Mục lục
Trang
mở đầu 1
chương i: lý luận chung về kinh doanh dịch vụ giao nhận hàhg hoá quốc tế 3
I. Dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc và sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế của Việt Nam 3
1. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế 3
1.1. Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế 3
1.2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế 4
2. Người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế 7
2.1. Khái niệm về người giao nhận hàng hóa quốc tế 7
2.2. Vai trò của người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế 8
3. Các tổ chức giao nhận quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam 10
3.1. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận - FIATA 10
3.2. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS 12
4. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Việt Nam 13
II. Tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giao nhận hnàg hoá quốc tế 15
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế 15
1.1. Các cơ quan tổ chức liên quan 15
1.2. Cơ sở pháp lý 16
2. Địa vị pháp lý, quyền hạn nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hóa quốc tế 17
2.1. Địa vị pháp lý 17
2.2. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hoá quốc tế 19
3. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng hoá quốc tế 20
3.1. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng xuất khẩu 20
3.2. Trình tự nghiệp vụ giao nhận hàng nhập khẩu 22
4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế của doanh nghiệp 23
4.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghsiệp 23
4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp 26
chương II : thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế tại chi nhánh công ty kho vận miền nam - sotrans hà nội 28
I. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội 28
1. Quá trình hình thành và phát triển 28
2. Chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động 30
2.1. Chức năng 30
2.2. Nội dung hoạt động 30
2.3. Nhiệm vụ 30
3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật 31
3.1. Đặc điểm về nguồn vốn 31
3.2. Cơ cấu tổ chức và Bộ máy quản lý 31
3.3. Đặc điểm về lao động 33
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội 34
1. Kết quả kinh doanh tổng hợp 34
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế 38
2.1. Khối lượng hàng hóa được giao nhận 38
2.2. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo phương thức vận tải 42
2.3. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo vai trò của người giao nhận 47
2.4. Khách hàng của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại SOTRANS Hà Nội 52
2.5. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế theo thị trường 55
3. Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế 59
III. Đánh giá hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế tại SOTRANS HÀ NỘI 60
1. Thành tựu 60
2. Tồn tại và nguyên nhân 62
2.1. Tồn tại 62
2.2. Nguyên nhân 64
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhân hàng hoá quốc tế tại Sotrans Hà Nội 69
I. Triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế của Việt Nam 69
II. Phương hướng phát triển của SOTRANS Hà Nội trong thời gian tới 70
III. Các giải pháp và kiến nghị 72
1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan 72
1.1. Tạo hàng lang pháp lý cho hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế của Việt Nam 72
1.2. Phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở phục vụ hoạt động giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế 73
1.3. Phát huy hiệu quả của Luật Hải quan trong thực tế 73
1.4. Đẩy mạnh hình thức khai hải quan qua mạng - đơn giản hóa thủ tục thông quan hàng hóa 74
1.5. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam giành "quyền vận tải" và thuê tàu khi ký hợp đồng mua bán ngoại thương 76
1.6. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 81
2. Giải pháp từ phía SOTRANS Hà Nội 82
2.1. Đầu tư thêm các thiết bị phục vụ công tác giao nhận vận tải dưới sự hỗ trợ kinh phí của văn phòng Công ty 82
2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ nhân viên toàn Chi nhánh 82
2.3. Tổ chức tốt công tác Sales - Marketing 83
2.4. Phát triển mở rộng thị trường 85
2.5. Hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của tính thời vụ, tạo thế chủ động trong kinh doanh. 85
2.6. Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để thực hiện khai hải quan qua mạng 86
2.7. Xây dựng nghiệp vụ Logistics tại miền Bắc 87
2.8. Đầu tư vào lĩnh vực kho bãi tạo hướng kinh doanh mới 88
98 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3139 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật của Việt Nam còn lạc hậu, xuống cấp nghiêm trọng
Hệ thống giao thông đường bộ chật hẹp chắp vá, mặc dù được Nhà nước đầu tư nâng cấp thường xuyên song vẫn chưa hoàn chỉnh. Hệ thống đường sắt chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, chiều cao của hệ thống cầu đường bộ chưa đạt tiêu chuẩn gây khó khăn cản trở cho việc vận chuyển hàng hóa trong công tác giao nhận làm cho thời gian giao nhận kéo dài, do đó chi phí tăng lên. Hệ thống cảng biển nước ta phần nhiều là nông, hệ thống cầu cảng hẹp, trang thiết bị của cảng biển còn lạc hậu, năng suất xếp dỡ còn thấp, chưa thể tiếp nhận loại tàu có trọng tải lớn.
Sự thiếu nhất quán trong hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước
Cụ thể là Luật Hàng hải Việt Nam ra đời từ năm 1990 đến nay, do được xây dựng trong điều kiện cơ chế quản lý đang chuyển từ kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường. Do đó còn tồn tại nhiều quan điểm mang nặng tính quản lý tập trung bao cấp, chưa lượng hoá được hết những phạm vi trong lĩnh vực hàng hải và giao nhận hiện nay. Chẳng hạn sự xuất hiện của phương thức VTĐPT. Do đó luật hàng hải cần có sự sửa đổi bổ sung một cách đầy đủ hơn.
Luật Hải quan có tác dụng tích cực song vẫn còn những bất cập như: hệ thống biểu thuế, đặc biệt là thủ tục hải quan còn rườm rà, chi phí ngoài hoá đơn còn nhiều… do đó chi phí giao nhận ở Việt Nam còn khá cao so với các nước khác. Ví dụ như các quyết định miễn thuế nhập khẩu của Bộ Tài chính chỉ gửi tới Cục hải quan các địa phương, trong khi đó thuế phát sinh khi các doanh nghiệp mở tờ khai hàng nhập khẩu lại ở các Chi cục hải quan. Vì vậy nhiều khi do không nhận được các quyết định miễn thuế kịp thời nên các Chi cục hải quan vẫn yêu cầu các doanh nghiệp phải sớm giải quyết miễn thuế hoặc nộp thuế cho tờ khai đó… Đối với các lô hàng phải trưng cầu giám định Hải quan không chấp nhận kết quả giám định lần đầu đã lưu giữ mà bắt giám định lại… gây tốn thời gian và chi phí thông quan hàng hoá trong hoạt động giao nhận.
Gặp phải sự cạnh tranh gay gắt
Với đà phát triển mạnh mẽ của vận tải và buôn bán quốc tế, các dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu cũng không ngừng phát triển và ngày càng mở rộng tại Việt Nam trong những năm gần đây. Hơn nữa kinh doanh dịch vụ giao nhận không cần nhiều vốn đầu tư mà vẫn thu được nhiều lợi nhuận. Chính vì vậy mà hàng loạt các công ty đổ xô vào kinh doanh lĩnh vực này làm cho tính cạnh tranh trên thị trường giao nhận hàng hóa quốc tế của Việt Nam ngày càng gay gắt. Hiện nay, tại Việt Nam có trên 200 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có hơn 54 công ty liên doanh kinh doanh lĩnh vực này. Do đó, để có thể đứng vững và phát triển SOTRANS Hà Nội cần có những đánh giá về đối thủ cạnh tranh trên các phương diện như: mục đích tương lai, chiến lược hiện tại, tiềm năng của đối thủ cạnh tranh là gì?... nắm bắt những điểm mạnh, điểm yếu của họ để từ đó có chiến lược kinh doanh đúng đắn.
Chúng ta có thể tìm hiểu những nét sơ lược về các công ty được xem là những đối thủ mạnh trên thị trường giao nhận vận tải Việt Nam hiện nay:
VINATRANS
Là doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ những năm 70. Có bề dày kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế và là đại lý cho rất nhiều các hãng giao nhận vận tải quốc tế lớn trên thế giới. Những lợi thế của VINATRANS là:
Cơ sở vật chất rất hiện đại, có thể được xem như tương đương với các hãng giao nhận vận tải lớn trên thế giới.
