+ Hoàn thiện các thể chế tài chính về đất
đai: Hoàn thiện hệ thống giá đất phù hợp
với giá thị trường và đặc điểm của đất đai
có “tính cố định, tính nơi chốn, luôn gắn với
một địa bàn cụ thể”. Vì vậy, nên bỏ khung giá
đất trên toàn quốc, giao cho chính quyền địa
phương ban hành giá đất phù hợp với giá thị
trường và khu vực địa lý. Thực hiện đầy đủ
cơ chế đấu thầu, đấu giá khi chuyển đổi mục
đích sử dụng đất bảo đảm lợi ích của người
mua, người bán và lợi ích Nhà nước. Bổ sung
quy định về thu tiền sử dụng đất khi chuyển
đổi mục đích sử dụng, điều tiết phần giá trị
gia tăng thêm do quy hoạch, đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng và thay đổi địa giới hành chính
không do đầu tư của người sử dụng.
+ Điều tiết nguồn thu từ đất đai từ thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp hiện còn
rất thấp và thất thoát lớn so với các nước trên
thế giới. Đối với thị trường sơ cấp, năm 2013,
nguồn thu từ sử dụng đất phi nông nghiệp
đối với đất sản xuất kinh doanh và đất ở chỉ
chiếm 0,13% trong tổng thu Ngân sách Nhà
nước; hơn 1% tổng các khoản thu từ nhà đất
và chỉ chiếm 0,34% GDP. Để tăng nguồn thu
từ đất, ngoài thu tiền sử dụng theo hạn mức
quy định cần áp dụng mức thu lũy tiến nhằm
hạn chế tình trạng đầu cơ hiện vẫn còn khá
phổ biến hiện nay.
+ Điều tiết nguồn thu từ thị trường thứ cấp
hiện còn thất thoát lớn. Hiện nay, thu từ thuế
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bao gồm
thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh
nghiệp) chỉ chiếm 20% tổng nguồn thu từ
nhà đất trong đó phần lớn thu từ đất, nguồn
thu từ BĐS trên đất (nhất là nhà ở thương
mại ở các đô thị lớn) không đáng kể. Để tăng
nguồn thu từ thị trường thứ cấp, việc quản lý
các dữ liệu về sự biến động của thị trường đất
đai và các tài sản gắn liền với đất (nhất là nhà
ở thương mại có tốc độ tăng trưởng nhanh
trong những năm gần đây) cần thật sự chặt
chẽ. Các chủ thể tham gia thị trường đều phải
đăng ký ở sàn giao dịch, thực hiện cơ chế
hoạt động công khai và có cơ chế giám sát
chặt chẽ thông qua thị trường chứng khoán.
Đây là nguồn thu đáng kể, có tính bền vững
nhưng hiện còn thất thu lớn và cần sự điều
tiết của Nhà nước.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện thể chế để đất đai trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 20, Số 3 (2020): 19-25TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 20, Số 3 (2020): 19-25
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 20, No. 3 (2020): 19-25
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ ĐỂ ĐẤT ĐAI TRỞ THÀNH MỘT TRONG NHỮNG
NGUỒN LỰC QUAN TRỌNG TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Cúc1*, Nguyễn Mạnh Hùng2
1Học viện Chính trị khu vực I, Hà Nội
2Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, TP. Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 21/8/2020; Ngày chỉnh sửa: 21/9/2020; Ngày duyệt đăng: 25/9/2020
Tóm tắt
Thể chế đất đai là toàn bộ các yếu tố pháp lý chi phối các mối quan hệ phát sinh trong việc xác lập và vận động của quan hệ sở hữu đất đai. Luật Đất đai 2013 xác định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt
được, vẫn còn một số khó khăn hạn chế: tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng diễn ra ở nhiều nơi. Bài báo
khuyến nghị cần làm rõ hơn bản chất và quyền năng của sở hữu toàn dân về đất đai. Để thuận lợi trong việc
quản lý sử dụng, cần chủ thể hóa chế độ sở hữu toàn dân thành các hình thức sở hữu để có “các chủ thể” với tư
cách pháp nhân rõ ràng, hạn chế tình trạng lạm dụng, tiêu cực trong thực tiễn.
Từ khóa: Thể chế đất đai, sở hữu đất đai, chủ thể tư pháp.
