Tại các thị trường xuất khẩu, ta phải chụi sức ép cạnh tranh, nên các sản phẩm muốn đứng vững đòi hỏi phải có chất lượng cao, giá rẻ, mẫu mã đa dạng phong phú và hợp thời trang. Đồng thời, phải thoả mãn các yêu cầu về tâm sinh lý, tính tiện lợi dễ sử dụng, dễ bảo quản và không nhầm lẫn với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Điều đó, yêu cầu bản thân doanh nghiệp phải quan tâm hơn tới sản phẩm. Cần hoàn thiện các yếu tố cấu thành sản phẩm, trong đó đối với Tổng công ty cần đặc biệt quan tâm đến hai yếu tố là mẫu mốt thời trang và nhãn mác sản phẩm.
68 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thực trạng, giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, 61% tổng đầu tư FDI và 41,7% tổng nguồn vốn ODA dành cho khu vực ASEAN. Lãi suất ưu đãi đồng Yên chỉ ở mức 3% (trong khi đó vay của Hoa Kỳ và của ngân hàng thế giới từ 7 - 9%). Về quan hệ mậu dịch ASEAN là bạn hàng lớn thứ 2 của Nhật Bản, chiếm 25% nhập khẩu và 26% xuất khẩu của Nhật Bản.
Giống EU, thị trường Nhật Bản cũng đòi hỏi quy định rất khắt khe, nghiêm ngặt về chất lượng, cũng như thời hạn giao hàng. Các thương gia
Nhật Bản đều khẳng định rằng: “Người tiêu dùng Nhật không dùng sản phẩm có bất kỳ một khuyết tật nào, hàng may mặc sai quy cách, thủng, không vừa, ố phai màu đều không bao giờ được chấp nhận”.
Nhiều người cho rằng người Nhật khó tính hơn người Mỹ. Còn thương nhân Pháp nhận xét như sau về thị trường Nhật: “người tiêu dùng Nhật không dùng sản phẩm có bất cứ khuyết tật nào, người Pháp có thể chấp nhận một lỗi nhỏ như mật độ mũi may không đảm bảo, với điều kiện bớt tiền, còn người Nhật thì không”. Các thương nhân Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc có nhiều năm kinh nghiệm làm ăn buôn bán với người Nhật Bản đều có chung nhận xét: “Tốt nhất khi khách hàng Nhật báo cho ta biết một sơ suất hay một khuyết tật nào đó của sản phẩm thì hãy trình bày biện pháp khắc phục, cải tiến nó. Đừng bao giờ nói khuyết tật đó không quan trọng, dù chỉ xảy ra một nỗi nhỏ không đáng kể”.
Song nếu am hiểu lịch sử thì điều đó không có gì lạ. Nhật Bản có câu “Đừng quay lưng lại với người Nhật, thì người Nhật không bao giờ quay lưng lại với bạn ”.
3.2.2. Nhu cầu tiêu thụ:
Người Nhật chỉ mua những cái gì thích hợp với mình. Chất lượng là điều họ quan tâm trên hết. Họ luôn kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy, muốn xuất khẩu sang Nhật Bản, các doanh nghiệp đều phải cố gắng tìm ra mặt hàng nào mà khách hàng Nhật thực sự có nhu cầu. Có như vậy mới tìm ra hướng sản xuất và phải sản xuất hàng có chất lượng cao. Tuy nhiên, đối với sản phẩm dệt may thì hầu hết các trường hợp đều phải thay đổi, điều chỉnh hoặc nâng cấp chất lượng trước khi xuất sang Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần chú ý đặc điểm này để sản phẩm thích ứng được với các đối tượng khách hàng khác nhau.
Như đã nêu ở trên, Nhật Bản là thị trường có nhu cầu lớn về sản phẩm dệt may. Năm 1995, tiêu thụ hàng dệt may tới 116,3 tỷ USD. Thị trường này có sự cạnh tranh rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự cạnh tranh từ các nguồn hàng nhập khẩu. Từ năm 1986, Nhật Bản chuyển đổi chiến lược, tập trung sản xuất các mặt hàng có hàm lượng chất xám cao, giảm sản xuất trong nước, tăng nhập khẩu hàng dệt may. Dự kiến trong 5 năm tới sẽ tăng nhập khẩu hàng dệt may lên 50 -60%.
3.2.3. Tình hình xuất nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản thường rất cao.
+ Năm 1995: 23,48 tỷ USD hàng dệt; 17,5 tỷ USD hàng may mặc.
+ Năm 1996: 27,45 tỷ USD hàng dệt; 18,95 tỷ USD hàng may mặc. Trong các thị trường phi hạn nghạchq, cần xác định Nhật Bản là một
đại bàn quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta.
Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng dệt kim, khăn bông, sơ mi, quần âu So với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản, thì lượng hàng của Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn: khoảng 1,7%.
Theo số liệu năm 1996, Trung Quốc vẫn là nước xuất khẩu sang Nhật Bản lớn nhất: 1.169.145 triệu Yên. Sau đó là Italia, Hàn Quốc, Hoa Kỳ. Việt Nam ở vị trí thứ 5: 49.408 triệu Yên. Trong đó, mặt hàng dệt mặc ngoài của nam giới tăng 175%, mặt hàng dệt kim mặc trong tăng 147% so với năm
1995.
Tuy nhiên, sản phẩm Việt Nam xuất sang Nhật Bản còn hạn chế về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Giá cả chỉ đạt mức trung bình, chưa có mặt hàng cao cấp. Nhưng nếu được đầu tư, chất lượng cao hơn, mẫu mã phù hợp, giá cạnh tranh ta sẽ có khả năng thâm nhập sâu và phát triển được thị trư- ờng to lớn này. Hy vọng khi đó, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu sẽ ngày
một tăng. Với tốc độ xuất khẩu tăng trưởng như hiện nay, triển vọng giá trị
hàng dệt may Việt Nam xuất đi có thể đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2010.
3.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ:
Ngoài hai thị trường là EU và Nhật Bản ra, thì không thể không kể đến thị trường khổng lồ là Hoa Kỳ và Bắc Mỹ. Trong đó, Hoa Kỳ là chủ yếu, với những đặc điểm và nhu cầu hấp dẫn đối với hầu hết các nước xuất khẩu hàng dệt may.
3.3.1. Đặc điểm thị trường:
Hiện nay, Khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) là thị trường tự do lớn nhất thế giới. Khối này được thành lập từ ngày 1/1/1994. NAFTA có 3 nước thành viên: Hoa Kỳ, Canada, Mêhicô. Đây là những nước có thế mạnh về hầu hết các ngành kinh tế quan trọng. NAFTA có dân số 360 triệu người. Tổng sản lượng quốc dân 6.500 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng nghìn tỷ USD. So sánh mức độ tiêu thụ hàng dệt may so với khối thị trường EU, khu vực thị trường NAFTA có số dân tương đương, nhưng mức độ tiêu thụ gấp
1,5 lần (27 kg/người). Riêng Hoa Kỳ với 250 triệu dân, có 75% dân số sống ở thành thị. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người năm 1993 là 22.800 USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt hàng nghìn tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu là 610 tỷ USD (chiếm 14% kim ngạch nhập khẩu thế giới).