Đội ngũ cán bộ lành nghề, giàu kinh nghiệm.
Có chi nhánh và văn phòng đại diện tại hầu hết các trung tâm kinh tế lớn của đất nước, tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế… bên cạnh trụ sở chính đặt tại Hồ Chí Minh…
VIETRANS
Là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ thương mại, có trụ sở chính tại Hà Nội. Là tổ chức đầu tiên tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa quốc tế. Trước năm 1986, VIETRANS là tổ chức duy nhất hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận ngoại thương phục vụ cho tất cả các công ty xuất nhập khẩu trong cả nước nhưng hoạt động chủ yếu chỉ giới hạn ở các ga, cảng, cửa khẩu. Sau năm 1986, Việt Nam thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, VIETRANS có cơ hội vươn lên thành một công ty giao nhận quốc tế có quan hệ đại lý rộng khắp trên thế giới và cung cấp mọi dịch vụ vận tải giao nhận kho vận cho mọi khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên VIETRANS cũng mất thế độc quyền trên thị trường giao nhận vận tải quốc tế và bước vào một cuộc cạnh tranh gay gắt cùng các tổ chức kinh tế khác trong ngành. So với nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực VIETRANS hơn hẳn về quy mô lẫn thị phần chiếm giữ.
GEMATRANS
Là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông vận tải. Là công ty tương đối lớn trên thị trường với mạng lưới phủ kín trên phạm vi toàn quốc, chiếm khoảng 20% thị phần giao nhận kho vận nội địa. GEMATRANS là đại gia đáng kể nhất trong làng vận tải container của Việt Nam. Công ty đã liên kết với hãng tàu K - Line của Nhật chở hàng chuyển tải cho hãng tàu Neddloyd (Hà Lan), hãng Hapag Lloyd (Đức), P&O (Anh), CMA (Pháp), DSR (Đức). Dịch vụ GEMATRANS - K Line nối Hồng Kông, Kaohsiung với thành phố Hồ Chí Minh; trong khi đó dịch vụ GEMATRANS - RCL lại nhắm tuyến Singapore - thành phố Hồ Chí Minh. Một số ưu điểm của GEMATRANS đó là:
Sở hữu đội tàu quốc tế.
Phát triển mạnh dịch vụ gom hàng xuất khẩu.
Tận dụng được vận chuyển hai chiều, đây là thế mạnh nổi bật nhất của GEMATRANS so với các công ty giao nhận khác trong nước…
Sự cạnh tranh gay gắt không chỉ thể hiện giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực giao nhận với nhau mà còn diễn ra giữa các doanh nghiệp giao nhận trong nước và nước ngoài. Thị phần hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam so với nước ngoài còn rất nhỏ bé, năng lực cạnh tranh còn thấp. Khối lượng giao nhận vận chuyển hàng hoá của Việt Nam mới chỉ đảm nhận chưa tới 20% lượng hàng hoá vận chuyển tại Việt Nam, phần còn lại chủ yếu do doanh nghiệp nước ngoài đảm nhận. Một phần là do năng lực phương tiện vận tải, do cách kinh doanh chưa có tính chuyên nghiệp, phần khác là do các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam thường mua với giá CIF và bán với giá FOB, nên các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam chưa chủ động giành được quyền trong giao nhận vận chuyển hàng hoá.
CH¦¥NG III
MéT Sè GI¶I PH¸P Vµ KIÕN NGHÞ NH»M PH¸T TRIÓN HO¹T §éNG KINH DOANH DÞCH Vô GIAO NHËN
HµNG HãA QUèC TÕ T¹I SOTRANS Hµ NéI
I. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Từ sau Đại hội VI của Đảng đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà nước, Đảng và Chính phủ chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần nhằm phát huy năng lực sáng tạo, sản xuất của mọi thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng thu nhập quốc dân hàng năm khá cao, cơ cấu nền kinh tế không ngừng được điều chỉnh theo hướng đối ngoại. Hoạt động ngoại thương đã có những bước phát triển vững chắc. Kim nghạch xuất nhập khẩu tăng nhanh, bình quân từ 1990 đến 2001 tăng từ 18 đến 19%/năm. Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu năm 1990 mới đạt 5.156,4 triệu USD thì đến năm 2002 đã đạt được 34.300 triệu USD, tăng 6,7 lần. Dự kiến kế hoạch tăng trưởng xuất nhập khẩu từ nay đến năm 2010 sẽ đạt bình quân khoảng 25%/năm. Nhất là khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được phê chuẩn và có hiệu lực thì hoạt động ngoại thương cuả Việt Nam có điều kiện tăng trưởng nhanh cả về quy mô lẫn hiệu quả kinh doanh. Đây là cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp trong ngành giao nhận vận tải hàng hóa.
Việt Nam rất có ưu thế để phát triển giao nhận vận tải biển. Việt Nam có 3.260 km bờ biển và có lợi thế là một bán đảo nằm ngay ở khu vực có hai đường giao thông trên biển lớn nhất thế giới đi qua, đó là đường hàng hải Á - Âu (con đường sống còn của các nước xuất khẩu sản phẩm công nghiệp và nhập khẩu nguyên liệu chiến lược từ các nước thuộc thế giới thứ ba) và đường hàng hải Nam Thái Bình Dương (cho phép những tàu chở dầu siêu lớn và tàu chở hàng rời lớn quá cỡ chạy trên tuyến đường này; nó liên quan đặc biệt đến nền kinh tế của Nga, Ấn Độ và Việt Nam).
Bảng 3.1:
Các chỉ tiêu dự toán ngành giao nhận vận tải quốc tế của Việt Nam
ĐVT: Triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
2010
2015
2020
Giá trị
4.595
7.400
11.918
Lượng tăng
-
2085
4.518
(Nguồn: Viện khoa học kinh tế giao thông vận tải)
Định hướng phát triển các ngành dịch vụ của Đảng và Nhà nước đã được nêu rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đó là "phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa, hành khách ngày càng hiện đại, an toàn, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu vực và thế giới. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp trong nước trong vận chuyển hàng hóa Việt Nam theo đường biển và đường hàng không quốc tế". Tất cả những điều trên cho thấy triển vọng phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của Việt Nam là rất cao.
II. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA SOTRANS HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong thời gian tới, tập thể Chi nhánh SOTRANS Hà Nội sẽ nỗ lực phấn đấu vượt qua những khó khăn thử thách và khắc phục những điểm yếu kém trong thời gian qua đưa Chi nhánh phát triển hơn nữa, hoàn thành tốt và vượt kế hoạch đề ra. Phương hướng phát triển của Chi nhánh đã được xác định rõ trong các kỳ Đại hội hàng năm là:
Tăng sức cạnh tranh bằng uy tín chất lượng dịch vụ, tận dụng lợi thế sức mạnh hệ thống SOTRANS; áp dụng công nghệ thông tin.
Dịch vụ đại lý giao nhận vận tải trong và ngoài nước hướng đến dịch vụ logistics, hợp tác kinh doanh với các đối tác có thế mạnh và uy tín trên thị trường.
Giữ ổn định thị trường, đối tác, khách hàng châu Âu, tập trung thị trường Mỹ - Nhật - Trung Quốc. Chú trọng mở rộng thị trường một số nước châu Phi và Mỹ La Tinh.
Tiếp tục phát triển các tuyến VTĐPT, sea - air, củng cố và phát triển giao nhận hàng không, phấn đấu trở thành đại lý của nhiều hãng hàng không, một trong các hãng quan tâm là Việt Nam AIRLINE. Đăng ký để trở thành hội viên của IATA.