*Email: haiyen690@gmail.com
1. Đặt vấn đề
Đất đai là vấn đề có ý nghĩa kinh tế, chính
trị to lớn gắn liền với lịch sử đấu tranh giành
độc lập, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Thực hiện
thể chế đất đai qua các thời kỳ đã đạt được
những thành tựu to lớn, tạo nên những bước
phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong
những thập kỷ qua: Giành độc lập dân tộc,
thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
(CNH - HĐH), xây dựng CNXH, nâng cao
đời sống nhân dân. Tuy nhiên, quá trình thực
hiện thể chế đất đai đã bộc lộ một số khó
khăn hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện (đặc
biệt là thể chế về sở hữu) để đất đai thực sự
trở thành một trong những nguồn lực quan
trọng trong quá trình phát triển đất nước.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thể chế đất đai là vấn đề lớn và phức tạp,
liên quan đến kinh tế, chính trị, lịch sử, văn
hóa; vì vậy tác giả sử dụng phương pháp tiếp
cận và phương pháp nghiên cứu để thực hiện
nghiên cứu này.
- Phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp
cận hệ thống, phương pháp liên ngành và
phương pháp thực chứng.
- Phương pháp nghiên cứu: Bài báo dựa
trên các dữ liệu thứ cấp, các tài liệu chính
thống, tham khảo các công trình nghiên
20
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Cúc và Nguyễn Mạnh Hùng
cứu khoa học đã công bố, tham khảo ý kiến
chuyên gia, trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp
so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thể chế đất đai hiện hành và những
vấn đề cần hoàn thiện
Thể chế đất đai là toàn bộ các yếu tố pháp
lý chi phối các quan hệ phát sinh trong việc
xác lập và vận động của quan hệ sở hữu đất
đai. Luật Đất đai 2013 xác định: “Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý, được giao
cho các chủ thể sử dụng với các quyền nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp, được pháp luật quy
định và bảo vệ” [1]. Đây là những vấn đề cốt
lõi của chế độ sở hữu, có tính pháp lý cho
hoạt động quản lý và sử dụng đất đai.
So với các Luật Đất đai trước đó, Luật Đất
đai 2013 đã làm rõ hơn và bổ sung một số
quy định quan trọng bao gồm: Quyền hạn và
trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở
hữu toàn dân; Quy định về cơ chế quản lý đất
đai (trong đó bảo đảm tính đồng bộ giữa quy
hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội giữa các cấp và quy hoạch
ngành); Quy định cụ thể các trường hợp Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, đổi
mới công tác bồi thường hỗ trợ tái định cư,
mở rộng quy mô và thời hạn giao đất cho hộ
gia đình, cá nhân, mở rộng quyền cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Quy
định chế độ đăng ký đất đai, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và các tài sản gắn liền với đất; Đấu giá quyền
sử dụng đất, chế độ sử dụng các loại đất;
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất,
giám sát, thanh tra, giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về đất đai...
Sau 7 năm thực hiện, Luật Đất đai năm
2013 đã đạt được những thành tựu nổi bật
và có những chuyển biến tích cực trong
việc quản lý và sử dụng đất đai, đóng góp
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật
Đất đai vẫn còn những khó khăn, hạn chế về
một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được
làm rõ trong: Tính tất yếu khách quan của sở
hữu toàn dân; Khung pháp lý đối với các chủ
thể sở hữu chưa rõ ràng; Quyền năng của sở
hữu toàn dân; Vai trò của Nhà nước với tư
cách đại diện chủ sở hữu; Quan hệ giữa sở
hữu toàn dân và sở hữu Nhà nước; Quan hệ
giữa chế độ sở hữu và hình thức sở hữu. Đất
đai là tài nguyên, tài sản quốc gia thuộc sở
hữu Nhà nước để thực hiện mục tiêu chung
của xã hội, nhưng với tư cách là tư liệu sản
xuất (TLSX), tư liệu tiêu dùng (đất ở của cư
dân nông thôn và đô thị), hình thức sở hữu
nào phù hợp để có thể quản lý và sử dụng
hiệu quả hơn? Hiện nay, Luật Đất đai vẫn có
sự chưa thống nhất giữa chế độ pháp lý đối
với đất đai và đối với tài sản trên đất, thiếu
các quy định cụ thể trong việc quyền định
đoạt đối với đất đai với tư cách Nhà nước đại
diện chủ sở hữu, ảnh hưởng đến việc chia sẻ
lợi ích. Trên thực tế, những lợi ích to lớn từ
đất đai không thuộc về toàn dân và người sử
dụng mà thuộc về một số cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền quyết định.
