1 trong 4 mức sau:
+ Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Tổng
điểm đạt từ 90 đến 100 điểm, trong đó điểm
Đối với công
chức không
giữ chức vụ
lãnh đạo,
quản lý
Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm: thể
hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của
công việc ở từng vị trí, từng thời gian, bao gồm cả những
nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất.
Tối đa 30 điểm
Tinh thần trách nhiệm trong công tác; cải tiến phương
pháp làm việc nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác;
có sáng kiến và kinh nghiệm công tác được áp dụng
trong thực tiễn và mang lại hiệu quả
Tối đa 20 điểm
Tinh thần tự nghiên cứu, học tập nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu, vị
trí việc làm, nhiệm vụ được giao
Tối đa 10 điểm
Đối với công
chức giữ
chức vụ lãnh
đạo, quản lý
Năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết
công chức: thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ,
hiệu quả của công việc ở từng vị trí, từng thời gian, bao
gồm cả nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất
Tối đa 20 điểm
Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm và kết
quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao
lãnh đạo, quản lý
Tối đa 15 điểm
Tinh thần trách nhiệm trong công tác: chỉ đạo, tham mưu
ban hành các văn bản về lĩnh vực được phân công phụ
trách; cải tiến phương pháp làm việc nâng cao hiệu quả,
chất lượng công tác; có sáng kiến và kinh nghiệm công
tác được áp dụng trong thực tiễn và mang lại hiệu quả
Tối đa 15 điểm
Tinh thần tự nghiên cứu, học tập để nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu vị
trí công tác, nhiệm vụ được giao:
Tối đa 10 điểm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 18(370) T9/2018
đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ được
giao phải đạt từ 55 điểm trở lên;
+ Hoàn thành tốt nhiệm vụ: Tổng điểm
đạt từ 70 đến 89 điểm, trong đó điểm đánh
giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
phải đạt từ 50 điểm trở lên;
+ Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn
hạn chế về năng lực (đối với công chức là
Hoàn thành nhiệm vụ): Tổng điểm đạt từ 50
đến 69 điểm, trong đó điểm đánh giá về kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao phải đạt
từ 45 điểm trở lên;
+ Không hoàn thành nhiệm vụ: Tổng
điểm đạt dưới 50 điểm hoặc điểm đánh giá
về Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao đạt
dưới 30 điểm.
Bên cạnh đó, khi xác định nội dung
đánh giá, phương pháp đánh giá thì chủ thể
đánh giá cần đảm bảo sự phù hợp với mục
tiêu và đối tượng được đánh giá. Mỗi mục
tiêu, đối tượng đánh giá cần phải có các
tiêu chí và phương pháp đánh giá phù hợp.
Nội dung, phương pháp đánh giá công chức
để đưa vào quy hoạch sẽ khác với để luân
chuyển hay khen thưởng, bổ nhiệm12.
2.2. Quy định về lấy ý kiến đánh giá của
tập thể còn nhiều bất cập
Một là, ý kiến đánh giá của tập thể
đối với những công chức không giữ chức vụ
lãnh đạo quản lý còn mang nặng tâm lý “dĩ
hoà vi quý”. Theo quy định hiện hành, thành
tích của cá nhân có ảnh hưởng đến thành
tích thi đua của tập thể nên kết quả đánh
giá của tập thể phần nhiều thiếu tính khách
quan. Bên cạnh đó trên thực tế, người đứng
đầu rất ngại đánh giá công chức không hoàn
thành nhiệm vụ vì hai năm liên tiếp không
hoàn thành nhiệm vụ là phải giải quyết thôi
việc cho công chức. Do vậy, kết quả đánh
giá công chức hiện nay chưa phản ánh đúng
khả năng thực thi công vụ của công chức.
12 Nguyễn Văn Hồng Quân, “Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức”, tlđd.
Hai là, việc quy định bầu các danh
hiệu thi đua cuối năm không dựa trên kết
quả làm việc mà căn cứ vào kết quả bầu trên
tỷ lệ đã khống chế làm ảnh hưởng tới ý kiến
của tập thể.
Thực tế đánh giá công chức tại nhiều
cơ quan, đơn vị cho thấy, các cơ quan này
đều áp dụng tỷ lệ trần đối với danh hiệu
chiến sĩ thi đua, công chức hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ. Do đó, dẫn đến thực tế là trong
một bộ phận/cơ quan có nhiều công chức
hoàn thành tốt nhiệm vụ trong năm công
tác nhưng vì đã áp tỷ lệ rồi nên không có
cách nào nâng tỷ lệ lên mặc dù họ hoàn toàn
xứng đáng. Ngược lại, có những bộ phận/
cơ quan không làm tốt nhưng vì được phép
đạt tỷ lệ trần đã quy định nên vẫn đưa những
người chưa xứng đáng vào danh sách, thậm
chí nhiều đơn vị “phân công sẵn” công chức
trong đơn vị mình luân phiên nhau được
khen thưởng mỗi năm trong khi chưa có
kết quả làm việc của năm sau để “tránh mẩt
quyền lợi”.