Tổ chức hội nghị sales - marketing, hội nghị giới thiệu thống nhất về sản phẩm hướng tới dịch vụ logistics, tham gia hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Ban hành quy chế đánh giá thành tích xét thưởng sales - marketing.
Giữ vững giao nhận vật tư thiết bị các dự án. Áp dụng khai hải quan qua mạng. Tăng các dịch vụ đóng gói, xếp dỡ, dịch vụ giao nhận hàng rời, phát triển dịch vụ hàng chuyển phát nhanh dưới dạng hành lý không có người đi kèm. Tăng cường tìm kiếm kho bãi, đầu tư vào lĩnh vực kho bãi tạo hướng kinh doanh mới.
Tăng cường tiếp cận thị trường, phối hợp với các đại lý tận dụng tối đa ưu thế hiện có để duy trì các nguồn hàng hiện có, nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ khách hàng và có điều kiện tăng thêm khách hàng mới. Trên cơ sở thu thập thông tin từ khách hàng tại Việt Nam, phối hợp với các đại lý đẩy mạnh công tác khai thác khách hàng từ đầu nước ngoài.
Tạo lập uy tín và quan hệ tốt với các hãng tàu, hãng hàng không để có thể lấy chỗ trong thời điểm nhiều hàng và có thể xin được giá cạnh tranh.
Chi nhánh sẽ tổ chức những chương trình đào tạo ngắn hạn, những buổi thảo luận, những cuộc nói chuyện chủ đề, truyền đạt kinh nghiệm để nhanh chóng đào tạo nhân lực. Nâng cao khả năng trình độ nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm của mỗi nhân viên, thành thục kỹ năng giao dịch và thao tác nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả độ chính xác trong các khâu giảm tối đa các chi phí hành chính và chi phí kinh doanh.
Xin đầu tư thêm một số trang thiết bị nhằm tạo môi trường làm việc thuận lợi, nâng cao tốc độ khả năng xử lý công việc.
Đó là những điểm cơ bản trong phương hướng phát triển của SOTRANS Hà Nội trong thời gian tới. Riêng năm 2005, tại Lễ mừng công công bố hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2004 và các chỉ tiêu cơ bản thực hiện sản xuất kinh doanh năm 2005 Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh đã xác định một số chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu cần phải đạt được trong năm 2005 là:
Tổng doanh thu: 12 tỷ đồng
Lợi nhuận: 2,1 tỷ đồng
Thu nhập bình quân của cán bộ nhân viên: 4.750.000 đồng/tháng/ người
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan
1.1. Tạo hàng lang pháp lý cho hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế của Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam các quan hệ pháp lý nảy sinh trong hoạt động kinh doanh giao nhận kho vận tuy đã được quy định tại một số văn bản như: Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và gần đây nhất là Nghị định số 10 năm 2001 về kinh doanh dịch vụ hàng hải và Nghị định 125 năm 2003 về kinh doanh VTĐPT. Song phạm vi hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận rất rộng nên các văn bản trên chưa quy định hết chức năng kinh doanh của dịch vụ này. Do đó, để cho hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế có cơ hội phát triển thiết nghĩ Nhà nước và các nhà làm luật cần có sự quan tâm thích đáng để cho hoạt động kinh doanh giao nhận kho vận có hành lang hoạt động an toàn.
1.2. Phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở phục vụ hoạt động giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế
Giao nhận vận tải phát triển tất yếu kéo theo sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng trực tiếp phục vụ cho giao nhận vận tải như: bến cảng, sân bay, hệ thống đường giao thông (đường quốc lộ trên bộ, đường sông, đường sắt…). Kết cấu hạ tầng cơ sở có phát triển thì mới đảm bảo sự phát triển của hoạt động giao nhận vận tải, đảm bảo cho hoạt động giao nhận diễn ra một cách an toàn, hiệu quả, đạt các yêu cầu cơ bản của hoạt động giao nhận: thời gian giao nhận hợp lý, chất lượng giao nhận tốt và chi phí giao nhận thấp nhất.
1.3. Phát huy hiệu quả của Luật Hải quan trong thực tế
Để thực sự phát huy hiệu quả của Luật Hải quan trong thực tế khi áp dụng, xin có kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng có liên quan:
Đề nghị Tổng cục hải quan, Bộ Tài chính thường xuyên công khai hoá kịp thời các văn bản, chế độ chính sách mới có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận trong công tác thông quan hàng hoá.
Đề nghị các bộ ban ngành khi ban hành các văn bản hướng dẫn về chế độ, chính sách có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu cần có quy định cụ thể về thời hạn có hiệu lực thi hành để cho Hải quan và doanh nghiệp có thời gian nghiên cứu trước khi thực hiện.
Đề nghị Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ ban ngành sớm bổ sung hoàn chỉnh các văn bản dưới luật cho đầy đủ để hướng dẫn thực hiện Luật Hải quan.
1.4. Đẩy mạnh hình thức khai hải quan qua mạng - đơn giản hóa thủ tục thông quan hàng hóa
Việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh… là một quy trình bắt buộc của pháp luật. Tại Việt Nam hiện nay trong quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn áp dụng hình thức khai báo thủ công trên ấn chỉ do các cơ quan quản lý phát hành, thủ tục còn rườm rà tốn nhiều thời gian kèm theo đó là rất nhiều vấn đề phiền toái khác. Đôi khi thủ tục hải quan là khâu tốn nhiều thời gian nhất trong quy trình nghiệp vụ giao nhận hàng hóa quốc tế. Điều này làm giảm hiệu quả kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp giao nhận mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, nếu rút ngắn được thời gian làm thủ tục hải quan sẽ hỗ trợ cho việc giao nhận hàng hóa, làm giảm chi phí và tăng hiệu quả kinh tế. Xuất phát từ những vấn đề trên, ta thấy việc áp dụng khai điện tử trong quy trình thủ tục hải quan trong giao nhận hàng hóa quốc tế là vấn đề cấp thiết.
Việc khai báo điện tử trong quy trình thủ tục hải quan đã mang lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và cơ quan Hải quan:
Doanh nghiệp giảm bớt thời gian làm thủ tục hải quan từ 30% - 50% do: thông qua hệ thống tiếp nhận khai báo điện tử, doanh nghiệp có thông tin phản hồi về việc chấp thuận hoặc từ chối (nêu lý do) nên họ chuẩn bị đầy đủ hồ sơ giấy tờ và chủ động trong việc làm thủ tục hải quan, để khi đến cơ quan Hải quan là có thể tiếp nhận ngay.
Hai bên thực hiện thanh khoản hải quan và tiếp nhận nhanh chóng, chính xác thông qua hệ thống điện tử.
Doanh nghiệp có thể tham khảo được các thông tin về phía Hải quan (thông tin nợ thuế, chế độ, thủ tục hải quan mới nhất) để chủ động trong kế hoạch kinh doanh của mình. Cơ quan Hải quan rút ngắn được thời gian tiếp nhận khai báo, giảm bớt nhân lực nhập dữ liệu vào máy, số liệu thống kê chính xác kịp thời và thay đổi được phương pháp quản lý.
Doanh nghiệp và cơ quan Hải quan thay đổi được phương pháp quản lý mới dựa trên công nghệ thông tin.
Khai báo trước thông qua phương tiện điện tử là việc doanh nghiệp khai các thông tin của một số chứng từ thuộc hồ sơ hải quan trên máy vi tính và truyền hoặc chuyển dữ liệu khai báo tới hệ thống máy tính của cơ quan hải quan thông qua phương tiện điện tử. Hiện nay, Tổng cục hải quan đã có hướng dẫn chi tiết việc tiếp nhận khai báo trong thủ tục hải quan áp dụng công nghệ thông tin để các đơn vị hải quan thống nhất thực hiện. Tổng cục hải quan đã đưa ra 3 hình thức khai báo trước để người khai hải quan lựa chọn và đăng ký cho phù hợp với điều kiện cụ thể của mình là:
Khai báo thông qua đĩa mềm: khai và chuyển dữ liệu khai báo qua đĩa mềm và nộp cho cơ quan Hải quan tại các địa điểm làm thủ tục hải quan để cập nhật vào hệ thống máy tính theo khuôn dạng của Tổng cục hải quan quy định.