Có ý kiến cho rằng: “Quyền sử dụng đất
của Việt Nam giống như quyền sở hữu của
các nước trên thế giới”. Trên thực tế, cả cơ sở
pháp lý và cơ sở thực tiễn không thể hiện rõ
phương thức như vậy. Mặc dù người sử dụng
được Nhà nước trao quyền bao gồm chuyển
đổi, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế, tặng
cho, góp vốn quyền sử dụng đất, nhưng cơ
bản thiếu một loại quyền quan trọng liên quan
21
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 20, Số 3 (2020): 19-25
trực tiếp đến việc chia sẻ lợi ích, đó là quyền
định đoạt, trên thực tế quyền này do cơ quan
đại diện chủ sở hữu quyết định. Đối với nông
dân, đất đai là TLSX quan trọng nhất đối với
họ, nhưng bình quân đất nông nghiệp của hộ
nông dân tại Việt Nam vào loại thấp nhất thế
giới. Tình trạng sử dụng đất vẫn còn nhỏ lẻ
manh mún, thu nhập từ đất không đủ sống,
quyền sử dụng đất chưa đủ tư cách pháp lý
trong việc tham gia thị trường để có thể dễ
dàng chuyển nhượng nhằm có vốn tìm việc
làm mới. Hệ quả, trong những năm gần đây,
một số địa phương khu vực Đồng bằng Bắc
Bộ, nông dân thờ ơ với đất đai, thậm chí để
một bộ phận đất hoang hóa.
Trong bối cảnh CNH-HĐH, thị trường
ngày càng đầy đủ, kinh tế tư nhân đã trở
thành động lực quan trọng của nền kinh tế,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng
thời, để khắc phục những khó khăn hạn chế
trong quá trình thực hiện, Luật Đất đai cần
tiếp tục hoàn thiện trong việc thể chế hóa,
trong đó có năm vấn đề sau đây:
- Quyền của sở hữu toàn dân về đất đai:
Sở hữu toàn dân về đất đai thể hiện bản chất
chế độ xã hội và phù hợp với đặc điểm quan
trọng của đất đai (là thành quả khai thác bảo
vệ của nhiều thế hệ). Những quyết sách quan
trọng nhất đối với đất đai thuộc về sở hữu
toàn dân: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc
gia, thực hiện dịch vụ công thiết yếu: Quốc
phòng, an ninh, chính sách xã hội bảo vệ môi
trường sinh thái, ban hành hiến pháp, pháp
luật về đất đai [2].
- Quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu
Nhà nước: Tuy có sự đồng quy về mục tiêu
và đối tượng, nhưng khác nhau về cấp độ sở
hữu, quyền lực và phạm vi. Trong mối quan
hệ này, toàn dân là quyền lực tối cao, Nhà
nước là quyền lực hạn chế. Vì vậy, về mặt thể
chế, cần quy định rõ hơn hai loại quyền lực
này. Đặc biệt, thực hiện vai trò định đoạt đối
với đất đai, cần có quy định rõ hơn về điều
kiện thực hiện phù hợp với cấp độ sở hữu,
thẩm quyền và trách nhiệm, bảo đảm tính
công khai và trách nhiệm giải trình nhằm
khắc phục hiện tượng lạm dụng.
- Làm rõ hơn quan hệ giữa chế độ sở hữu
và hình thức sở hữu: Chế độ sở hữu là các
quyền năng sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối
với đất đai. Đây là ba vấn đề cốt lõi của chế
độ sở hữu. Hình thức sở hữu đất đai là kết
quả vận động các quan hệ phát sinh trong
quá trình thực hiện chế độ sở hữu đất đai. Về
thực chất, đó là sự cụ thể hóa chế độ sở hữu
bằng các hình thức sở hữu, dựa vào chế độ sở
hữu để lựa chọn hình thức sở hữu; ngược lại
dựa vào hình thức sở hữu có thể chủ thể hóa
thành các chủ thể sở hữu làm cơ sở cho việc
quản lý và sử dụng. Một trong những hạn chế
của thể chế hiện hành là thiếu các quy định
về quan hệ giữa chế độ sở hữu và hình thức
sở hữu. Để quản lý và sử dụng đất đai có hiệu
quả cần kết hợp chế độ sở hữu và hình thức
sở hữu một cách hợp lý.