Hoa Kỳ là là nơi tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới. Thị trường lại đa dạng, phong phú, có nhiều cấp độ. Điều này rất phù hợp với hoàn cảnh, trình độ sản xuất của Việt Nam. Hiện nay, quan hệ hai bên đã được bình thường hoá. Hiệp định thương mại song phương và hiệp định hàng dệt may được ký kết. Đó chính là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường này.
Với Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn chưa áp dụng quy chế “tối huệ quốc” (MFN: Most Favoured Nation Treatment) thường xuyên và “ưu đãi thuế quan
phổ cập”( GSP: Generalired System of Preferences). Mặt hàng dệt may từ Việt Nam qua Hoa Kỳ do đó sẽ chịu mức thuế nhập khẩu từ 40 - 90%. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế “tối huệ quốc” chỉ chịu mức thuế 25%.
Khi đó, dẫn đến ưu thế cạnh tranh không thuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Vì chưa có MFN nên hàng dệt may của ta rất khó vào thị trường Hoa Kỳ. Nhưng nếu biết khai thác lợi thế so sánh là lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp thì không phải là ta không xuất được hàng sang Hoa Kỳ. Hơn nữa, sản phẩm của ta gần đây đã phát triển tới trình độ nhất định, nhiều mẫu hàng đã khẳng định được vị trí và chiếm được uy tín trong một số thị trường khó tính.
3.3.2. Nhu cầu tiêu thụ:
Một trong những mặt hàng nhập khẩu lớn là hàng dệt may. Hàng nhập khẩu có mẫu mã hết sức đa dạng phong phú. Đặc biệt, Hoa Kỳ có những hợp đồng rất lớn, do đặc trưng nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may ở thị trường này rất cao. Năm 1995, mức tiêu thụ hàng dệt may của Hoa Kỳ tới 192 tỷ USD. Trong đó, tự sản xuất được 157 tỷ USD, xuất khẩu 12 tỷ USD, nhập khẩu 46 tỷ USD.
Trung Quốc vẫn là nguồn cung cấp lớn nhất về hàng dệt may vào Hoa Kỳ, tiếp đến là Mêhicô, Canađa. Từ năm 1955 đến nay, Canada và Mêhicô (hai thành viên NAFTA) có xu hướng xuất mạnh hàng dệt may vào Hoa Kỳ, do các thành viên NAFTA được hưởng ưu đãi thuế quan và hạn ngạch. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng sẵn sàng mua hàng dệt may của những nước này để tiết kiệm thời gian và cước phí vận chuyển. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1996, Mêhicô tăng 40,55% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt, 40,18% hàng may mặc; Canađa tăng 20,45% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt. Sau đây là kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ trong các năm 1989 - 1995:
+ Năm 1989: 24,05 tỷ USD
+ Năm 1990: 26,2 tỷ USD
+ Năm 1993: 34 tỷ USD
+ Năm 1994: 40 tỷ USD
+ Năm 1995: 46 tỷ USD
Với tiềm năng lớn như vậy, Hoa Kỳ được coi là thị trường hấp dẫn , thu hút nhiều quốc gia xuất khẩu hàng dệt may. Ngay cả Nhật Bản và các nước công nghiệp lớn ở Đông Nam Á đều tranh thủ chiếm lĩnh miếng bánh ngon này. Họ đã thu được nhiều nguồn lợi lớn. Đặc biệt, Trung Quốc hàng năm xuất khẩu khoảng 5 - 6 tỷ USD hàng may mặc vào Hoa Kỳ.
Theo điều kiện thương mại hiện hành của Hoa Kỳ, hàng dệt may không được ưu đãi về thuế quan. Hoa Kỳ áp dụng quota với tất cả các nước. Ngay cả Việt Nam, sau một năm tăng nhanh trong kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ thì cũng đã bị phía Hoa Kỳ yêu cầu ký hiệp định dệt may để áp dụng hạn ngạch. Song đây vẫn là thị trường thu hút các doanh nghiệp.
3.3.3. Tình hình xuất nhập khẩu:
Đến nay, Việt nam đã được hưởng MFN, nên hàng của ta có thêm nhiều thuận lợi nhờ tỷ lệ thuế quan được giảm nhẹ đi rất nhiều. Mặt khác, với chính sách khuyến khích xuất khẩu như hiện nay của Nhà nước ta thì việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ mang lại nguồn lợi lớn hơn. Nhất là sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam cũng sẽ mạnh hơn.
Trước năm 1999, Việt Nam đã xuất sang Hoa Kỳ hai mặt hàng là hàng dệt thoi (găng tay, sơ mi trẻ em) và hàng dệt kim (sơ mi trẻ em, sơ mi nam, nữ, găng dệt kim, áo len). Dẫn chứng: năm 1995, Hoa Kỳ nhập 2.045.274 tá đôi găng tay, với giá trị 7.685.000 USD. Đến nay, mặt hàng găng tay có số lượng ngày càng lớn, do có sự chênh lệch nhỏ giữa biểu thuế không MFN là
25% với biểu thuế có ưu đãi MFN của mặt hàng này là 24,8%.
Bảng 19: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1994, 1995
Đơn vị : 1.000 USD
Mặt hàng
1994
1995
Hàng dệt thoi
2.436
15.092
Hàng dệt kim
80
1.837
Nguồn: www.vnexpres.net
Sau năm 1999, lượng hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng nhanh chóng cả về chủng loại lẫn kim ngạch. Đặc biệt, năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt mức trên 930 triệu USD.
+ Tuy nhiên về may xuất khẩu, Việt Nam đang gặp một số khó khăn, bất lợi như:
+ Hầu hết các mặt hàng đang được sản xuất đều dùng nguyên liệu nhập khẩu, kể cả phụ liệu. Do đó, chúng ta không tận dụng được sản phẩm của ngành dệt trong nước.
+ Theo dự báo của các chuyên gia nghiên cứu thị trường, trong vòng 3
- 4 năm tới, Việt Nam có thể xuất 2 tỷ USD hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ. Nhưng công nghiệp dệt may Việt Nam khó có thể đáp ứng ngay nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ về số lượng nếu không tích cực chuẩn bị nguyên liệu, vốn, năng lực sản xuất, nhân công...
Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1995, thì trong vòng 10 năm nữa hàng rào hạn ngạch dệt may bị loại bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%. Các nước xuất khẩu hàng dệt may đang chuẩn bị chiến lược xuất khẩu phi hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ vào năm 2005. Đặc biệt, những nước có lợi thế nhân công rẻ. Với Việt Nam, tỷ lệ xuất khẩu vào Hoa Kỳ còn quá thấp (0.037% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ năm 1995 và
0,7% vào năm 2002). Chúng ta cần đề ra chiến lược quy hoạch, phát triển chất lượng, tiếp thị. Chính sách đó phải tạo ra được sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu của thị trường Hoa Kỳ. Chúng ta cũng phải đầu tư đón trước thời cơ. Nếu như vậy, nhất định sẽ đặt chân vững chắc vào được thị trường này.