Khai báo tại phòng khai: khai trực tiếp trên hệ thống máy tính đặt tại các địa điểm làm thủ tục hải quan đối với những đơn vị hải quan có điều kiện.
Thông qua nối mạng trực tiếp: khai và truyền dữ liệu qua mạng tới hệ thống máy tính của cơ quan Hải quan tại các địa điểm làm thủ tục hải quan.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện khai báo điện tử khi làm thủ tục hải quan, doanh nghiệp thường gặp phải một số khó khăn như: chưa có quy định pháp lý về chứng từ điện tử, chữ ký điện tử, bản gốc, an ninh mạng chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử… nên khi doanh nghiệp tham gia khai báo hải quan điện tử, ngoài việc truyền số liệu doanh nghiệp phải nộp bộ hồ sơ hải quan. Mặt khác, các chứng từ do máy tính in ra như tờ khai hải quan, sổ theo dõi (đối với loại hình gia công)... hiện nay vẫn không được công nhận mà doanh nghiệp vẫn khai báo thủ công trên ấn chỉ do các cơ quan quản lý phát hành. Việc khai báo thông qua phương tiện điện tử sẽ phát sinh chi phí đối với doanh nghiệp về đào tạo cán bộ, trang thiết bị. Để thực hiện tốt việc khai báo điện tử trong quy trình thủ tục hải quan cần phải thực hiện một số biện pháp như sau:
Về phía cơ quan quản lý Nhà nước:
Chính phủ sớm ban hành các văn bản pháp lý quy định về pháp lệnh thương mại điện tử để quy định về giá trị pháp lý của dữ liệu điện tử, trao đổi dữ liệu điện tử, chữ ký điện tử... để thúc đẩy thương mại điện tử và khai hải quan điện tử.
Bộ Tài chính quan tâm đầu tư trang bị cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho các đơn vị trong nghành Hải quan một cách đồng bộ, đảm bảo hoạt động của nghành.
Cần sớm có quy định về hoạt động của đại lý hải quan theo quy định tại triển khai Luật hải quan và nghị định 101/CP.
Chính phủ cần sớm có lộ trình cụ thể quy định bắt buộc về việc áp dụng công nghệ thông tin đối với Tổng cục hải quan và chế tài yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện nối mạng với hải quan về khai báo qua mạng.
Về phía cơ quan Hải quan:
Tăng cường quan tâm đầu tư đào tạo cán bộ về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ để có đủ trình độ tiếp nhận công nghệ mới.
Có biện pháp để khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho người khai hải quan như: cho phép các doanh nghiệp khai báo qua mạng được ưu tiên làm thủ tục ngay; hỗ trợ các doanh nghiệp nhiều hình thức khai báo bằng cách sử dụng mã vạch hai chiều, khai thông qua website của cơ quan hải quan.
Đưa website khai báo hải quan điện tử lên mạng internet để đông đảo doanh nghiệp tham gia.
1.5. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam giành "quyền vận tải" và thuê tàu khi ký hợp đồng mua bán ngoại thương
Trong hợp đồng ngoại thương có quy định nhiều điều khoản khác nhau trong đó có các điều khoản về vận tải xác định rõ bên nào có trách nhiệm thanh toán trực tiếp cước phí vận tải và có trách nhiệm tổ chức chuyên chở hàng hóa được gọi là bên "giành được quyền vận tải" hay "quyền thuê tàu" nếu vận chuyển bằng đường biển.
Giành được "quyền vận tải" hay "quyền thuê tàu" có ý nghĩa rất to lớn:
Ở tầm vĩ mô:
Tạo điều kiện cho các ngành vận tải trong nước phát triển, cho phép sử dụng tốt lực lượng tàu buôn quốc gia, góp phần phát triển ngành hàng hải đất nước. Phát triển các dịch vụ như xếp dỡ, giao nhận, gom hàng, đại lý, môi giới, bảo hiểm… vì có giành được quyền vận tải thì mới ưu tiên người nước mình.
Trực tiếp tham gia vào thị trường thuê tàu của khu vực và thế giới, chủ động thực hiện các chính sách đối ngoại, chính sách đẩy mạnh XK của Nhà nước.
Góp phần tăng thu hoặc giảm chi ngoại tệ cho đất nước liên quan đến việc chuyên chở hàng hóa ngoại thương. Bên cạnh đó còn tăng thu ngoại tệ do xuất khẩu với giá cao, nhập khẩu với giá rẻ.
Ở tầm vi mô:
Giành được thế chủ động trong tổ chức chuyên chở và giao nhận, khai thác được thị trường giá cước thuê tàu một cách có lợi nhất kể cả khi bắt buộc phải đi thuê tàu của nước ngoài để chuyên chở…
Có khả năng sử dụng trực tiếp các dịch vụ của các cơ quan thuê tàu, giao nhận, bảo hiểm… trong nước, tiết kiệm ngoại tệ, nhận được các khoản hoa hồng của các hãng vận tải và bảo hiểm trả cho người thuê dịch vụ của họ.
Tăng giá hàng XK, khuyến khích XK, tăng khả năng cạnh tranh nếu giảm giá hàng nhờ cước thấp. Khi người bán giành được quyền vận tải, thuê được phương tiện vận tải với mức cước thấp thì thực chất đã tăng được giá FOB của hàng hoá.
Giảm giá hàng NK, giảm chi ngoại tệ nhờ đó có thể mua được nhiều hàng hơn, tăng khả năng cạnh tranh trong nước.
Nhưng một thực tế hiện nay là 80 - 90% số thương vụ các doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng theo điều kiện cơ sở giao hàng là XK theo giá FOB và NK theo giá CIF, tức là "quyền vận tải" thuộc về đối tác nước ngoài. Nguyên nhân do:
Xuất FOB, nhập CIF làm đơn giản hóa quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu nên các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng ngay từ khi bắt đầu tham gia buôn bán trên thị trường thế giới và đến nay đã trở thành thói quen. Điều này khiến cho khách hàng nước ngoài khi giao dịch với Việt Nam cũng hình thành thói quen chào bán giá CIF và hỏi mua giá FOB.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đều ở trong tình trạng thiếu vốn, nên không đủ điều kiện thanh toán cước phí vận tải và mua bảo hiểm cho hàng hóa.
Nói chung cán bộ nghiệp vụ còn chưa nắm vững về nghiệp vụ ngoại thương nên đã hiểu sai về các điều kiện giao hàng: họ nhầm rằng bán hàng theo giá FOB thì giao hàng tại cảng bốc còn mua hàng theo giá CIF thì giao hàng tại cảng dỡ hàng cuối cùng, do đó "xuất khẩu theo giá FOB thì an toàn hơn và được thanh toán nhanh hơn xuất khẩu theo điều kiện CIF" và "nhập khẩu theo giá CIF thì an toàn hơn và thanh toán cho bạn hàng chậm hơn nhập khẩu theo điều kiện FOB".
Nhưng rõ ràng theo Incoterm thì xuất khẩu theo điều kiện FOB hay CIF thì điểm chuyển rủi ro cũng là lan can tàu tại cảng bốc hàng. Việc thanh toán tiền hàng sớm hay muộn là tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên ghi cụ thể trên hợp đồng chứ không phụ thuộc vào điều kiện FOB hay CIF.
Yếu kém về nghiệp vụ thuê tàu và mua bảo hiểm cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam né tránh và nhường lại quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho khách hàng nước ngoài; mặt khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các công ty giao nhận vận tải và công ty bảo hiểm cũng chưa được thiết lập một cách bền vững để lựa chọn người vận tải - bảo hiểm chắc chắn cho hàng hóa xuất nhập khẩu của mình.