- Làm rõ hơn đặc điểm của đất đai và sở
hữu đất đai: Vì từ những đặc điểm này có
tác động đến việc hoạch định và thực hiện
thể chế. Khác với tài sản thông thường, sở
hữu đất đai có tính tương đối, tính không
rạng buộc: Sở hữu Nhà nước nhưng giao cho
người dân sử dụng; Sở hữu tư nhân nhưng
nhà nước quản lý. Vì vậy, riêng về đất đai
là một loại sở hữu đặc biệt, có thẩm quyền
do cả Nhà nước và chủ thể sở hữu (sử dụng)
định đoạt. Sở hữu đất đai khó có thể rõ ràng,
tuyệt đối như sở hữu tài sản. Thông thường,
có sở hữu Nhà nước để thực hiện mục tiêu
chung của xã hội, có thẩm quyền của chủ
thể sở hữu (sử dụng) để khai thác thì việc sử
dụng đất đai một cách năng động hiệu quả.
22
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Cúc và Nguyễn Mạnh Hùng
Từ những vấn đề trên đây, chúng tôi cho
rằng về chế độ sở hữu đất đai vẫn phải là sở
hữu toàn dân, nhưng để thuận lợi trong quản
lý sử dụng, trên cơ sở chế độ sở hữu cần
chủ thể hóa thành các hình thức sở hữu để
có tư cách pháp nhân rõ ràng, hạn chế được
tình trạng lạm dụng, tiêu cực trong việc cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Việc thu
hồi đất giải phóng mặt bằng được thực hiện
thông qua quan hệ dân sự, sự thương thảo
giữa chủ thể có đất và nhà đầu tư, giảm sự
can thiệp của chính quyền hạn để chế tiêu
cực, tham nhũng, rút ngắn thời gian giải
phóng mặt bằng, phù hợp với xu hướng phát
triển của nhân loại [3]. Trong điều kiện của
Việt Nam, chúng tôi cho rằng chế độ sở hữu
có thể bao gồm các hình thức: Sở hữu Nhà
nước, sở hữu tư nhân, sở hữu cộng đồng và
sở hữu hỗn hợp.
Sở hữu Nhà nước để thực hiện các mục
tiêu công cộng: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
Quốc gia, thực hiện các dịch vụ công thiết
yếu như quốc phòng, an ninh, các cơ sở hạ
tầng quan trọng, thực hiện chính sách xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái, rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên, khu
di tích lịch sử văn hóa... (phần này chiếm
khoảng 2/3 lãnh thổ Quốc gia). Đất đai là
TLSX, tư liệu tiêu dùng (đất ở của cư dân
nông thôn và đô thị) sở hữu tư nhân dễ thích
ứng với mọi sự thay đổi, tạo động lực cho
chủ thể sở hữu, sử dụng một cách năng động
và hiệu quả, sở hữu tư nhân bảo đảm được
tính minh bạch, giảm được chi phí liên quan
đến kiện tụng góp phần ổn định xã hội.
Sở hữu cộng đồng tuy không lớn nhưng
đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhất là vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong điều kiện
mật độ dân cư thưa thớt, địa hình phức tạp,
chia cắt, nhờ sức mạnh cộng đồng mà đồng
bào dân tộc thiểu số vẫn giữ được đất,
rừng, duy trì và phát triển các truyền thống
văn hóa [4], sở hữu hỗn hợp để các chủ thể
có đất góp vốn sản xuất kinh doanh với các
doanh nghiệp.
3.2. Phát triển thị trường đất đai đúng
nghĩa, đưa tài nguyên đất đai thành nguồn
lực phát triển
Trong những năm qua, hệ thống thể chế
liên quan đến đất đai đã có những khởi đầu
tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành thị
trường. Luật Đất đai 1993 thừa nhận đất
đai có giá trị cùng với việc người sử dụng
có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng trong
thời hạn sử dụng đất. Luật Đất đai 1998 (sửa
đổi) làm rõ hơn về vai trò của các chủ thể
tham gia thị trường. Luật Đất đai 2003 thừa
nhận “quyền sử dụng đất được đưa vào giao
dịch trên thị trường bất động sản (BĐS) như
một hàng hóa”. Luật Đất đai 2013 bổ sung
một số điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự phát
triển thị trường đất đai: “Đăng ký đất đai, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và các tài sản gắn liền với đất,
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”.