3.4. Thị trường ASEAN:
Đây là thị trường gần Việt Nam nhất và cũng có những nét giốngViệt Nam. Đó là thị trường các nước ASEAN. Thị trường các nước ASEAN đầy tiềm năng và rất dễ thâm nhập đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
3.4.1. Đặc điểm thị trường:
Trong vài thập kỷ qua, khu vực kinh tế ASEAN được coi là năng động nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của các nước ASEAN đứng vào hàng đầu thế giới. GDP tăng trung bình từ 5 – 11%/năm. Tất cả các nước ASEAN đều có ngành công nghiệp dệt chiếm tỷ lệ khá lớn trong ngành công nghiệp chế tạo. Tỷ trọng ngành dệt của các nước này đều chiếm trung bình từ 13 – 20% trong toàn bộ ngành công nghiệp. Dệt may giữ vai trò nòng cốt trong nền kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại tệ chính chỉ xếp sau dầu khí, tạo ra nhiều công ăn việc làm.
Trong những năm gần đây, do tốc độ phát triển kinh tế cao, mức sống ở một số nước đang được nâng lên cùng với sự cạnh tranh quốc tế ngày càng mãnh liệt khiến cho tốc độ phát triển công nghiệp dệt một số nước có biểu hiện chậm lại. Một lý do nữa là các nước này thiếu lao động, thiếu kỹ thuật, công nghệ, sản phẩm đơn điệu, nguyên liệu phụ thuộc vào nhập ngoại. Đặc biệt, từ tháng 7 năm 1997 đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã gây ra ảnh hưởng không ít.
Đặc điểm chung nữa của thị trường ASEAN: xuất khẩu thành phẩm là chủ yếu, chỉ nhập khẩu nguyên liệu(đặc biệt là bông), thiết bị, hoá chất thuốc
nhuộm và một số mặt hàng chất lượng cao mà trong nước chưa sản xuất hoặc không sản xuất được.
3.4.2. Tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu:
Một số nước có nền kinh tế lớn như: Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines đang hướng dần vào các ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật cao như: điện tử, trang thiết bị gia đình, chế tạo ôtô, xe máy,... Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu lao động trong ngành dệt may. Nhưng trong tương lai gần, những ngành công nghiệp trên vẫn chưa đủ để thay thế vị trí quan trọng của ngành dệt may. Do đó, trong chiến lược phát triển dệt may của các nước này đến năm 2005 và 2010 vẫn có kế hoạch mở rộng sản xuất. Họ chủ trương sản xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giải quyết công ăn việc làm, vì giá lao động vẫn còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Đồng thời, Chính phủ các nước này đang khuyến khích mở rộng đầu tư ra nước ngoài, sang những nước có giá lao động thấp hơn.
Từ nay đến năm 2003, trước khi hiệp định AFTA có hiệu lực, thì các quốc gia ASEAN sẽ đầu tư vào Việt Nam với mức độ nhất định. Đây chính là phân bố lại các ngành công nghiệp theo một chính thể kinh tế ASEAN thống nhất trong tương lai. Đặc biệt, sau khi Việt Nam trở thành thành viên của AFTEX (Hiệp hội dệt may Đông Nam Á). AFTEX là tổ chức không mang tính chất thể chế, nhưng những thỏa thuận cam kết giữa các Chính phủ qua hiệp định AFTA và AFTEX cũng sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư trong khối.
Qua nghiên cứu các thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành dệt may Việt Nam, chúng ta nhận thấy, vấn đề đặt ra cho các công ty, các doanh nghiệp Việt Nam là phải biết lựa chọn những phương pháp tiếp cận đầu tư nh- ư thế nào. Cần xác định được chi phí và đào tạo kỹ năng tay nghề cho người lao động chứ không phải đơn thuần là lao động rẻ là đủ. Các doanh nghiệp cần lựa chọn đối tác, mặt hàng, thị trường, thiết bị sao cho phù hợp với điều
kiện của mình. Ngoài ra, nếu áp dụng mọi biện pháp xúc tiến thương mại tại các thị trường này thì thành công của chúng ta chắc sẽ không nhỏ.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
1. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH DOANH XUẤT KHẨU TRONG THỜI GIAN QUA:
Trong những năm qua, hàng dệt may đạt hiệu quả kinh tế cao với mức độ tăng trưởng đều đặn hàng năm. Đây đang làmột trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của nước ta. Nhờ có các lợi thế như giá nhân công rẻ, đội ngũ công nhân có tay nghề, được sự quan tâm hỗ trợ của các cấp lãnh đạo, hàng dệt may Việt Nam đang thâm nhập thị trường thế giới một cách khá thuận lợi. Mặc dù sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phong phú, nhưng bên cạnh đó chúng ta vẫn còn chưa thoát khỏi cảnh “hàng nội mác ngoại”. Để tránh tình trạng này, các doanh nghiệp đang nỗ lực xây dựng một thương hiệu riêng cho mình. Nhưng những cố gắng ấy mới chỉ có phần nào tác dụng trong nước, còn trên thị trường quốc tế chúng ta vẫn chỉ là “người làm thuê” cho các doanh nghiệp nước khác. Việc phân tích rõ những thành công, tồn tại này sẽ giúp cho việc đưa ra các giải pháp chính xác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của ngành này.
1.1. Thành công:
1.1.1. Về kinh tế:
Trong những năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm khoảng 13% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đứng thứ hai sau dầu mỏ, đứng thứ nhất trong các loại hàng gia công chế biến. Với mức tăng trưởng ngoạn mục và khá cao so với các ngành khác nên đã kéo theo tốc độ tăng về kim nghạch xuất khẩu với mức tăng trung bình xấp xỉ 9%/năm. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may vẫn tăng, dù bị ảnh hưởng khủng
hoảng năm 1997. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,7 tỷ USD, gấp gần 3,5 lần so với năm 1995. Sự tăng trưởng đó đã góp phần không nhỏ vào quá trình ổn định và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Hàng năm, ngành dệt may đóng góp khoảng 11% tổng đầu ra của ngành công nghiệp chế tạo và đóng góp trên 2% vào GDP của cả nước.
I.1.2. Về xã hội,
Sự phát triển của ngành dệt may cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Tổng số nhân công làm việc trong ngành dệt may là hơn 1,6 triệu người, tính cả 700.000 người làm việc trong ngành nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm và trồng bông cung cấp nguyên liệu cho quá trình sản xuất. Có thể nói đay là ngành có số lượng lao động lớn nhất trong số các ngành công nghiệp.
1.1.3. Thành công về công nghệ:
Đây là ngành luôn có đổi mới công nghệ sản xuất. Trước kia thiết bị, công nghệ được nhập chủ yếu từ Nga và các nước Đông Âu, thì giờ đây, chúng ta thường nhập từ các nước có nền kinh tế phát triển. Việc nhập khẩu và sử dụng các thiết bị và công nghệ đem lại nhiều thành công cho sản xuất.Lý do của sự thay đổi đó chính là nhờ có sự thay đổi về chính sách, cơ chế quản lý. Các doanh nghiệp giờ đây được tự do lựa chọn công nghệ phù hợp, được trực tiếp kiểm tra, đánh giá thiết bị, tránh được nguy cơ phải chấp nhận thiết bị lỗi thời do kế hoạch từ trên giao xuống. Công nghệ cũng được nhanh chóng áp dụng vào quá trình sản xuất, đem lại nhiều lợi ích về kinh tế.