Nhìn chung đội tàu Việt Nam còn trong tình trạng lạc hậu, tỉ lệ tự động hóa và chuyên dụng hóa của tàu biển Việt Nam còn rất thấp, tuổi tàu già so với mức bình quân của thế giới (12 - 14 năm). Trang thiết bị vận chuyển lạc hậu nên chi phí vận chuyển và yếu tố rủi ro quá cao chưa kể đến yếu tố không đảm bảo tiêu chuẩn hàng hải. Cước phí vận tải của các đội tàu nước ngoài thường thấp hơn cước phí vận tải của Việt Nam vì năng lực chuyên chở của một tàu nước ngoài lớn hơn tàu của Việt Nam rất nhiều, hơn nữa những tàu nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hầu hết đã được khấu hao xong. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng khiến cho các hãng tàu của Việt Nam không thể cạnh tranh được với các hãng tàu nước ngoài, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam thường nhường quyền vận tải cho các đối tác nước ngoài vì đội tàu của họ có khả năng chuyên chở lớn hơn và an toàn hơn cho dù giá cước có cao hơn.
"Quyền vận tải" hay "quyền thuê tàu" ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả hoạt động XNK của doanh nghiệp. Không những thế đây còn là vấn đề mang tính quốc gia. Các quốc gia đều muốn phát triển đội tàu vận tải nước mình, tăng XK các dịch vụ hạn chế NK sản phẩm vô hình. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nên có các biện pháp để thay đổi điều kiện cơ sở giao hàng, khi XK nên chọn điều kiện nhóm C, khi NK nên chọn điều kiện của nhóm F. Muốn làm được điều này thì bản thân doanh nghiệp phải chuẩn bị các điều kiện:
Nâng cao trình độ ngoại ngữ và nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có nghiệp vụ thuê tàu và mua bảo hiểm.
Học và hiểu đúng về Incoterm
Nâng cao thế và lực trong kinh doanh để giành được chủ động trong lựa chọn điều kiện thương mại có lợi.
Về phía Nhà nước thiết nghĩ cũng cần phải có những biện pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu "giành quyền vận tải" bằng cách phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vận tải biển, tập trung vào phát triển đội tàu buôn và phát triển cảng biển của Việt Nam theo hướng:
Tăng nhanh đội tàu buôn: đội tàu buôn sẽ bao gồm các loại tàu hiện đại, trọng tải trung bình lớn. Phát triển nghành công nghiệp đóng tàu, tiến tới tự đóng được các loại tàu có trọng tải lớn phục vụ cho nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu.
Cải tạo và hiện đại hóa hệ thống các cảng biển hiện có, xây dựng một số cảng mới hiện đại, nhất là cảng nước sâu để tiếp nhận các tàu có trọng tàu lớn.
Nhìn chung Việt Nam có tiềm năng xây dựng được những cầu cảng, cầu tàu tầm cỡ quốc tế vì dọc theo bờ biển Việt Nam có thể xây dựng được những cầu tàu nhô ra ngoài khơi, và những cảng tiếp nhận được tàu 50.000 tấn đến 500.000 tấn. Đó là hệ thống cảng và cầu tàu nằm trên tuyến đường hàng hải chính của các nước Nhật, Nga, Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc… giao lưu với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, các nước châu Âu.
Ủy ban kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương của Liên Hợp quốc đã dự báo khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng container hàng năm sẽ tăng 7,1%. Đây sẽ là cơ hội tốt cho những nước có lợi thế về xây dựng và phát triển cảng biển như Việt Nam. Nếu chúng ta xây dựng được hệ thống các cảng chuyên dùng có tầm cỡ quốc tế, đủ khả năng tiếp nhận những tàu có trọng tải nặng thì lượng phí trung chuyển thu được có thể ngang với lượng kim ngạch xuất khẩu gạo và dầu thô - hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đây là cơ hội tăng doanh số cho các hãng giao nhận vận tải biển của Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Giao thông vận tải hiện nay tỉ lệ hàng xuất khẩu của Việt Nam đi nước ngoài bằng đội tàu trong nước chỉ chiếm 15%, tỉ lệ hàng nhập khẩu vận chuyển bằng đội tàu trong nước là 14%, một con số khá khiêm tốn. Điều này cho thấy khả năng cạnh tranh của đội tàu trong nước quá yếu, thị trường vận tải ngoại thương do các công ty tàu biển nước ngoài thao túng. Trong cơ cấu giá CIF, các doanh nghiệp ngoại thương chỉ thu được phần C (cost), phần F (freight) chỉ thu được khoảng 10 - 15% còn lại là nước ngoài hưởng trọn. Nếu quyền vận tải thuộc về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thì tình hình trên chắc chắn sẽ đảo ngược theo hướng có lợi cho phía Việt Nam.
Thị trường giao nhận vận tải của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng và thị trường tiềm năng này còn mở rộng hơn nữa nếu như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam giành được quyền vận tải trong ngoại thương. Giao nhận - vận tải - ngoại thương gắn bó chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ hữu cơ. Sự phát triển của ngoại thương đem lại doanh số cho ngành giao nhận vận tải và sự phát triển của giao nhận vận tải hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngày nay rất hiếm các hãng nào chỉ kinh doanh hoặc giao nhận hoặc vận tải một cách riêng lẻ mà thường kiêm luôn cả hai nghiệp vụ. Các hãng tàu và đại lý hãng tàu cũng mở rộng lĩnh vực kinh doanh kết hợp cả dịch vụ giao nhận nhằm tạo điều kiện cho chủ hàng trong việc thuê tàu và vận tải hàng hoá. Các hãng không sở hữu các phương tiện chuyên chở với thế mạnh là giao nhận thì vẫn kinh doanh chuyên chở dù chỉ là người chuyên chở theo hợp đồng (thầu chuyên chở) trong một quy trình khép kín "từ cửa tới cửa" đưa hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi giao hàng, và nếu được yêu cầu người giao nhận có thể tiến hành phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng.
1.6. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế đất nước. Khi nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp kinh doanh tại Việt Nam, sẽ mang theo một khối lượng cơ sở vật chất, máy móc thiết bị… và những sản phẩm sản xuất ra phần nhiều lại xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài. Đây là cơ hội hoạt động cho các doanh nghiệp giao nhận ở nước ta.
Nhà nước cần ban hành chính sách ưu đãi để thu hút và khơi thông dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như: nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết những bất cập trong quy định về tài chính đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nâng cấp nguồn lao động cho tương xứng, cải cách thủ tục hành chính... Đầu tư nước ngoài phát triển cũng gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của ngành giao nhận vận tải.
2. Giải pháp từ phía SOTRANS Hà Nội
2.1. Đầu tư thêm các thiết bị phục vụ công tác giao nhận vận tải dưới sự hỗ trợ kinh phí của văn phòng Công ty
Cơ sở vật chất cần cho quá trình giao nhận thì rất nhiều song không thể một lúc mà có thể đầu tư hết được bởi đầu tư ban đầu thì cần một lượng vốn rất lớn. Chi nhánh nên có biện pháp tích lũy dần cơ sở vật chất qua từng năm hoạt động, đầu tư theo nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi. Đây là biện pháp mà Chi nhánh phải thực hiện thường xuyên song hành cùng sự tồn tại của mình. Để đầu tư các thiết bị phục vụ công tác giao nhận cần một lượng vốn rất lớn, Chi nhánh có thể vay ngân hàng hoặc yêu cầu sự hỗ trợ của văn phòng Công ty nếu cần thiết. Cơ sở vật chất càng hiện đại thì công việc diễn ra càng nhanh và càng đạt hiệu quả cao.