Cùng với thể chế và đất đai, Nhà nước đã ban
hành một số luật liên quan đến đất đai và thị
trường BĐS: Luật Xây dựng 2003, Luật Nhà
ở 2005, Luật Dân sự 2005 thừa nhận quyền
sử dụng đất là quyền tài sản. Luật Thị trường
BĐS (2006) quy định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia thị trường với tư cách
là người mua người bán và các tổ chức trung
gian; Ban hành một số quy định về việc Nhà
nước sử dụng các công cụ điều tiết thị trường
BĐS: thuế, tín dụng, bảo lãnh...; Xây dựng
và thiết lập các dịch vụ hỗ trợ phát triển thị
trường như cung cấp thông tin, kết nối người
mua và người bán, các hoạt động môi giới, tư
vấn và đánh giá tài sản... Với các thể chế trên
đây đã tạo điều kiện để hình thành và phát
triển thị trường đất đai, góp phần vào việc
23
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 20, Số 3 (2020): 19-25
trung chuyển phân bố đất đai thực hiện quá
trình CNH - ĐTH.
Tuy đã có bước khởi đầu thuận lợi,
nhưng so với các loại thị trường khác (thị
trường hàng hóa dịch vụ, thị trường sức lao
động, thị trường vốn...), thị trường đất đai
phát triển chậm và không bền vững. Thị
trường BĐS (trong đó chủ yếu là thị trường
đất đai bị xếp hạng kém minh bạch (68/109
nước theo điều tra) về ảnh hưởng đến quá
trình CNH - HĐH. Việc thu hồi đất đai thực
hiện CNH - ĐTH gặp nhiều khó khăn phức
tạp. Nông nghiệp là ngành Việt Nam có tiềm
năng và lợi thế so sánh nhưng phần lớn quy
mô nhỏ lẻ manh mún, thiếu cơ chế để tích
tụ tập trung, thiếu điều kiện cần thiết để cơ
giới hóa ứng dụng công nghệ. Điều đó có ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và các
giá trị gia tăng. Thị trường đất đai tuy đã được
cải thiện trong những năm gần đây nhưng vẫn
thuộc nhóm nước trung bình yếu [5], nguồn
thu từ đất đai còn rất thấp. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê năm 2013, tổng các nguồn
thu từ đất đai chỉ chiếm 0,7% GDP, trong khi
các nước đang phát triển là 0,5%, các nước
phát triển là 2%. Theo Bộ Tài nguyên và Môi
trường, giá trị đất đai giao dịch trên thị trường
chính thức chỉ chiếm 30%, trong đó phần lớn
là giao dịch không chính thức. Nguồn thu từ
thị trường đất đai, đặc biệt là thị trường thứ
cấp chiếm tỷ lệ rất thấp.
Có nhiều nguyên nhân làm cho thị trường
đất đai phát triển chậm và nhiều tiêu cực,
trong đó có nguyên nhân về sở hữu. Sở hữu
toàn dân mặc dù thể hiện bản chất của chế độ
xã hội, nhưng rất khó xác định tư cách pháp
nhân của các chủ thể tham gia thị trường.
Nhà nước với tư cách đại diện sở hữu toàn
dân khó có thể là chủ thể trực tiếp giao dịch
với tư cách là người mua, người bán, mặt
khác là chủ thể đại diện nên không gắn với
lợi ích thiết thân của chính họ. Về hàng hóa,
thị trường đất đai là quyền sử dụng bó hẹp
trong phạm vi nông nghiệp chưa phù hợp
với kỳ vọng của cả người mua và người
bán và không gian phát triển trong quá trình
CNH - ĐTH.