1.1.4. Thành công về kinh tế đối ngoại:
Trải qua hơn 10 tự mình vươn ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp trong ngành dệt may Việt Nam giờ đây đã có chỗ đứng và tạo ra được nhiều ấn tượng tốt đẹp trên trường quốc tế. Ngành dệt may đã có nhiều bạn hàng trên hầu khắp các châu lục, nhất là các thị trường phát triển như Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản... Ngành cũng đã như xây dựng được lòng tin và uy tín đối với các
đối tác này.
1.2. Tồn tại:
Tuy nhiên ngoài những thành công đó dệt may Việt Nam vẫn còn có những tồn tại cần phải giải quyết.
1.2.1. Đó là sự phát triển yếu kém của ngành dệt:
Với tốc độ tăng trưởng quá thấp, ngành dệt luôn tụt hậu so với tốc độ tăng trưởng của ngành may. Hiện nay, nhu cầu các loại sợi nhân tạo phục vụ cho may mặc tăng là rất lớn thì chúng ta mới chỉ đơn thuần cung cấp các loại sản phẩm sợi có nguồn gốc từ thiên nhiên. Chủng loại sản phẩm dệt thường đơn điệu, chất lượng thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém không những ở trong nước mà cả ở thị trường quốc tế. Do đó, công nghiệp dệt không đáp ứng được yêu cầu may xuất khẩu.
1.2.2. Về phụ liệu:
Không chỉ phải nhập vải sợi, mà các doanh nghiệp may Việt Nam còn phải nhập từ nước ngoài hầu hết các ngoại hầu hết các phụ liệu khác., Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp may.Việc mua nguyên phụ liệu nhập ngoại khiến cho các doanh nghiệp bị động, làm chậm thời gian giao hàng, hoặc hàng không đồng bộ hay không đảm bảo về quy cách phẩm chất.
1.2.3. Về phương thức kinh doanh:
Hiện nay, tỷ lệ các hợp đồng may gia công của các doanh nghiệp chiếm tới gần 80%. Do đó, kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng số ngoại tệ thực tế thu được thì lại rất nhỏ. Các hợp đồng may gia công thường không ổn định. Các hợp đồng phụ thuộc vào giá nhân công trong nước, phụ thuộc vào nguyên liệu từ bên ngoài. Dẫn đến có thể nói nghề may là một nghề thời vụ, mỗi năm chỉ sản xuất khoảng chừng 7 - 9 tháng khi nhu cầu tăng cao, 2 - 3 tháng còn lại thì lại thì hoạt động cầm chừng. Trong 2 -3 tháng đó giá gia công thường
bị ép xuống thấp hơn mức bình quân khoảng 20%. Để duy trì sản xuất, các doanh nghiệp sẵn sàng ký với bất kỳ giá nào. Điều này đã gây ra nhiều thiệt
hại cho ngành.
TỚI:
2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG THỜI GIAN
2.1. Thuận lợi:
Những thành công kể trên của ngành dệt may có được là nhờ tận dụng
được nhiều thuận lợi trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
2.1.1. Thuận lợi khách quan:
Thuận lợi lớn nhất đó là sự ủng hộ, chỉ đạo và giúp đỡ vô cùng to lớn của Nhà nước. Trong những năm qua ngành dệt may luôn được nhà nước hết sức tạo điều kiện. Sự thuận lợi đó góp phần đưa ngành trở thành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Nhờ đó ngành từng bước được công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính sách của Nhà nước còn được thể hiện bằng việc tạo điều kiện mở rộng thị trường thông qua mở rộng quan hệ ngoại giao và thương mại với các nước trên thế giới. Minh chứng rõ ràng nhất đó là quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Hoa Kỳ. Nhà nước còn hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp bằng cách cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Cũng như bảo lãnh cao đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp còn được hỗ trợ thông qua chính sách thuế như: thuế suất cho hàng xuất khẩu bằng 0%, hoàn thuế cho nguyên liệu phục vụ may xuất khẩu, miễn kiểm tra hải quan, vv
2.1.2. Thuận lợi mang tính chủ quan:
Ngành dệt may Việt Nam còn có nhiều lợi thế như giá nhân công thấp hơn so với các nước khác. Nếu được quản lý tốt thì đây sẽ thực sự là thuận lợi không nhỏ, do đặc thù cần rất nhiều lao động. Nếu tỷ lệ giá trị lao động lớn nhân với giá nhân công thấp sẽ làm cho giá thành sản phẩm thấp đi rất nhiều
và tăng sức cạnh tranh. Ngoài ra, ngành dệt may Việt Nam có một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, có năng lực và nhạy bén với mọi hoàn cảnh.
2.1.3. Thuận lợi về công nghệ:
Hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh được trang bị các dây chuyền thiết bị hiện đại, đủ sức tạo ra những sản phẩm cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó còn có sức mạnh nữa, đó là tháng 10/1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam được thành lập. Hiệp hội với 159 doanh nghiệp thành viên này tạo thêm sức mạnh đoàn kết cho ngành dệt may Việt Nam.
2.2. Khó khăn:
Ngoài những thuận lợi mang tính khách quan, chủ quan đó, không thể không tính đến những khó khăn thách thức mà ngành phải đối mặt trong những năm tới:
2.2.1. Khó khăn trong nước:
Như ta đã biết quá trình hội nhập vào AFTA của Việt Nam, theo lịch trình thì năm 2006 Việt Nam sẽ dỡ bỏ thuế xuất cho hầu hết các hàng hoá có xuất xứ từ ASEAN, trong đó có hàng dệt may. Chính vì vậy trong thời gian tới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong vùng, mà họ hơn hẳn chúng ta về kinh nghiệm cũng như quy mô. Tuy rất năng động nhưng các doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế về cơ chế, sự phát triển không đồng đều. Do vậy, ngay trong nội bộ ngành nếu không có những đối sách, chiến lược phát triển thích hợp thì ngành dễ có nguy cơ bị mất “hậu phương” của mình là thị trường nội địa.
2.2.2. Khó khăn khách quan:
Thách thức lớn nhất đối với ngành dệt may nước ta hiện nay là quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Một khó khăn nữa cũng đến từ quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đó là việc Việt Nam chưa trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Theo thoản thuận của WTO năm 2005, mọi hàng rào về hạn ngạnh hàng dệt may sẽ được dỡ bỏ cho tất cả các nước là thành viên. Khi đó, Việt Nam có nguy cơ bị mất thế cạnh tranh trên thị trường EU và Hoa Kỳ. Đồng thời, Việt Nam thuộc danh sách các nước trong diện chịu hạn ngạch. Ngược lại, trong khi các đối thủ cạnh tranh khác của Việt Nam như Thái Lan, Trung Quốc đã là thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
3. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM:
Như đã nêu ở trên, trong quá trình hội nhập, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phải đối mặt với những thách thức to lớn, vì vậy để có thể giữ được mức tăng trưởng cao như hiện nay cần có sự hỗ trợ của chính phủ cho ngành vạch ra phương hướng phát triển, chiến lược tăng tốc. Các mục tiêu phát triển chủ yếu trong ngành đã được đưa ra trong báo cáo của Việt Nam tại hội nghị dệt may Châu Á - Thái Bình Dương. Theo các mục tiêu phát triển chiến lược này của ngành dệt may Việt Nam tới năm 2010 thì:
- Công suất của ngành dệt may Việt Nam:
+ Năm 2005 phấn đấu đạt sản lượng 30.000 tấn sợi bông, 60.000 tấn sợi polyester, 150.000 tấn vải các loại, 800 triệu mét vuông vải dệt thoi, 300 triệu sản phẩm dệt kim và 780 triệu sản phẩm may sẵn các loại.