2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ nhân viên toàn Chi nhánh
Yếu tố con người là yếu tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, họ là bộ mặt của doanh nghiệp. Đặc thù của hoạt động giao nhận vận tải là tính phức tạp rất cao cho nên một lỗi sai sót nhỏ về nghiệp vụ cũng có thể dẫn đến những tổn thất rất lớn không chỉ là thiệt hại về của mà còn cả uy tín của Chi nhánh. Do đó đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho họ là một giải pháp quan trọng và phải áp dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt động. Chi nhánh có thể sử dụng các biện pháp như:
Thường xuyên cập nhật các kiến thức mới về lĩnh vực giao nhận vận tải và các lĩnh vực có liên quan cho cán bộ nhân viên.
Mở các lớp đào tạo và trao đổi nghiệp vụ cho nhân viên, chú trọng đào tạo tại chỗ. Đồng thời khuyến khích nhân viên đi học các khóa học về nghiệp vụ chuyên môn, nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, pháp luật về giao nhận vận tải cũng như các luật lệ có liên quan.
Cử cán bộ đi học nghiệp vụ qua các liên doanh, các hiệp hội mà SOTRANS tham gia để học hỏi nghiệp vụ cũng như khả năng quản lý. Đây cũng là dịp để cán bộ nhân viên có cơ hội cọ xát với thực tế, tìm kiếm nguồn hàng, mở rộng mối quan hệ. Cùng với kinh nghiệm qua hoạt động thực tế chắc chắn trình độ của cán bộ nhân viên sẽ được nâng cao.
Có chính sách thưởng phạt rõ ràng, hàng năm tổ chức các cuộc sát hạch để loại bỏ các cán bộ nhân viên làm việc không hiệu quả, thiếu trách nhiệm, nắm bắt trình độ nghiệp vụ của nhân viên để kịp thời tìm hướng khắc phục.
Trong mọi trường hợp nhân viên Chi nhánh đều phải thực hiện tốt nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Song trong trường hợp không thuộc trách nhiệm của mình thì mọi sai sót và nguy cơ đe dọa đến quyền lợi của khách hàng nhân viên cũng cần có những hành động cần thiết để ngăn chặn và kịp thời thông báo cho khách hàng nhanh nhất có thể. Có như vậy thì mới tạo được niềm tin nơi khách hàng.
2.3. Tổ chức tốt công tác Sales - Marketing
Với thực trạng về công tác sales - marketing như hiện nay thì một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho Chi nhánh là cần tổ chức lại công tác sales - marketing. Những biện pháp có thể thực hiện là: tổ chức các hội nghị sales - marketing để nhân viên có cơ hội đúc rút kinh nghiệm và hình thành phương pháp sales - marketing hiệu quả, tăng ngân sách cho hoạt động sales - marketing, gửi nhân viên Chi nhánh học kinh nghiệm sales - marketing của các nhân viên Xí nghiệp… Điều quan trọng trong công tác sales - marketing là phải hiểu được nhu cầu của khách hàng, họ mong muốn gì khi ký hợp đồng với Chi nhánh, họ hiểu đến đâu về công tác giao nhận vận tải, nghĩa vụ trách nhiệm của hai bên và các bên liên quan khi thực hiện hợp đồng… Những nhân viên nghiệp vụ trực tiếp là mối nối quan trọng đưa khách hàng đến với Chi nhánh, sự thành công của nghiệp vụ sales - marketing phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ nhân viên này. Hiện nay tại SOTRANS Hà Nội nghiệp vụ sales - marketing là thế mạnh của phòng Nghiệp vụ kinh doanh và mỗi phòng kinh doanh đều có nhân viên sales - marketing của riêng mình, song đối với SOTRANS Hà Nội mỗi nhân viên SOTRANS đều là nhân viên marketing. Chính thái độ hành vi trong giao tiếp ứng xử, các kỹ năng cá nhân trong quá trình tiếp xúc với khách hàng như kỹ năng giao tiếp qua điện thoại, kỹ năng xử lý trực diện các tình huống khó khăn trong quá trình thực hiện công việc… tính chuyên nghiệp của nhân viên, ấn tượng mà nhân viên SOTRANS đem lại cho khách hàng chính là phương pháp marketing hiệu quả nhất.
Bên cạnh công tác sales - marketing công tác chăm sóc khách hàng cũng cần phải được đẩy mạnh và hoàn thiện. Chăm sóc khách hàng phải bắt rễ từ văn hoá và niềm tin của Chi nhánh, chứ không phải là các giải pháp mang tính tình thế để đối phó với những phàn nàn khiếu nại của khách hàng. Chi nhánh phải tạo cho mình từ cấp cao nhất đến thấp nhất có một nếp "văn hoá chăm sóc khách hàng", trong đó hình tượng khách hàng luôn được định hướng để mỗi cán bộ nhân viên tận tâm chăm sóc. Nếp văn hoá này thể hiện trong mọi lĩnh vực từ thông tin, giao dịch, trao đổi với khách hàng đến thái độ phục vụ, thời gian và sự giải quyết linh hoạt mọi tình huống xảy ra.
Nếp văn hoá chăm sóc khách hàng phải được cam kết từ cấp lãnh đạo cao nhất trong Chi nhánh và nhất quán trong mọi phòng ban, tránh tình trạng phòng ban này cam kết một đằng và phòng khác thực thi một nẻo. Văn hoá này sẽ là đặc trưng của Chi nhánh và sẽ làm cho "thượng đế" của Chi nhánh hài lòng.
2.4. Phát triển mở rộng thị trường
Mở rộng thị trường để khai thác những thị trường tiềm năng mới, đa dạng hóa thị trường, mở rộng phạm vi kinh doanh luôn là mục tiêu hoạt động của Chi nhánh, và có thể tránh những tác động xấu khi thị trường truyền thống có biến động tiêu cực.
Mở rộng thị trường có thể diễn ra theo hai hướng: mở rộng theo chiều rộng và mở rộng theo chiều sâu.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng là mở rộng thị trường theo phạm vi địa lý.
Hiện nay hoạt động của Chi nhánh đã vươn ra nhiều châu lục tuy nhiên vẫn còn một số thị trường mà Chi nhánh vẫn chưa khai thác được tiềm năng của nó như: châu Phi, Nam Mỹ. Đặc biệt châu Phi được đánh giá là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam. Thị trường châu Phi có nhu cầu phù hợp với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, nhập khẩu từ Việt Nam rất khá về các mặt hàng như dệt may, lương thực và hàng tiêu dùng. Lượng gạo châu Phi nhập khẩu của Việt Nam lớn thứ hai chỉ sau thị trường châu Á. Các thị trường lớn ở đây là Senegal, Bờ Biển Ngà, Ghana, Tanzania, Angola, Nam Phi. Đây là thị trường tiềm năng mà Chi nhánh cần phải xem xét.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu là vẫn trong môi trường địa lý đó nhưng đa dạng hóa phạm vi dịch vụ của Chi nhánh để thu hút khách hàng, tăng doanh thu, thị phần và khai thác triệt để thị trường hiện có, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Ví dụ: chú trọng hơn nữa vào dịch vụ gom hàng lẻ, gắn giao nhận hàng hóa quốc tế với giao nhận vận tải nội địa, chú trọng vào dịch vụ giao nhận từ cửa tới cửa...
2.5. Hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của tính thời vụ, tạo thế chủ động trong kinh doanh.
Tính thời vụ là một đặc điểm không thể tránh khỏi của hoạt động giao nhận vận tải, đặc tính này ảnh hưởng bởi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam, do đó không thể tránh mà chỉ có thể hạn chế tác động của nó mà thôi. Để hạn chế ảnh hưởng của tính thời vụ Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp như:
Giảm giá trong thời điểm ít hàng
Áp dụng biện pháp này phải thật thận trọng bởi có thể gây nên phản ứng tiêu cực từ các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Nếu các doanh nghiệp khác cũng hạ giá dịch vụ thì biện pháp này không còn hiệu quả như mong đợi, ngược lại có thể gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh không những các doanh nghiệp không được lợi mà còn lỗ, mất tinh thần đoàn kết hợp tác cùng có lợi giữa các thành viên trong Hiệp hội.