Như vậy, việc khống chế tỷ lệ khen
thưởng dẫn đến một thực tế là các công chức
trong đơn vị nhường nhau danh hiệu; danh
hiệu cao thường là lãnh đạo đơn vị và người
xuất sắc ở bộ phận này nhiều khi không
bằng người bình thường ở đơn vị khác. Việc
kéo dài tình trạng này khiến cho công chức
dù có hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao nhưng do tâm lý nể nang, nhường nhau
từng năm nên khó đạt danh hiệu liên tục 3
năm, 6 năm để nhận được bằng khen của
cấp trên.
Việc đánh giá công chức cuối năm
hiện nay chủ yếu được tiến hành để xếp loại
các danh hiệu thi đua của công chức trong
năm, từ đó làm động lực khuyến khích công
chức thực hiện tốt hơn chức trách, nhiệm
vụ của mình trong năm kế tiếp. Tuy nhiên,
với cách đánh giá như trên vô hình chung
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 18(370) T9/2018
đã “bóp nghẹt” tư duy phấn đấu của những
công chức tâm huyết và thực sự có năng lực
khi những nỗ lực của họ không được ghi
nhận, mà “cào bằng” về mặt quyền lợi với
những công chức khác.
Với kết quả đánh giá không phản ánh
đúng hiệu quả làm việc thực tế của từng
công chức dẫn đến một số hệ luỵ mà nền
công vụ phải đối mặt sau đây:
Thứ nhất, một bộ phận công chức có
năng lực xin ra khỏi bộ máy hành chính
chuyển sang làm việc cho khu vực tư nhân.
Lý do cơ bản nhất khiến công chức có năng
lực rời bỏ công vụ không phải là mức tiền
lương, mà chính là do cách đánh giá bình
quân chủ nghĩa dẫn đến hệ thống hành chính
công vụ không đáp ứng được nhu cầu tự
khẳng định của những công chức có năng
lực, không thừa nhận được những đóng góp
của họ cho công việc.
Thứ hai, không ít công chức không có
động lực làm việc, thậm chí thờ ơ với chức
trách, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, một
số công chức không phấn đấu nâng cao năng
lực chuyên môn, chỉ tập trung “xây dựng”
các mối quan hệ để có được nhận xét, đánh
giá tốt từ thủ trưởng, từ đồng nghiệp. Hiện
tượng này trở thành bình thường và phổ biến
là trở ngại lớn nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức và hiệu quả của nền công vụ.
Nhìn xa hơn, chúng ta sẽ thấy vấn đề
lớn về mặt quản lý mà chúng ta đang phải
đối mặt hiện nay đó là nếu đánh giá không
đúng hiệu quả thực thi công việc của công
chức sẽ dẫn tới thái độ và chất lượng hiệu
quả làm việc của công chức sẽ giảm xuống,
gây ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước
và suy giảm lòng tin của người dân - những
người trực tiếp thụ hưởng các dịch vụ công
và những hoạt động khác mà công chức đại
diện cho Nhà nước là một bên chủ thể trong
quan hệ hành chính.
Ba là, ý kiến đánh giá của tập thể đối
với những công chức giữ chức vụ lãnh đạo
quản lý nhiều khi trở thành sức ép đối với
người đứng đầu đơn vị dẫn đến kết quả đánh
giá công chức không chính xác.
Trong quy trình đánh giá công chức
hiện nay thì kết quả đánh giá công chức của
người đứng đầu có vai trò quyết định, bởi
cấp trên là người đánh giá chính xác nhất
năng lực của công chức khi cấp trên giao
việc với mức độ và tính chất công việc mà
chỉ cấp trên mới đánh giá được qua quá trình
giao việc, thử việc, trang bị kiến thức và đào
tạo kỹ năng nghiệp vụ liên quan trực tiếp tới
hoạt động lãnh đạo, quản lý của cấp trên. Tuy
nhiên, theo quy định hiện nay, việc sử dụng
lá phiếu tập thể trong quy trình bổ nhiệm và
bổ nhiệm lại công chức lãnh đạo khiến cho
chủ thể có thẩm quyền đánh giá có tâm lý
“ngại va chạm” đối với cấp dưới để tránh
trường hợp không đủ số lượng phiếu bầu khi
được bổ nhiệm hay tái bổ nhiệm. Như vậy,
từ một quy định nhằm đề cao tinh thần dân
chủ thể, thông qua lá phiếu của tập thể để lựa
chọn người xứng đáng, vô hình chung lại lại
làm phát sinh hai bất cập: thứ nhất, là người
đứng đầu không đánh giá đúng năng lực của
công chức đơn vị mình để tránh “mất lòng”
cấp dưới; thứ hai, người được tập thể bầu
vào chức vụ lãnh đạo nhiều khi lại không có
năng lực thực sự mà chỉ vì “ít va chạm” nên
nhận được sự ủng hộ của tập thể.
