Để tăng cường số lượng đại biểu cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tăng cường hơn nữa sự
lãnh đạo của Đảng, tăng cường giám sát chặt
chẽ hơn nữa việc triển khai Nghị quyết số
11-NQ/TW, Nghị quyết số 24-NQ/TW của
Bộ chính trị, Kết luận số 55 của Ban Bí thư
và chính sách, pháp luật của Nhà nước liên
quan đến công tác cán bộ nữ.
Thứ hai, cần đảm bảo Hội liên hiệp
phụ nữ mỗi tỉnh có đại diện trong Ủy ban
bầu cử của tỉnh đó. Điều này sẽ góp phần hỗ
trợ kịp thời đối với các nữ ứng cử viên trong
quá trình vận động bầu cử, quá trình tiếp xúc
cử tri trước khi diễn ra cuộc bầu cử.
Thứ ba, cần xác định việc quan tâm
đến công tác quy hoạch cán bộ, chuẩn bị
nguồn nhân lực tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội là công việc thường xuyên liên
tục; tiếp tục thực hiện chủ trương tăng dần
số đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhằm
tăng tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Quốc hội. Trong mọi khâu cần chú
trọng hơn nữa đối với cán bộ nữ; phải có
chiến lược đầy đủ để đáp ứng, tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển và có chiến lược lâu
dài để đào tạo nâng cao trình độ.
Thứ tư, cần quan tâm hơn nữa công
tác đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ
nữ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng
yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường
sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản
lý, lãnh đạo và các cơ quan dân cử, đặc biệt
đối với nữ lãnh đạo trẻ, nữ dân tộc thiểu số;
phát huy vai trò của người đứng đầu trong
việc bố trí, phân công công tác đối với nữ
cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo đúng
quy định về bình đẳng giới.
Thứ năm, hạn chế tối đa tình trạng một
đại biểu nữ “gánh” quá nhiều cơ cấu, vừa cơ
cấu trẻ, cơ cấu dân tộc, cơ cấu là trí thức và
cơ cấu ngoài Đảng Điều đó làm hạn chế,
thu hẹp nguồn cán bộ lựa chọn đưa vào ứng
cử đại biểu Quốc hội.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động của nữ đại biểu quốc hội: Thực trạng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOẠT ĐỘNG CỦA NỮ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ1
1 Bài viết này được thực hiện trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thuộc Đề tài cấp Bộ “Nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của nữ đại biểu dân cử trong hoạt động của các cơ quan dân cử ở Việt Nam” do TS. Trần Văn Túy – Trưởng
Ban Công tác đại biểu làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa XII) đã xác định rõ mục tiêu
đến 2030 là “phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp
uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ
20 - 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
đạt trên 35%”. Vậy tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có đáp ứng được
với yêu cầu đặt ra hay không và hoạt động của nữ đại biểu Quốc
hội như thế nào? Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi phân tích
thực trạng hoạt động của nữ đại biểu Quốc hội trong các khóa
Quốc hội gần đây và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của nữ đại biểu Quốc hội trong nhiệm kỳ
Quốc hội tới.
Trần Văn Túy*
Dương Thị Tình Thương**
* ThS. Phó Vụ trưởng, Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội.
* TS. Trưởng ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Abstract
The Central Resolution No.7 (Session XII) clearly defines the
targets by 2030 that "there must be female cadres in the standing
committee of the committee level and party organizations at all
levels. The percentage of the female members at all levels reaches
from 20-25%; the percentage of the female National Assembly
deputies and People's Councils at all levels is over 35%". So, is the
proportion of the female members of the National Assembly able to
meet the requirements set forth and the performance arrangement
for the female members of the National Assembly? Within the
scope of this article, we shall analyze the current situation of the
performances by the female National Assembly deputies in recent
National Assembly sessions and propose recommendations to
improve the quality of activities of female National Assembly
deputies in the National Assembly in coming time.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quốc hội, snữ đại biểu
Quốc hội.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/09/2019
Biên tập : 20/09/2019
Duyệt bài : 22/09/2019
Article Infomation:
Keywords: National Assembly;
performance of National Assembly;
female National Assembly deputies.