Cung cấp cho khách hàng những dịch vụ miễn phí kèm theo hợp đồng
Biện pháp này mang tính khả thi cao hơn, ưu điểm của nó là không ảnh hưởng đến cơ cấu giá cả. Những dịch vụ kèm theo có thể là tư vấn cho khách hàng về những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, tư vấn cho khách hàng những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng ngoại thương… các dịch vụ kèm theo này đem lại mối lợi cho khách hàng nhưng đối với Chi nhánh phải dễ thực hiện và ít tốn kém.
2.6. Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để thực hiện khai hải quan qua mạng
Trong tương lai gần Nhà nước và cơ quan Hải quan sẽ áp dụng phổ biến hình thức khai báo hải quan qua mạng và áp dụng bắt buộc đối với quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu. Điều đó là cần thiết bởi khai báo hải quan qua mạng đem lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia và đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ngay từ bây giờ SOTRANS Hà Nội phải xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để có thể thực hiện khai báo hải quan qua mạng. Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp:
Đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị máy móc, máy chủ, đường truyền số liệu… để đảm bảo thông tin, dữ liệu được liên lạc một cách nhanh nhất.
Đào tạo cán bộ có đủ trình độ về tin học, ngoại ngữ, nắm được chủ trương của Hải quan và cách thức để thực hiện.
Nếu các biện pháp trên sớm được thực hiện sẽ góp phần giảm được thời gian và chi phí, đơn giản hóa thủ tục hải quan, nâng cao hiệu quả khai thác hàng hóa trong giao nhận vận tải hàng hóa.
2.7. Xây dựng nghiệp vụ Logistics tại miền Bắc
Logistics là một hình thức cao của dịch vụ giao nhận vận tải. Người kinh doanh dịch vụ Logistics sẽ đảm nhận mọi dịch vụ để hàng hóa có thể được chuyển từ người gửi tới người nhận. Các dịch vụ đó có thể là: đóng gói, dán nhãn, kiểm kiện, kiểm định, lưu kho, bảo quản, tái chế, lập chứng từ, mua bảo hiểm cho hàng hoá, khai thuê hải quan, lưu cước tàu chợ, thuê tàu chuyến, thuê các phương tiện vận tải khác, thuê hoặc cho thuê vỏ container, thu gom hoặc chia lẻ hàng, phân phối hàng hóa giao hàng đến tận các điểm bán lẻ… làm tư vấn cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu về mọi vấn đề liên quan đến giao nhận vận tải và bảo hiểm, nhận uỷ thác xuất nhập khẩu... Tóm lại là mọi nghiệp vụ cần thiết để đưa hàng hóa đến tay người nhận theo một quy trình khép kín "từ cửa đến cửa". Để làm được điều này đối với SOTRANS Hà Nội hiện nay phải cần thực hiện dần dần và vững chắc từng bước một với một loạt các biện pháp như: nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư mở rộng diện tích kho bãi, nâng cao trình độ cho lực lượng lao động từ nhà quản lý đến nhân viên nghiệp vụ trực tiếp… và có thể yêu cầu sự hỗ trợ của Công ty nếu cần thiết.
Giải pháp này SOTRANS Hà Nội phải thực hiện ngay từ bây giờ và bền bỉ lâu dài trong suốt quá trình hoạt động. Chi nhánh nên cố gắng trong vòng 10 năm tới xây dựng cho mình một cơ sở vật chất hiện đại và khang trang, hoàn thành cơ bản các điều kiện để hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics có thể được diễn ra thực sự tại Chi nhánh. Để làm được điều này bên cạnh việc đào tạo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ nhân viên, thì để xây dựng cơ sở vật chất Chi nhánh cần một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, ngay một lúc chưa thể kịp thời đáp ứng. Ngoài nguồn vốn tự có Chi nhánh nên yêu cầu sự hỗ trợ của Công ty và Xí nghiệp, có thể vay ngân hàng để bổ sung vốn hoạt động và thực hiện đầu tư cơ sở vật chất ban đầu.
2.8. Đầu tư vào lĩnh vực kho bãi tạo hướng kinh doanh mới
Trong công tác giao nhận thì việc lưu kho hàng hóa để chờ hoàn thành các thủ tục chứng từ là điều tất yếu. Với tình trạng kho bãi như của SOTRANS Hà Nội hiện nay thì đầu tư vào mở rộng diện tích kho bãi chứa hàng tiến tới kinh doanh kho bãi là hướng đi đúng đắn cho Chi nhánh, đặc biệt là kinh doanh kho ngoại quan.
Kho ngoại quan là kho lưu giữ hàng hóa đã làm thủ tục hải quan được gửi để chờ xuất khẩu, hàng hóa từ nước ngoài đưa vào gửi để chờ xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Hàng hóa xuất nhập khẩu phải lưu kho ngoại quan để làm những thủ tục cần thiết như: Tập kết hàng thành lô, chuyến theo hợp đồng xuất nhập khẩu. Lưu kho, lưu bãi để chờ xuất hoặc nhập khẩu. Thực hiện kiểm tra, kiểm soát hàng hóa (kiểm hóa) của Hải quan. Kiểm định chất lượng hàng hóa. Kiểm tra y tế. Làm đồng bộ, bao gói, phân loại.
Hàng hóa được vận chuyển ra, vào, lưu giữ trong kho ngoại quan đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát và quản lý về mặt Nhà nước của Hải quan. Trên cơ sở hợp đồng giữa chủ kho và chủ hàng, chủ kho ngoại quan có thể làm một loạt dịch vụ như: lưu giữ, bảo quản hàng hóa hoặc vận chuyển, môi giới tiêu thụ hàng hóa gửi trong kho, hoặc làm dịch vụ khác như khai báo hải quan, giám định, bảo hiểm, tái chế và gia cố hàng hóa trước khi xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa.
Với chức năng là lưu giữ, bảo quản hàng hóa, kho ngoại quan phải có thiết kế, trang thiết bị phù hợp với đặc điểm bảo quản của từng loại hàng hóa, nhằm bảo đảm giữ nguyên chất lượng, trạng thái ban đầu của hàng hóa hoặc hạn chế những thiệt hại do việc vận chuyển xếp dỡ hàng hóa gây ra.
Ngày nay, khối lượng trao đổi, buôn bán hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam với nước ngoài ngày càng tăng nhanh, đòi hỏi phải có sự mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng phục vụ của kho ngoại quan, nhằm nâng cao năng lực xếp dỡ lưu chuyển hàng hóa của các cảng. Để kinh doanh kho ngoại quan, Chi nhánh phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh kho vận, giao nhận, kiểm tra hàng hóa, nghiệp vụ về giao dịch ngoại thương, có sự hiểu biết về luật pháp trong nước và quốc tế. Đồng thời, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; thiết kế xây dựng đường sá, kho bãi… với những trang bị, phương tiện xếp dỡ, phân loại, đóng gói, bảo quản hiện đại phù hợp với đặc điểm của từng mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng. Mặt khác phải xây dựng nội quy kho khoa học theo hướng kinh doanh và phục vụ tốt khách hàng.