+ Năm 2010 phấn đấu đạt sản lượng 80.000 tấn sợi bông, 120.000 tấn sợi polyester, 300.000 tấn vải các loại, 1.400 triệu mét vuông vải dệt thoi, 500 triệu sản phẩm dệt kim và 1.500 triệu sản phẩm may sẵn các loại.
- Doanh thu từ xuất khẩu: Năm 2005 phấn đấu đạt: 4 – 5 tỷ USD; Năm 2010 phấn đấu đạt: 8 – 9 USD.
- Số lượng lao động phấn đấu: Năm 2005: 2,5 đến 3 triệu người; Năm
2010: 4 đến 4,5 triệu người.
- Tỷ lệ nguyên liệu và phụ liệu nội địa: Năm 2005 đạt trên: 50%; Năm
2010 đạt trên: 75%.
- Tổng đầu tư cho phát triển ngành dệt may: Giai đoạn 2000 đến 2005 là
35.000 tỷ VND; Giai đoạn 2006 đến 2010 là 30.000 tỷ VND.
Ngoài ra, ngành cũng đưa ra mục tiêu phát triển của nguyên liệu bông đến năm 2010:
Bảng 20: Dự kiến sản lượng bông của Việt Nam đến năm 2010
Mục tiêu
Thực hiện năm
2000
Năm 2005
Năm 2010
Diện tích trồng bông công nghiệp (ha)
22600
60000
150000
Năng suất hạt bông (kg/ha)
900
1400
1800
Sản lượng hạt (tấn)
20300
84000
270000
Năng suất bông (tấn)
6800
30000
95000
Nhu cầu bông của ngành
(tấn)
60000
97000
13000
Nguồn: VINATEX.
Đồng thời, có kế hoạch đầu tư vào hai nhà máy sợi polyeste với tổng công suất 30.000 tấn sợi mỗi năm nhằm thoả mãn 65% nhu cầu sản xuất hàng dệt may ở trong nước. Trong 5 năm 2000 - 2005 nhà máy thứ nhất sẽ được
đưa vào hoạt động. Năm 2006 – 2010 nhà máy thứ hai sẽ được đưa vào sản
xuất.
Về đầu tư cho máy móc, trong giai đoạn 2000 đến 2005 sẽ xây dựng mới hai nhà máy sản xuất thiết bị nhằm cung cấp các trang thiết bị, máy móc dự phòng cho toàn ngành.
4. GIẢI PHÁP:
4.1. Giải pháp vĩ mô:
Vấn đề cấp thiết nhất lúc này là nhà nước cần có chính sách quy hoạch tổng thể các vùng nguyên liệu để có thể hỗ trợ đầu vào cho các nhà máy dệt. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho ngành dệt phát triển kịp với tốc độ tăng trưởng của ngành may, cung ứng nguyên liệu cho quá trình sản xuất tránh phụ thuộc quá nhiều vào các đối tác nước ngoài về nguyên vật liệu.
4.1.1. Hoàn thiện chính sách đầu tư:
Từ khi Bộ Luật đầu tư nước ngoài đựơc ban hành, đã có rất nhiều dự án với hàng chục tỷ USD được đầu tư vào Việt Nam.Trong đó cũng có nhiều dự án cho ngành dệt may. Trong vòng 10 năm tới, để có được 2,5 – 3 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh luật đầu tư nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Nhà nước cũng cần cải cách hành chính nhằm đơn giản hoá thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư. Đưa ra các điều kiện ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào nghành dệt.
Đối với riêng ngành dệt, cần có kế hoạch giới thiệu đầy đủ các dự án - ưu tiên đầu tư, quy hoạch các khu công nghiệp dệt may tập trung, phối hợp với các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng thích hợp. Khuyến khích và vận động đầu tư thu hút vốn trong và ngoài nước, tạo ra những nhà máy co quy mô sản xuất lớn.
4.1.2. Chính sách ưu đãi về xuất khẩu:
Trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá, Nhà nước có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ các doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh xuất khẩu với các nước. Tiếp tục áp dụng thuế suất nhập khẩu 0% dành cho hàng dệt để thúc đẩy ngành dệt phát triển. Đề nghị Nhà nước cho miễn thuế nhập nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm (mặt hàng dệt, các phụ liệu may). Dần dần từng bước thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và cũng tạo điều kiện cho ngành may xuất khẩu hàng theo phương thức trực tiếp.
4.1.3. Chính sách về vốn:
Nhà nước cần xây dựng, hoàn thiện chính sách cho vay và bảo lãnh vốn vay hợp lý. Giúp đỡ ngành dệt được vay dài hạn trên 10 năm với ngành dệt, trên 5 năm với ngành may vốn tín dụng của Chính phủ, vốn ODA với lãi suất ưu đãi (khoảng 5%). Đề nghị Nhà nước miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các dự án đầu tư cho ngành dệt may trong thời kỳ chưa hoàng trả nợ xong. Thành lập thêm các công ty cổ phần, bán cổ phần, liên doanh, liên kết. Tiến hành cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp dệt may.
4.1.4. Chính sách tiêu thụ nội địa:
Thiết lập hàng rào thuế quan, phi thuế quan nhằm hạn chế hàng may mặc nhập khẩu, chống tình trạng trốn thuế, lậu thuế tràn lan như hiện nay. Bảo vệ hàng dệt may trong nước để ngành dệt may có đủ sức phát triển. Do từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam thường từ 6% đến 9,5%, cho thấy đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, sức mua tăng mạnh, nên ngành dệt may cũng cần có chính sách cụ thể để chiếm lĩnh thị trường nội địa, sản xuất các sản phẩm cho ngời tiêu dùng trong nước có chất lượng, mẫu mã tương xứng, phù hợp thị hiếu, tập quán và giá cả với từng vùng, đáp ứng nhu cầu từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa
4.2. Giải pháp vi mô:
Đối với riêng ngành dệt may cần có chiến lược kinh doanh xuất khẩu tổng thể. Chủ trương: “mở rộng và phát triển các khu vực thị trường hiện tại, thâm nhập vào các khu vực thị trường mới bằng chất lượng sản phẩm và giá thành kết hợp với các hoạt động Marketing”, bằng hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm, tham dự triển lãm, hội trợ
4.2.1. Giải pháp cho hoạt động Marketing:
- Thị trường trọng điểm trong thời gian từ nay đến năm 2010, của ngành dệt may Việt Nam được xác định vẫn sẽ là: Đông Âu, EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ và ASEAN.
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hàng may mặc, hàng dệt kim, sợi, vải, khăn bông và áo len.