Article History:
Received : 06 Sep. 2019
Edited : 20 Sep. 2019
Approved : 22 Sep. 2019
CHÑNH SAÁCH
34 Số 18(394) T9/2019
1. Thực trạng hoạt động của nữ đại biểu
Quốc hội
Trong các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây,
tuy số lượng nữ đại biểu Quốc hội chiếm tỷ
lệ khiêm tốn trong Quốc hội, song hoạt động
của nữ đại biểu Quốc hội đều được đánh giá
cao. Dù đảm nhiệm nhiều cương vị khác
nhau nhưng đại đa số nữ đại biểu Quốc hội
đều giữ vững phẩm chất là người đại biểu
nhân dân, là nữ lãnh đạo gắn bó với cử tri,
phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử
tri đến với Quốc hội, các cơ quan Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bản
thân các nữ đại biểu đã vươn lên trong công
tác. Nhiều nữ đại biểu đã phát huy trí tuệ,
kinh nghiệm công tác, dành nhiều thời gian,
công sức nghiên cứu, đóng góp vào thành
công chung của Quốc hội, tích cực tham gia
ý kiến trên các lĩnh vực y tế, an ninh quốc
phòng, đối ngoại, nhất là vấn đề bình
đẳng giới, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và
trẻ em. Nhiều đại biểu Quốc hội nữ để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng cử tri và có nhiều
đóng góp tích cực cho hoạt động chung của
Quốc hội.
Có nhiều tiêu chí với những góc nhìn
khác nhau đánh giá hiệu quả hoạt động của
nữ đại biểu Quốc hội. Các phát biểu của đại
biểu không phải là tiêu chí, là chỉ số duy
nhất để đánh giá về tham gia của nữ đại biểu
Quốc hội cũng như về hiệu quả hoạt động
của nữ đại biểu Quốc hội, song qua đó cũng
thể hiện phần nào năng lực chuyên môn bởi
đó là hành vi được cử tri trực tiếp quan sát,
đánh giá. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt
động của nữ đại biểu Quốc hội cũng có thể
tham khảo qua những thông số về số lần phát
biểu của các nữ đại biểu Quốc hội trong các
phiên thảo luận của Quốc hội tại hội trường.
Qua theo dõi của Ban Công tác đại
biểu, tại các phiên thảo luận kinh tế - xã hội
của Kỳ họp thứ Hai (tháng 10.2016) đã có
2 TS. Bùi Ngọc Thanh, Nữ Đại biểu Quốc hội Khóa XIV - tiềm năng và hoạt động thực tiễn,
default.aspx?tabid=76&NewsId=417578.
86 lượt ý kiến phát biểu, trong đó ý kiến của
đại biểu nữ là 19 (bằng 22,10%); tương tự
như vậy, tại Kỳ họp thứ Tư (2017) là 21/94
lượt ý kiến (22,34%) và Kỳ họp thứ Sáu
(2018) là 21/88 (23,86%). Các con số này
nói lên rằng, số lượng và tỷ lệ ý kiến của đại
biểu nữ qua các kỳ họp ngày càng tăng lên.
Với 27% nữ đại biểu trong tổng số đại biểu
Quốc hội thì các tỷ lệ 22,10% và 23,86% đã
chỉ rõ, tuyệt đại bộ phận đại biểu nữ đều đã
hăng hái tham gia phát biểu, tỏ rõ chính kiến
của mình2. Số liệu thống kê cũng cho thấy,
càng hoạt động, đại biểu nữ càng tích cực.
Đầu nhiệm kỳ, các đại biểu nữ nói riêng và
các đại biểu nói chung thường có tâm lý e
dè, ít phát biểu nhưng càng về sau, số lần
phát biểu càng nhiều lên.
Về chất lượng phát biểu của nữ đại biểu
Quốc hội, việc theo dõi đánh giá có thể chưa
đầy đủ, song có thể thấy chất lượng, hàm
lượng khoa học chuyên môn trong các bài
phát biểu của nữ tương đương với nam giới.
Khóa Quốc hội nào cũng có những gương
mặt nữ nổi trội, tích cực tham gia phát biểu,
thảo luận sôi nổi, chất vấn thẳng thắn, đi đến
cùng, giải quyết đến cùng sự việc.
Hoạt động tích cực của đại biểu trong
nhiệm kỳ nào cũng để lại những dấu ấn với
Quốc hội và với cử tri. Trong khóa XIII,
đại biểu Trần Thị Quốc Khánh đề xuất xây
dựng Luật về đại biểu Quốc hội. Sang khóa
XIV, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh đề xuất
xây dựng Luật Hành chính công và đã được
Ủy ban thường vụ Quốc hội cho triển khai
nghiên cứu, thành lập Ban soạn thảo. Dự án
Luật Hành chính công được Ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét, thảo luận tại phiên
họp thứ 27 (sáng 11/9/2018). Đây là dự án
Luật do đại biểu Quốc hội trình. Tuy dự luật
còn nhiều vấn đề tranh luận, nhưng đã được
ghi nhận ở góc độ của một công trình nghiên
cứu khoa học, một tài liệu nghiên cứu, tham
khảo có giá trị.