*
Để góp phần nâng cao hiệu quả đánh
giá thực thi công vụ của công chức, cần
phải đổi mới quy trình đánh giá công chức.
Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng
các phương pháp, các quy trình đánh giá
công chức phù hợp bởi đánh giá đúng công
chức chính là bước đi cơ bản trong tiến trình
chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức và
xây dựng thành công nền hành chính chính
quy, chuyên nghiệp và từng bước hiện đại
trong thời kỳ mới■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 18(370) T9/2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Thị Lan Anh (2014), Đánh giá công chức ở các cơ quan hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Tạp
chí Tổ chức Nhà nước số 9/2014, tr.17- 20.
2. Nguyễn Thị Đào (2016), Đánh giá hàng năm đối với công chức hành chính nhà nước cấp tỉnh, Luận văn
ThS. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
3. Đoàn Nhân Đạo (2014), Tiêu chí và phương pháp đánh giá công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính; Tạp chí Quản lý nhà nước, số 222, tr.17-20.
4. Đoàn Nhân Đạo (2015), Công tác đánh giá công chức cấp xã ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, Tạp chí Quản lý
nhà nước, số 233, tr. 88-91.
5. Đoàn Nhân Đạo (2015), Một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đánh giá công chức cấp xã, Tạp chí Tổ chức
Nhà nước, số 12/2015, tr. 19 - 22.
6. Hoàng Thị Giang (2016), Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đánh giá công chức ở Việt Nam, Tạp chí Quản
lý nhà nước, số 248, tr. 18 - 22.
7. Tô Tử Hạ (chủ biên - 1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Thị Vân Hạnh (2008), “Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn mô hình đánh giá và trả lương dựa trên thực
thi công việc”; Đề tài khoa học cấp khoa.
9. Nguyễn Thị Hồng Hải (2011), “Mô hình quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết quả: Lý luận và thực
tiễn”; Đề tài khoa học cấp cơ sở.
10. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên - 2009), “Tìm hiểu hành chính công Hoa Kỳ - lý thuyết và thực tiễn”, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyền Thị Hồng Hải (2012), Hoàn thiện quá trình đánh giá công chức ở Việt Nam dựa trên kết quả thực
thi công việc, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 202, tr.40-44.
12. Nguyễn Thu Huyền (2006), Kinh nghiệm đánh giá công chức của một số nước trên thế giới, Tạp chí Quản
lý nhà nước, số 131, tr. 48 -51.
13. Hoàng Mai (2009), Hoàn thiện mô hình phân cấp trong đánh giá công chức hành chính nhà nước, Tạp chí
Tổ chức nhà nước, số 10, tr. 34-36.
14. Hà Quang Ngọc (chủ nhiệm - 2011), Đổi mới phương pháp đánh giá công chức trong các cơ quan hành
chính nhà nước, Đề tài khoa học cấp Bộ.
15. Trịnh Xuân Thắng (2016), Đổi mới công tác đánh giá công chức ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số
8, tr. 11-14.
16. Đào Thị Thanh Thuỷ (2015), Đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ tại một số nước thuộc
OECD, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1, tr. 57 – 60.
17. Đào Thị Thanh Thuỷ (2015), Đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ, Luận án TS. Học viện Hành
chính quốc gia.
18. Đào Thị Thanh Thuỷ (2013), Áp dụng các chỉ số then chốt đo lường kết quả thực thi trong đánh giá công
chức, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 9, tr.56-58.
19. Trần Thị Thanh Thủy (chủ nhiệm - 2011), “Quản lý thực thi đối với công chức trong bối cảnh cải cách quản
lý công ở Việt Nam”; Đề tài khoa học cấp cơ sở.
20. ADB-MOHA, International Workshop - Comparative Approaches and Experiences to Managing Civil
Servants, Ha Long 15-16/6/2006.
21. OECD (2005),“Performance Related Pay Policies for GovernmentEmployees”.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 18(370) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_trinh_danh_gia_cong_chuc.pdf