- Yêu cầu về chất lượng, giá cả, mẫu mã và sự khác biệt sản phẩm: nhu cầu về sản phẩm dệt may trên thế giới ngày càng tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường xuất khẩu. Để thâm nhập vào các khu vực thị trường mới đòi hỏi các sản phẩm phải đảm bảo, đáp ứng các tiêu chí, chỉ tiêu chất lượng đề ra theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Môi trường trong nước đối với kinh doanh xuất khẩu: nhìn chung, có nhiều thuận lợi cả về chính trị và kinh tế. Sự ổn định về chính trị của nước ta hiện nay kết hợp với những thành công trong hoạt động ngoại giao đã và đang mở ra những vận hội mới cho các đơn vị kinh doanh xuất khẩu. Đó là cơ hội để thâm nhập và mở rộng thị trường tại các nước ASEAN, Hoa Kỳ, EU
- Một phần khá quan trọng khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu không thể bỏ qua đó là đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải biết chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt ngay tại các nước nhập khẩu, mà còn phải đối đầu với rất nhiều doanh nghiệp lớn thuộc các nước xuất khẩu khác. Để giữ được một vị trí nào đó trên thị trường quốc tế, đòi hỏi các công ty phải nắm rõ về đối thủ
của mình. Chúng ta phải chịu sức ép nặng nề về tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh của các nước láng giềng, cũng như các doanh nghiệp dệt may của họ. Đặc biệt, nghành dệt may khu vực ASEAN chiếm tới 70% sản lượng trên toàn thế giới và hiện nay nghành này vẫn đang tiếp tục phát triển năng động. Trên cơ sở nền móng của nghành dệt may truyền thống trong khu vực, thì sự tăng cường các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong những năm gần đây thông qua hoạt động thương mại sẽ khiến cho hoạt động đầu tư quốc tế sôi động và góp phần vào phát triển kinh tế của cả vùng Đông Nam Á.
Tóm lại, ngay trong thời gian tới các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược phát triển Marketing, thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh tại các thị trường quan trọng như Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước thuộc khối EU. Các văn phòng này cần lựa chọn đội ngũ cán bộ có năng lực, hiểu biết, đảm bảo các nhiệm vụ về phân tích môi trường kinh doanh, về thị trường và việc giới thiệu sản phẩm.
4.2.2. Cải tiến phương thứcxâm nhập thị trường, phân phối sản phẩm:
- Từ trước tới nay, nếu theo “phương thức tam giác” mà ba đỉnh của tam giác gồm: “nhà sản xuất - khách hàng - người tiêu dùng" thì các doanh nghiệp của ta phần lớn đều chấp nhận là nhà sản xuất, còn khách hàng của họ (người nước ngoài) mới là người khai thác thị trường. Người tiêu dùng ở các thị trường trên thế giới biết họ với tư cách là nhà cung cấp chứ không quan tâm đến nhà sản xuất. Do đó, thị trường là của khách hàng, chứ chúng ta không hề có. Điều này gây cản trở rất lớn nếu các doanh nghiệp tiến tới bán hàng theo phương thức sản xuất và xuất khẩu trực tiếp. Giải pháp để giải quyết đồng bộ cả ba yếu tố: “nguyên liệu – thiết kế mẫu – thị trường" là vấn đề cấp bách trong quá trình mở rộng, tìm kiếm thị trường xuất khẩu trong tương lai.
- Chính sách phân phối sản phẩm: vẫn còn là bài toán hóc búa đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Văn phòng đại diện đặt tại nước ngoài
sẽ phải hoạt động tích cực để không chỉ nhận được các hợp đồng gia công cho doanh nghiệp mà còn để cho các sản phẩm “Made in Vietnam” đến tận tay người tiêu dùng các nước trên thế giới với chất lượng, mẫu mã đạt tiêu chuẩn, chất lượng quốc tế.
4.2.3. Nắm bắt nhu cầu, xu thế thị trường để có phương án phù hợp:
- Nghiên cứu thị trường là cơ sở quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, định hướng đầu tư phát triển sản xuất. Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta không thể áp đặt một nhu cầu, rồi tiến hành sản xuất, mà cần phải nắm bắt được diễn biến thị trường, yêu cầu, sở thích hiện tại của khách hàng và xu thế ưu thích của họ để phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu đó.
Với sự ổn định về chính trị và chính sách mở cửa, mặt hàng dệt may Việt Nam càng có điều kiện đến với nhiều bạn hàng trên thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi không còn chế độ hạn ngạch các doanh nghiệp phải tự mình vươn lên cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác trên thị trường thế giới, thì việc định hướng đúng nhu cầu thị trường có ý nghĩa quyết định sự thành công của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu nhu cầu sử dụng vải vào các mục đích khác nhau. Ở Châu
Âu: vải dành cho may mặc chiếm 48%, vải kỹ thuật 21%, công dụng gia đình
18%, thảm 13%. Vải kỹ thuật chiếm tỷ trọng bằng 1/5 nguyên liệu dệt các loại và có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Ở Nhật Bản: vải cho may mặc chiếm 30%, vải kỹ thuật 39%, công dụng gia đình 31%. Năm 1993, Trung Quốc đã tiêu thụ trên 800.000 tấn xơ dệt, năm 2000 sử dụng hơn 1,8 triệu tấn xơ dệt để sản xuất vải kỹ thuật phục vụ mục đích kinh tế. Ở Việt Nam trong các nghành thuỷ lợi, Nông nghiệp, giao thông vận tải đã sử dụng khá nhiều vải kỹ thuật và một số loại sơ sợi dệt đặc biệt để sản xuất vải composite.
Qua đó, ta thấy rằng nhu cầu ngày càng tăng của các nước về sản phẩm dệt, đặc biệt là vải kỹ thuật, một sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao và luôn luôn cải tiến, đổi mới.
Ngoài ra, mặt hàng vải dệt kim, do có những đặc điểm riêng biệt, phù hợp với nhu cầu vệ sinh trong may mặc, nên sản phẩm này rất có cơ hội phát triển. Sản phẩm từ vải dệt kim thường phong phú: áo polo, t - shirt, quần áo lót nam, nữ, trẻ em, quần áo thể thao Chắc chắn rằng, trong nhiều thập kỷ tới đây, chưa thể có sản phẩm nào thay thế được vải dệt kim cho nhu cầu may mặc trên thế giới.
Khi khoa học công nghệ đã phát triển đạt đến trình độ cao, mọi thứ dường như được tạo ra bởi bàn tay con người một cách dễ dàng, thì loài người lại có xu hướng quay về với sản phẩm tự nhiên. Đối với các loại vải may mặc, chất liệu tơ tằm, sợi bông ngày càng được ưa chuộng. Điều đó có nghĩa là các nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên nếu được kết hợp với quy trình công nghệ cao để tạo ra các loại vải đẹp về màu sắc, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của người tiêu dùng hiện tại như không nhàu, bóng mịn, mềm mại, không bị sổ lông sẽ dễ đượcngười tiêu dùng chấp nhận dù có giá thành cao.