CHÑNH SAÁCH
35Số 18(394) T9/2019
Bên cạnh những kết quả đạt được,
thực tiễn hoạt động của đại biểu Quốc hội
nữ cho thấy đại biểu gặp nhiều khó khăn, rào
cản. Đại biểu Vi Thị Hương3 (đại biểu Quốc
hội trẻ nhất khóa XII của tỉnh Điện Biên),
đã từng bộc bạch: “Tôi rất mừng nhưng tôi
cũng rất lo. Lo vì không biết mình có làm
tròn trách nhiệm mà cử tri giao cho mình
với tư cách là người đại biểu của nhân dân
không”, “Tôi là người dân tộc, tôi không sợ
khổ, không sợ vất vả. Chỉ sợ kiến thức của
mình còn hạn chế”. Nhất là đối với những
vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, hoạt
động của các đại biểu đòi hỏi một sự tích
cực, nỗ lực hết mình. Đại biểu Vi Thị Hương
cho biết: “Tôi là người đi tuyên truyền pháp
luật, mà tỉnh Điện Biên lại có tới 21 dân tộc
thiểu số, có những người dân tộc không biết
tiếng phổ thông. Là người dân tộc Lào, tôi
chỉ biết tiếng Lào, còn các dân tộc khác, tôi
cũng chưa biết hết và chưa hiểu hết. Mặt
khác, giao thông đường xá đi lại còn rất khó
khăn”. Để hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt
nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân, nữ
đại biểu đã tự khắc phục khó khăn bằng cách
khi đến địa phương, việc đầu tiên là phải gặp
các chủ tịch, phó chủ tịch xã biết tiếng phổ
thông để nhờ họ dịch lại cho mình.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là giải pháp
giải quyết được khía cạnh tiếp cận người
dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người
dân. Để hoạt động hiệu quả, góp phần giải
quyết những vấn đề mà người dân mong
muốn, tăng cường hiệu quả hoạt động của
nữ đại biểu nói riêng cần phải tạo môi trường
làm việc thuận lợi cho nữ đại biểu Quốc hội.
Trong quá trình hoạt động của mình,
các đại biểu chuyên trách đã có nhiều đề
xuất, sáng kiến nhằm góp phần nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của các cơ quan của
Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường
vụ Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội.
Nhiều hoạt động của đại biểu đã trở thành
3 Đại biểu Vi Thị Hương (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên) bước vào hoạt động nghị trường khi vừa tốt nghiệp
Đại học Luật Hà Nội lúc 24 tuổi.
căn cứ thực tiễn để tiến hành sửa đổi quy
định của pháp luật có liên quan, trong đó có
phần đóng góp không nhỏ của nữ đại biểu
Quốc hội. Ví dụ như có những đại biểu đã
đề xuất, đồng thời chủ động tiến hành việc
tiếp xúc cử tri nơi công tác, nơi cư trú, tiếp
xúc theo nhóm, theo chuyên đề để tăng mối
quan hệ gắn kết với cử tri, đồng thời thu thập
thêm nhiều thông tin thực tế phục vụ công
tác tốt hơn.
Như đã nêu ở trên, phụ nữ tham gia vào
cơ quan đại diện sẽ có điều kiện tham gia xây
dựng chính sách, nhất là những chính sách liên
quan đến nữ giới nhằm bảo đảm cho những
phụ nữ khác có đủ điều kiện được bảo vệ
quyền lợi và cơ hội tham gia hoạt động chính
trị. Điều này sẽ tạo đà cho việc tăng cường số
lượng và nâng cao chất lượng hoạt động của
nữ giới, góp phần thực hiện thắng lợi chiến
lược bình đẳng giới. Đây là vấn đề được nêu
ra ở nhiều diễn đàn và được đề cập đến bởi
chính các nam đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, phải
thấy rằng, hoạt động trong các cơ quan dân
cử cũng là hoạt động khó nhất đối với phụ
nữ, vì ở đó, các quyết sách được ban hành
theo đa số. Do đó, nếu phụ nữ chỉ chiếm một
phần nhỏ, ý kiến của họ chỉ là thiểu số thì ảnh
hưởng của họ dường như có phần hạn chế
trong trường hợp cơ quan này tiến hành biểu
quyết về những vấn đề liên quan đến giới tính
mà có sự xung đột về lợi ích giới. Chính vì
vậy, cần tăng cường số lượng nữ giới tham gia
trong các cơ quan dân cử, tăng cường sự tham
gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo,
nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới
trong lĩnh vực chính trị.