Từ những khó khăn hạn chế trên đây, việc
phát triển thị trường đất đai đúng nghĩa là
vấn đề thiết thực, cấp bách. Kinh nghiệm của
hầu hết các quốc gia trên thế giới, phát triển
thị trường đất đai là một sự tất yếu. Thông
qua thị trường, nguồn lực từ đất đai sẽ được
phân bổ và sử dụng một cách năng động hiệu
quả. Destoto cho rằng khi có quyền sở hữu,
người chủ đất có đủ bằng chứng giấy tờ được
công nhận có thể dùng trong các hoạt động
giao dịch, biến quyền sở hữu thành các giá
trị kinh tế cụ thể thông qua mua bán, cho
thuê, thế chấp, tài nguyên đất đai sẽ biến
thành nguồn lực, nguồn vốn năng động đóng
góp cho sự thịnh vượng của mỗi quốc gia
[5]. Việt Nam đang ở trong thời kỳ CNH -
HĐH, đất nước đang cần những nguồn vốn
lớn. Cùng với các luồng tiền truyền thống
như tiền trong dân, trong các ngân hàng
thương mại, FDI, ODA, kiều hối... còn một
luồng tiền lớn từ đất đai, chỉ có thông qua thị
trường mới có thể huy động và sử dụng một
cách hiệu quả. Chúng tôi cho rằng để hình
thành và phát triển thị trường đất đai đúng
nghĩa, nhiều việc cần phải làm trong đó trước
tiên có 5 vấn đề sau đây:
+ Hoàn thiện thể chế liên quan đến chủ sở
hữu đối với đất đai và các tài sản gắn liền với
đất. Đất đai với tư cách là tài nguyên, tài sản
Quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước để thực hiện
các mục tiêu công cộng, những đất đai với tư
cách là TLSX, tư liệu tiêu dùng là tài sản cá
nhân mới có thể quản lý, sử dụng có hiệu quả.
24
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Cúc và Nguyễn Mạnh Hùng
Về mặt khoa học, khi nói đến thị trường, có chủ
thể cụ thể, có pháp nhân rõ ràng là yếu tố hàng
đầu để hình thành thị trường BĐS, không thể
có chủ thể chung chung.
+ Hoàn thiện các thể chế liên quan đến
việc hình thành và phát triển thị trường đất
đai, xây dựng và cập nhật các dữ liệu thông
tin đầy đủ về đất đai và các tài sản gắn liền
với đất, các dữ liệu về sự biến động của giá
BĐS trên thị trường, các dữ liệu về các chủ
thể tham gia thị trường. Ngoài tư cách pháp
nhân đầy đủ, đối với người bán hiện đang
sở hữu BĐS, yêu cầu cần sẵn sàng mọi
phương thức chuyển giao đối với người
mua có nhu cầu về BĐS, có năng lực tài
chính bảo đảm cho việc giao dịch. Các chủ
thể kinh doanh BĐS đều phải đăng ký qua
sàn giao dịch để hình thành hệ thống thông
tin đầy đủ về thị trường BĐS. Đây là điều
kiện cần thiết để cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xác nhận quyền sở hữu tài sản sau
khi kết thúc giao dịch.
+ Hoàn thiện các thể chế tài chính về đất
đai: Hoàn thiện hệ thống giá đất phù hợp
với giá thị trường và đặc điểm của đất đai
có “tính cố định, tính nơi chốn, luôn gắn với
một địa bàn cụ thể”. Vì vậy, nên bỏ khung giá
đất trên toàn quốc, giao cho chính quyền địa
phương ban hành giá đất phù hợp với giá thị
trường và khu vực địa lý. Thực hiện đầy đủ
cơ chế đấu thầu, đấu giá khi chuyển đổi mục
đích sử dụng đất bảo đảm lợi ích của người
mua, người bán và lợi ích Nhà nước. Bổ sung
quy định về thu tiền sử dụng đất khi chuyển
đổi mục đích sử dụng, điều tiết phần giá trị
gia tăng thêm do quy hoạch, đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng và thay đổi địa giới hành chính
không do đầu tư của người sử dụng.
+ Điều tiết nguồn thu từ đất đai từ thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp hiện còn
rất thấp và thất thoát lớn so với các nước trên
thế giới. Đối với thị trường sơ cấp, năm 2013,
nguồn thu từ sử dụng đất phi nông nghiệp
đối với đất sản xuất kinh doanh và đất ở chỉ
chiếm 0,13% trong tổng thu Ngân sách Nhà
nước; hơn 1% tổng các khoản thu từ nhà đất
và chỉ chiếm 0,34% GDP. Để tăng nguồn thu
từ đất, ngoài thu tiền sử dụng theo hạn mức
quy định cần áp dụng mức thu lũy tiến nhằm
hạn chế tình trạng đầu cơ hiện vẫn còn khá
phổ biến hiện nay.