Nhìn chung trên thế giới hiện nay, các xu hướng thời trang thay đổi liên tục và nhanh chóng. Nhưng thời trang ngày càng trở nên thực dụng và đơn giản hơn. Ở Châu Âu, những người thực dụng và không theo mốt chiếm đa số (70 - 75%). Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới và đứng thứ 3 về nhập khẩu hàng dệt, nhưng người dân nước này ăn mặc rất đơn giản, các sản phẩm được ưa chuộng là áo puul, quần jean. Các nhà thiết kế cần nghiên cứu, tìm hiểu và lăng-xê những mẫu mốt đơn giản, thanh lịch và mang nét Á Đông để chinh phục người tiêu dùng trên thế giới.
4.2.4. Cải tiến và hạ giá thành sản phẩm:
Một vấn đề đơn giản khác mà ai cũng biết nhưng để thực hiện lại vô cùng phức tạp, đó là hạ giá thành sản phẩm. Chúng ta có lợi thế về nguồn lao động rẻ, song lại có khá nhiều nhược điểm làm cho tính cạnh tranh của hàng may mặc còn yếu kém trên thị trường quốc tế. Có thể liệt kê những nhược điểm này để tìm biện pháp khắc phục: chưa thiết lập được hệ thống sản xuất phân đoạn, thiếu mẫu sản xuất, cắt phiếu chính xác, nhiều công đoạn thừa, tốc độ may thấp, quản lý lao động chưa chặt chẽ Nếu khắc phục được các điểm yếu trên cộng với sự kết hợp hài hoà các yếu tố nguyên vật liệu, kỹ thuật, công nghệ, các doanh nghiệp sản xuất được những sản phẩm với giá thành hạ, sức cạnh tranh sẽ tăng.
4.2.5. Lấy thị trường trong nước làm cơ sở phát triển ra nước ngoài:
Sẽ rất thiếu sót nếu không nghiên cứu đến biến động của thị trường nội địa. Dệt may Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn khi phải cạnh tranh với nhiều “đối thủ” ngay cả trong nước khi đã trở thành thành viên AFTA. Thị trường nội địa không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp trong nước, sẽ bị áp đảo trong khi trình độ khoa học công nghệ của ta nói chung còn lạc hậu so với các nước trong khu vực.
Vào năm 2010, với số dân khoảng 90 triệu vào năm 2010, thị trường trong nước sẽ có tiềm năng tiêu thụ rất lớn vì khi đó đời sống được nâng cao,. Thị trường nội đại này là một môi trường thuận lợi cho ngành dệt may phát triển. Theo ước tính sơ bộ, nếu GDP bình quân đầu người ở Việt Nam vào năm 2005 đạt 600 – 800 USD thì mứuc tiêu dùng hàng hoá tính theo đầu người sẽ là 250 –300 USD và 900 – 1200 USD vào năm 2010 thì sẽ là 400 –
450 USD. Mức tiêu dùng cho may mặc hiện trung bình chiếm khoảng 6 - 8%
tổng thu nhập
Có thể nói, thị trường Việt Nam đang được coi là một trong những thị trường hấp dẫn của vùng Đông Nam Á. Do đó, cần nghiên cứu thị hiếu, mức tiêu dùng để tổ chức sản xuất cho phù hợp, đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Hình thành và tổ chức các mạng lưới tiêu thụ tại các tỉnh, thành phố tới vùng nông thôn Bố trí các hình thức siêu thị, cửa hàng, đại lý cho phù hợp với từng vùng, từng đối tượng.
4.2.6. Tích cực, chủ động tìm nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất:
Tìm giải pháp để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một vấn đề lớn và cấp thiết, có tính quyết định. Do nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, phải ưu tiên cho các công trình hạ tầng, y tế, giáo dục nên Tổng công ty Dệt may Việt Nam cần tập trung vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Đi đôi với đầu tư phát triển ngành may, từ nay đến năm 2005 cần chú trọng hơn nữa đầu tư phát triển nghành dệt. Đảm bảo đến năm 2010 là phải tạo ra sự cân bằng giữa hai nghành dệt và may, sản phẩm dệt phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, xuất khẩu của ngành may. Do vậy, kế hoạch của ngành là:
- Tự đầu tư (khoảng 850 triệu USD) băng nguồn vốn tự tích luỹ, khấu hao cơ bản, bán cổ phiếu cho dân, cho Việt Kiều, vay vốn tín dụng trong và ngoài nước, kể cả tranh thủ các nguồn vốn viện trợ ODA với lãi suất ưu đãi. Ưu tiên cho các công trình dệt với thời hạn vay vốn dài hơn từ 8 - 15 năm, cho các công trình may với thời hạn từ 5 - 7 năm. Từng dự án có tính đến khả năng hoàn trả vốn chắc chắn. Có sự khác nhau như vậy là do đầu tư mua máy móc, công nghệ ngành dệt đắt hơn rất nhiều so với ngành may. Thông thường, giá trị của một doanh nghiệp dệt vào khoảng 100 – 200 tỷ VND, gấp 10 đến
20 lần so với giá trị doanh nghiệp may.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp gồm các trường đào tạo, viện nghiên cứu, trung tâm thời trang xin được sử dụng các nguồn vốn viện trợ, phát triển khoa học Giải quyết tình trạng yếu kém của các cơ sở vật chất trên.
- Các nhà máy nhuộm được xây dựng từ lâu, chưa có hệ thống sử lý nước thải làm ô nhiễm môi trường, cũng cần được sử dụng nguồn tài trợ của Chính phủ hoặc các nguồn vốn khác để cải thiện môi trường.
- Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp để lấy vốn tiếp tục đầu tư. Huy động các nguồn vốn liên doanh, liên kết. Thu hút vốn trong cán bộ công nhân viên chức, kể cả trong nhân dân bằng trái phiếu công trình.
- Triển khai các quy định của Chính phủ để giải đáp các thắc mắc về chế độ chính sách, phương pháp hạch toán, tự chịu trách nhiệm công khai quyết toán quy định về báo cáo với một hệ thống số liệu chính xác, thực tế và thống nhất.
4.2.7. Quản lý, nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật:
- Quan trọng nhất là ngành dệt: thực trạng hiện nay về kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp dệt may, nhất là các doanh nghiệp dệt ở trong tình trạng phổ biến là lạc hậu, thời gian sử dụng quá lâu, thiết bị côngnghệ qua cả thời kỳ khấu hao, phương thức sản xuất kinh doanh chậm được đổi mới hoặc không đồng bộ. Điều đó dẫn đến tình trạng sản phẩm thiếu sức cạnh tranh trên thị trường, quá trình đa dạng hóa sản phẩm gặp nhiều khó khăn, chất lượng sản phẩm không cao, chi phí sản xuất cao. Cần tích cực nghiên cứu các biện pháp thay thế dần dần các thiết bị cũ cho phù hợp với nhu cầu hiện đại hoá, tăng năng suất và tiết kiệm.