2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1. Hạn chế
Thứ nhất, trong những năm qua, việc
triển khai chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về việc tăng số lượng đại biểu
CHÑNH SAÁCH
36 Số 18(394) T9/2019
Quốc hội là nữ chưa đạt. Trong cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV, trên tinh thần
thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân: “Số lượng phụ nữ được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban
thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề
nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm
tổng số người trong danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội là
phụ nữ”. Thực tế triển khai thực hiện quy
định này cho thấy, nhiều tỉnh không đạt tỷ
lệ nữ ứng cử viên tối thiểu theo luật định.
Song, do không có chế tài ràng buộc nên
không có cơ quan, đơn vị, tổ chức nào phải
chịu trách nhiệm về kết quả này.
Câu hỏi đặt ra ở đây là, trong điều kiện
Đảng đã để ra chủ trương và chủ trương này
đã được thể chế hóa thành pháp luật, cùng
với sự hiện diện của Hội liên hiệp phụ nữ ở
63 tỉnh, thành phố trong cả nước, vậy thì tại
sao tỷ lệ nữ giới tham gia chính trị vẫn thấp?
Để lý giải câu hỏi này, cần phân tích, đánh
giá các yếu tố định kiến xã hội về giới đã
ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của công
chúng trong việc lựa chọn nữ giới tham gia
chính trị nói chung. Đồng thời, phân tích,
đánh giá sự vào cuộc của các cấp, các ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội trong công cuộc
đẩy mạnh phát triển bình đẳng giới.
Phải thừa nhận rằng, hiện nay ở nước
ta vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh
nữ”. Mặc dù trong xã hội hiện đại đã có
nhiều chuyển biến về nhận thức, song đâu
đó, ở khía cạnh nào đó vẫn còn tồn tại dư
âm này. Rõ nhất là những đặc điểm mà nếu
ở nam được coi là tích cực (sự tham vọng,
lòng dũng cảm, sự quyết tâm) thì lại bị coi
là trái ngược, không phù hợp ở nữ giới. Bản
thân nữ giới cũng chưa đủ tự tin, thiếu các
kỹ năng giao tiếp để tham gia các hoạt động
xã hội.
Về sự vào cuộc của các cấp, các ngành
trong hệ thống chính trị, có thể nói, để có
được cuộc bầu cử thành công đều có sự
đóng góp không nhỏ, sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị. Tuy nhiên, chưa có sự liên
thông trong hành động của các tổ chức, các
cấp, các ngành của hệ thống chính trị.
Thứ hai, công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển đối với cán bộ nữ
hiện nay còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn
và thiếu định hướng chiến lược. Thực tế rất
ít cán bộ nữ được luân chuyển hoặc đủ điều
kiện để thực hiện luân chuyển.
Thứ ba, số lượng nữ đại biểu đủ tuổi
tái cử khóa tiếp theo không nhiều, tuổi đời
trung bình của cán bộ nữ khá cao. Điều này
sẽ dẫn đến một thực trạng đó là ở nhiệm kỳ
tiếp theo có không nhiều đại biểu nữ đủ điều
kiện về tuổi để tái cử, dẫn đến những kinh
nghiệm của đại biểu không được phát huy.
Đây cũng là điều hạn chế, bởi như đã phân
tích ở trên, đa số nữ đại biểu hoạt động sắc
sảo, chất vấn “tới cùng” là những đại biểu
hoạt động từ nhiệm kỳ thứ hai trở đi.
Ngoài ra, qua phân tích số nữ ứng cử
viên và số nữ trúng cử đại biểu Quốc hội có
thể thấy ngay có 2 vấn đề nổi lên, đó là:
Một là, vẫn tồn tại ở đâu đó vấn đề
định kiến đối với nữ, xem thường phụ nữ
hoặc cho rằng phụ nữ không nên tham gia
chính trị. Vấn đề này thật sự rất khó khắc
phục trong một sớm một chiều.
Hai là, phải thừa nhận rằng chất lượng
nữ ứng cử viên chưa cao, do đó chưa đủ sức
thuyết phục đối với cử tri khi cân nhắc, lựa
chọn bỏ phiếu bầu cho nữ ứng cử viên.
2.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dân đến tình
trạng như đã nêu ở trên.
Trước hết, đó là sự quan tâm của
cấp ủy, chính quyền một số địa phương,
Bộ, ngành (nhất là người đứng đầu) còn
chưa thật sự sát sao, thực chất. Trong đó có
nguyên nhân về trách nhiệm của người đứng
đầu trong việc thực hiện các văn bản chỉ đạo
liên quan đến công tác cán bộ nữ trong quá
trình chuẩn bị bầu cử. Nhận thức của một số
cấp ủy, tổ chức đảng và một bộ phận cán bộ,
CHÑNH SAÁCH
37Số 18(394) T9/2019
đảng viên chưa sâu sắc, chưa toàn diện về
công tác cán bộ nữ. Công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cấp
ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về công tác cán bộ nữ còn hạn chế.