KÕT LUËN
Giao nhận vận tải là một lĩnh vực kinh doanh còn rất mới ở Việt Nam, thị trường này chỉ thật sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây song đây là một thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn bởi kinh doanh loại hình dịch vụ này đưa lại nguồn lợi cao mà không cần đầu tư nhiều vốn như kinh doanh các lĩnh vực khác, do đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp tham gia làm cho tính cạnh tranh của thị trường càng trở nên khốc liệt. Thêm vào đó hoạt động giao nhận vận tải chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố đặc biệt là sự tác động của hoạt động xuất nhập khẩu. Kinh doanh trong một môi trường phức tạp như vậy thì những khó khăn và vướng mắc là không thể tránh khỏi đòi hỏi SOTRANS Hà Nội phải tự mình có những biện pháp để tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, vươn lên và trụ vững khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Bên cạnh đó rất cần sự phối hợp, trợ giúp của Nhà nước và các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên SOTRANS Hà Nội luôn tâm niệm rằng nội lực là chính ngoại lực là quan trọng.
Mặc dù SOTRANS Hà Nội vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh như khối lượng cơ sở vật chất chưa đầy đủ, hệ thống kho bãi còn hạn chế, chưa có đội xe hùng hậu, còn chịu nhiều ảnh hưởng của tính thời vụ… Giai đoạn 2000 - 2004 là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam và thế giới chịu nhiều ảnh hưởng bởi hậu quả của cuộc khủng bố 11 tháng 9, của dịch cúm gia cầm và dịch SARS. Với rất nhiều những khó khăn cản trở như vậy song với phương hướng phát triển đúng đắn thể hiện ở những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ. SOTRANS Hà Nội luôn tin tưởng rằng cùng với thời gian hoạt động Chi nhánh sẽ còn phát triển hơn nữa, những khó khăn sẽ dần được khắc phục và tháo gỡ. Chi nhánh sẽ tạo điều kiện cho thương hiệu SOTRANS cắm rễ sâu trên thị trường miền Bắc. SOTRANS Hà Nội luôn vững tin như vậy bởi bên cạnh Chi nhánh luôn có sự ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của Công ty và Xí nghiệp.
Trên đây là những kiến nghị và giải pháp được đề xuất với mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của SOTRANS Hà Nội nói riêng và của các doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực nói chung. Do trình độ còn hạn chế bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được những nhận xét, đánh giá của các thầy cô và cơ sở thực tập để em có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.
DANH MôC TµI LIÖU THAM KH¶O
I. SÁCH
1. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Hường/ "Kinh doanh quốc tế" - tập 1, tập 2/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2001.
2. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Hường/ "Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI" - tập 2/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2004.
3. Chủ biên: PGS. TS. Đinh Ngọc Viện/ "Giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế"/ Nhà xuất bản Giao thông vận tải - năm 2002.
4. Phạm Mạnh Hiền/ "Nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế"
Khoa Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu - năm 2003.
5. Dương Hữu Hạnh/ "Vận tải - giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2004.
6. Chủ biên: GS.TS. Võ Thanh Thu/ "Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2002.
7. Chủ biên: PGS. TS. Đặng Đình Đào/ "Kinh tế các nghành thương mại - dịch vụ"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2003.
8. TS. Lưu Văn Nghiêm/ "Marketing trong kinh doanh dịch vụ"
Nhà xuất bản Thống kê - năm 2001.
II. BÁO & TẠP CHÍ
9. Châu Giang/ "Tác dụng của quan hệ bán hàng giữa Logistics service providers & người gửi hàng" - Tạp chí Visaba số 42 tháng 11/2002.
10. Vũ Sĩ Tuấn/ "Giành quyền vận tải và thuê tàu khi ký hợp đồng mua bán ngoại thương" - Tạp chí Thương mại Việt Nam số 21 tháng 6/2003.
11. ThS. Nguyễn Hồng Vân/ "Một số kiến nghị về việc sử dụng khai điện tử trong quy trình hải quan đối với hàng hóa vận tải đa phương thức" - Tạp chí Giao thông vận tải 11/2004.
12. Bùi Chí Công/ "Tác dụng tích cực của Luật hải quan là cơ bản nhưng doanh nghiệp còn gặp một số khó khăn" - Tạp chí Thương mại Việt Nam số 44 tháng 11/2003.
13. Hải Vân/ "Triển vọng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - châu Phi" - Tạp chí Thương mại Việt Nam số tháng 6/2003.
14. TSKH. Trần Nguyễn Tuyên/ "Thực trạng và triển vọng phát triển quan hệ kinh tế giữa EU và Việt Nam" - Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 3(57)/ 2004.
15. Ngọc Dương/ "Xuất khẩu tăng trưởng bất ngờ và ngoạn mục - 9 điểm vượt trội của xuất khẩu năm 2004" - Thời báo Kinh tế Việt Nam/ Kinh tế 2004 - 2005.
III. TÀI LIỆU VỀ SOTRANS HÀ NỘI
16. Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo tổng kết hoạt động, Báo cáo kế toán giai đoạn 2000 - 2004 của SOTRANS Hà Nội.
17. Bảng tổng kết chỉ tiêu đánh giá thành tích hoạt động SXKD năm 2003.
18. Báo cáo tại Đại hội công nhân viên chức năm 2005 của SOTRANS Hà Nội.
19. Điều lệ hoạt động và tổ chức Chi nhánh công ty kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội.
20. Hồ sơ lưu trữ về hợp đồng, về lao động.
21. www.sotrans.com.vn.
22. www.viffas.org.vn.
Môc lôc
Trang
më ®Çu
DANH MôC B¶NG Vµ H×NH
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Tình hình nhân sự của Chi nhánh
Bảng 2.2
Kết quả kinh doanh giai đoạn 2000 - 2004
Bảng 2.3
Thu nhập bình quân của CBNV giai đoạn 2000 - 2004
Bảng 2.4
Khối lượng hàng hóa giao nhận giai đoạn 2000 - 2004
3
Bảng 2.5.1
Tình hình giao nhận theo cơ cấu mặt hàng (hàng NK)
4
Bảng 2.5.2
Tình hình giao nhận theo cơ cấu mặt hàng (hàng XK)
4
Bảng 2.6
Khối lượng hàng hóa giao nhận theo phương thức vận tải
4
Bảng 2.7
Kết quả giao nhận theo phương thức vận tải
4
Bảng 2.8
Kết quả giao nhận với vai trò đại lý
4
Bảng 2.9
Số lượng hãng giao nhận quốc tế ký hợp đồng đại lý với SOTRANS Hà Nội
4
Bảng 2.10
Khối lượng hàng hóa giao nhận với vai trò người gom hàng
5
Bảng 2.11
Doanh thu hoạt động giao nhận hàng hoá quốc tế theo khách hàng
Bảng 2.12
Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
5
Bảng 3.1
Các chỉ tiêu dự toán ngành giao nhận vận tải quốc tế của Việt Nam
6
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
Hình 2.1
Sơ đồ Bộ máy quản lý
2
Hình 2.2
Khối lượng hàng hóa giao nhận giai đoạn 2000 - 2004
0
Hình 2.3
Khối lượng hàng hóa giao nhận của phương thức hàng không
5
Hình 2.4
Kết quả giao nhận VTĐPT
6
Hình 2.5
Doanh thu hoạt động giao nhận với vai trò đại lý
8
Hình 2.6
Tỉ trọng khối lượng hàng hoá giao nhận theo thị trường
Hình 2.7
Tỉ suất lợi nhuận doanh thu của hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế
Danh môc tõ viÕt t¾t
GNĐB
Giao nhận đường biển
GNHK
Giao nhận hàng không
GNVTĐPT
Giao nhận vận tải đa phương thức
D/O
Delivery Order (Lệnh giao hàng)
B/L
Bill of Lading (Vận đơn đường biển)
H B/L
House Bill of Lading (Vận đơn của người gom hàng)
L/C
Letter of Credit (Thư tín dụng)
CFS
Container Freight Station (Trạm đóng gói hàng lẻ)
CY
Cotainer yard (Bãi container)
XK
Xuất khẩu
NK
nhập khẩu
NV
Nhân viên
NVL
Nguyên vật liệu
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
STT
Số tuyệt đối
TT
Tỉ trọng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24423.DOC