+ Điều tiết nguồn thu từ thị trường thứ cấp
hiện còn thất thoát lớn. Hiện nay, thu từ thuế
chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bao gồm
thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh
nghiệp) chỉ chiếm 20% tổng nguồn thu từ
nhà đất trong đó phần lớn thu từ đất, nguồn
thu từ BĐS trên đất (nhất là nhà ở thương
mại ở các đô thị lớn) không đáng kể. Để tăng
nguồn thu từ thị trường thứ cấp, việc quản lý
các dữ liệu về sự biến động của thị trường đất
đai và các tài sản gắn liền với đất (nhất là nhà
ở thương mại có tốc độ tăng trưởng nhanh
trong những năm gần đây) cần thật sự chặt
chẽ. Các chủ thể tham gia thị trường đều phải
đăng ký ở sàn giao dịch, thực hiện cơ chế
hoạt động công khai và có cơ chế giám sát
chặt chẽ thông qua thị trường chứng khoán.
Đây là nguồn thu đáng kể, có tính bền vững
nhưng hiện còn thất thu lớn và cần sự điều
tiết của Nhà nước.
4. Kết luận và khuyến nghị
4.1. Kết luận
Nghiên cứu đã hệ thống hóa cơ sở lý luận
và thực tiễn về thể chế đất đai, phân tích quá
trình thực hiện thể chế đất đai, những thành
tựu đã đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện,
25
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 20, Số 3 (2020): 19-25
làm rõ hơn bản chất và quyền năng của sở
hữu toàn dân về đất đai. Để thuận lợi cho việc
quản lý sử dụng, bài báo đề xuất việc cần chủ
thể hóa chế độ sở hữu toàn dân bằng các hình
thức sở hữu: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư
nhân (đối với đất đai là TLSX và TLTD khu
vực đất ở của cư dân nông thôn và thành thị),
sở hữu cộng đồng và sở hữu hỗn hợp...
4.2. Khuyến nghị
Cần đầu tư nghiên cứu tổng kết, thu thập
ý kiến rộng rãi các tầng lớp dân cư, sớm sửa
đổi Luật Đất đai nhằm khắc phục những khó
khăn hạn chế, phù hợp với bối cảnh mới về
kinh tế thị trường hiện đại (đất đai không
phải là ngoại lệ) trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp diễn ra nhanh chưa từng có, các
tác động đến tư duy và phương thức quản trị
(trong đó có quản trị đất đai) với xu hướng
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tài liệu tham khảo
[1] Đặng Hùng Võ (2010). Công hữu đất đai, thay
đổi để mang lại bước ngoạt trong phát triển. Cơ sở
dữ liệu kiến trúc Việt Nam. Truy cập từ <https://
ashui.com/mag/tuongtac/phanbien/3424-cong-
huu-dat-dai-thay-doi-de-mang-lai-buoc-ngoat-
moi-trong-phat-trien.html>.
[2] Nguyễn Cúc (2012). Thể chế đất đai trong quá
trình phát triển đất nước. Đề tài độc lập cấp
Nhà nước.
[3] Hemando Destoto (2020). Những bí ẩn của
Vốn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Tôn Gia Huyên (2011). Chế độ sở hữu đất đai
thời phong kiến. Báo cáo của Bộ Tài nguyên và
Môi trường tổng kết thi hành Luật Đất đai 2011,
Hội thảo Sở hữu đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi
trường, tháng 8/2011, Hà Nội.
[5] Đinh Thị Mai Hương (2013). Các giải pháp
hoàn thiện thể chế thúc đẩy sự phát triển thị
trường Bất động sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
IMPLEMENTATION OF THE INSTITUTIONS IN ORDER TO MAKE THE LAND BECOME
ONE OF IMPORTANT RESOURCES IN THE COUNTRY’S DEVELOPMENT PROCESS
Nguyen Cuc1, Nguyen Manh Hung2
1Academy of Politics Region I, Hanoi
2Nguyen Tat Thanh University, Ho Chi Minh City
Abstract
Land institutions are all legal factors dominating the relationship arised in the establishment and revolution of the land tenure. The 2013 Land Law prescribes “the regime of land ownership, powers and responsibilities of
the State in representing the entire-people owner of land and uniformly managing land.” In the implementation
process, in addition to great achievements, there are some limitations such as the wastefulness, the loss and the
corruption taken place in everywhere. This article recommends to need to clarify the nature and power of the
land tenure. In order to facilitate management and use, it is necessary to subject from the “all-people ownership”
to the other ownership in order to have “separate legal entity” and limit the loss and the corruption in practice.
Keywords: Land institutions, land tenure, separate legal entity.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_the_che_de_dat_dai_tro_thanh_mot_trong_nhung_nguo.pdf