Thứ hai, vai trò của Hội liên hiệp phụ
nữ ở các tỉnh, thành phố từ khi thành lập đến
nay tuy đã lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu nhưng chưa thật sự phát huy hết
hiệu quả. Cụ thể là, việc bồi dưỡng kiến thức
cho ứng cử viên là nữ tiến hành gấp gáp,
chương trình bồi dưỡng chưa chú trọng vào
kỹ năng diễn thuyết trước công chúng, kỹ
năng trả lời phỏng vấn báo chí và kỹ năng
xây dựng hình ảnh tích cực trong con mắt
xã hội.
Thứ ba, định kiến về giới còn tồn tại
trong xã hội, gây khó khăn trong việc triển
khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới tại địa phương. Thực tế cho thấy
ngay cả ở những địa phương đã chú trọng
đào tạo được đội ngũ trí thức là nữ nhưng
những rào cản về mặt xã hội vẫn có thể hạn
chế sự tham gia của phụ nữ trong hoạt động
xã hội nói chung và trong hoạt động của các
cơ quan dân cử nói riêng.
Thứ tư, tâm lý ngại phấn đấu, thiếu tự
tin của một bộ phận không nhỏ cán bộ nữ;
thiên chức làm mẹ, làm vợ, công việc nội trợ
gia đình; phong tục tập quán và sự chia sẻ
của chồng, con cũng là nguyên nhân, rào
cản đối với sự tham gia đại biểu Quốc hội
của phụ nữ nói chung.
3. Một số kiến nghị
3.1. Tăng cường hơn nữa số lượng đại biểu
Quốc hội là nữ
Để tăng cường số lượng đại biểu cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tăng cường hơn nữa sự
lãnh đạo của Đảng, tăng cường giám sát chặt
chẽ hơn nữa việc triển khai Nghị quyết số
11-NQ/TW, Nghị quyết số 24-NQ/TW của
Bộ chính trị, Kết luận số 55 của Ban Bí thư
và chính sách, pháp luật của Nhà nước liên
quan đến công tác cán bộ nữ.
Thứ hai, cần đảm bảo Hội liên hiệp
phụ nữ mỗi tỉnh có đại diện trong Ủy ban
bầu cử của tỉnh đó. Điều này sẽ góp phần hỗ
trợ kịp thời đối với các nữ ứng cử viên trong
quá trình vận động bầu cử, quá trình tiếp xúc
cử tri trước khi diễn ra cuộc bầu cử.
Thứ ba, cần xác định việc quan tâm
đến công tác quy hoạch cán bộ, chuẩn bị
nguồn nhân lực tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội là công việc thường xuyên liên
tục; tiếp tục thực hiện chủ trương tăng dần
số đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhằm
tăng tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Quốc hội. Trong mọi khâu cần chú
trọng hơn nữa đối với cán bộ nữ; phải có
chiến lược đầy đủ để đáp ứng, tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển và có chiến lược lâu
dài để đào tạo nâng cao trình độ.
Thứ tư, cần quan tâm hơn nữa công
tác đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ
nữ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng
yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường
sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản
lý, lãnh đạo và các cơ quan dân cử, đặc biệt
đối với nữ lãnh đạo trẻ, nữ dân tộc thiểu số;
phát huy vai trò của người đứng đầu trong
việc bố trí, phân công công tác đối với nữ
cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo đúng
quy định về bình đẳng giới.
Thứ năm, hạn chế tối đa tình trạng một
đại biểu nữ “gánh” quá nhiều cơ cấu, vừa cơ
cấu trẻ, cơ cấu dân tộc, cơ cấu là trí thức và
cơ cấu ngoài Đảng Điều đó làm hạn chế,
thu hẹp nguồn cán bộ lựa chọn đưa vào ứng
cử đại biểu Quốc hội.
3.2. Tăng cường hỗ trợ hoạt động của nữ
đại biểu Quốc hội
Để nữ đại biểu Quốc hội hoạt động có
hiệu quả ở nghị trường, cần tăng cường hỗ
trợ hoạt động của nữ đại biểu, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thường xuyên tổ chức cập
nhật kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng cho đại
biểu nữ.
(Xem tiếp trang 51)
CHÑNH SAÁCH
38 Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoat_dong_cua_nu_dai_bieu_quoc_hoi_thuc_trang_va_mot_so_kien.pdf