- Chúng ta cần am hiểu rõ về phương pháp áp dụng khoa học nguyên liệu, vật liệu mới, công nghệ và thiết bị tiên tiến mà thế giới đã có như: tận dụng phế liệu trong lĩnh vực vải dệt, tận dụng phế liệu tơ, kéo sợi Spullsilk, đẩy mạnh công suất kéo sợi OE cho các mặt hàng dệt thoi, dệt kim thích hợp. Từ đó, nâng tỷ trọng mặt hàng sử dụng nguyên liệu mới như vải kỹ thuật, vải sử dụng trong nội thất, vải không dệt và microfiber cho vải jacket, tissu giả
len, vải giả da, tơ tằm, sợi lycra, spandex Xây dựng công nghệ xử lý cao cấp bằng cơ học, hóa học.
Để có mặt hàng may cao cấp như veston, complet, sơ mi cao cấp, ngành dệt cần có định hướng sử dụng nguồn nguyên liệu bông. Vì đây là loại nguyên liệu có số lượng giới hạn. Chú trọng nâng cao tỷ lệ sử dụng sợi tơ tổng hợp từ nguồn nguyên liệu trên thế giới hiện tại và tương lai.
- Do còn nhiều bỡ ngỡ về thiết kế, tạo mẫu mốt, yêu cầu thị hiếu nên cần có chính sách đầu tư thích đáng cho các cơ sở tạo mốt. Nâng cao nghiệp vụ thiết kế, sử dụng các thiết bị chuyên dùng. Trên thực tế, hiện nay, đã có một vài công ty như May 10, May 4, May Việt Tiến đã đưa CAD – CAM vào sử dụng cho công nghiệp may mặc. CAD – CAM là chữ viết tắt của computer added design - computer added manufacturing (máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất). Công nghệ đó có thể thực hiện được nhiều chức năng như vẽ phác thảo, mô tả chất liệu vải, tạo ra bảng vẽ kỹ thuật đầy đủ, thiết kế thẳng lên người thật, trưng bày hàng Các thiết bị hiện đại này bước đầu đã và sẽ trợ giúp rất đắc lực cho việc thiết kế và sản xuất của ngành.
- Về quản lý chất lượng sản phẩm, để hoàn thành mục tiêu sản xuất các mặt hàng có chất lượng, mẫu mã phong phú, đẹp, hợp thời trang, giá thành hạ, thì cần tăng dần vải dệt cung cấp cho ngành may với mục tiêu đạt 70% vào năm 2010. Các doanh nghiệp dệt may phải có hướng đi vào thực hiện hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO9000 – giấy thông hành để hội nhập vào thị trường quốc tế. Để thực hiện, cần có chương trình hành động tích cựu của cơ quan cấp trên và sự thông suốt của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Nó đòi hỏi công sức, trí tuệ, thời gian đầu tư đổi mới mạnh mẽ và quan tâm của lãnh đạo từng doanh nghiệp mới có thể đạt được thành công.
- Môi trường trong công nghiệp nhuộm phải được quan tâm, không nên dùng các hóa chất có tác nhân độc hại. Xây dựng các hệ thống xử lý nước
thải, tiếng ồn, bụi, khói từng bước được hoàn thành trong khoảng từ nay
đến 2005.
4.2.8. Cải tiến mẫu mã sản phẩm:
Tại các thị trường xuất khẩu, ta phải chụi sức ép cạnh tranh, nên các sản phẩm muốn đứng vững đòi hỏi phải có chất lượng cao, giá rẻ, mẫu mã đa dạng phong phú và hợp thời trang. Đồng thời, phải thoả mãn các yêu cầu về tâm sinh lý, tính tiện lợi dễ sử dụng, dễ bảo quản và không nhầm lẫn với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Điều đó, yêu cầu bản thân doanh nghiệp phải quan tâm hơn tới sản phẩm. Cần hoàn thiện các yếu tố cấu thành sản phẩm, trong đó đối với Tổng công ty cần đặc biệt quan tâm đến hai yếu tố là mẫu mốt thời trang và nhãn mác sản phẩm.
Đối với những nước công nghiệp phát triển, nhân dân có mức sống cao thì 90% nhu cầu về quần áo đòi hỏi có chất lượng cao, hợp thời trang. Đây là đòi hỏi mang tính tất yếu và có xu thế ngày càng cao, tỷ lệ thuận với mức sống của người dân. Điều này buộc các công ty phải có chính sách quan tâm đúng mức đến yếu tố thời trang của sản phẩm của mình. Song, khi thực lực còn chưa đáp ứng được thì có thể áp dụng một số giải pháp có tính chất tình thế như:
- Tranh thủ và triển khai mẫu mốt của người đặt hàng: giải pháp này rất thích hợp với doanh nghiệp mới bắt đầu đi vào giai đoạn triển khai sản xuất nhưng có nhược điểm là phụ thuộc, không phát huy được quyền tự chủ của mình và hiệu quả thường rất thấp.
- Tạo mẫu trên cơ sở nghiên cứu, cải tiến mẫu mốt thời trang của các trung tâm thời trang và của các đối thủ cạnh tranh: kinh nghiệm từ các nước công nghiệp mới của Châu Á (NICs), nơi có ngành may rất phát triển (hiện chiếm tới 30% thị trường thế giới) cho thấy họ sử dụng rất sáng tạo và thành công giải pháp này. Muốn vậy, chúng ta phải xây dựng được mối quan hệ
rộng rãi và chặt chẽ với các trung tâm thời trang trên thế giới. Qua đó, đào tạo được đội ngũ chuyên gia lành nghề, chuyên môn cao và có khả năng cải tiến mẫu mốt.
Về lâu dài, phải xây dựng cơ sở nền móng cho công nghệ thời trang trên cơ sở củng cố và phát triển Viện mốt thời trang. Viện mốt thời trang cần thực hiện nhiệm vụ tăng cường xử lý thông tin, hướng thị hiếu của xã hội vào các sản phẩm trong nước. Kích thích sự phát triển của ngành với định hướng thời trang kết hợp hài hoà giữa bản sắc dân tộc với phong cách thế giới.
Bên cạnh việc sản phẩm yêu cầu có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, còn phải chú ý tới yếu tố nhãn mác. Nhãn mác của sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng, nó là cơ sở để phân biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Một chính sách nhãn mác thương hiệu phù hợp rất có thể kích thích tiêu dùng và nâng vị trí doanh nghiệp trên thương trường. Hiện nay, thực tế cho thấy sản phẩm thuộc doanh nghiệp nào thì mang tên doanh nghiệp đó, nên ngành dệt may cần phải tạo ra một nhãn hiệu hàng hóa mang đặc tính chung của của hàng Việt Nam, nhất là trên các khu vực mà Tổng công ty tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Ngoài một số giải pháp đã nêu trên, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt tối đa các nguồn nội lực hiện có về đất đai, địa thế, lao động, thiết bịcoi trọng giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, thu nhập cho người lao động.
Hy vọng qua những phân tích và ý kiến đóng góp trên có tính tham khảo trên, ngành dệt may Việt Nam sẽ thực sự đạt được mục tiêu tăng tốc như kế hoạch đã đề ra, đưa Việt Nam lên ngang tầm các quốc gia trong khu vực.
HẾT
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I: Tình hình sản xuất và tiêu dùng hàng dệt may trên thế giới. 3
1. Giới thiệu chung lịch sử phát triển ngành dệt may trên thế giới 3
1.1. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai 3
1.2. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1997 3
1.3. Giai đoạn sau năm 1997 5
2. Vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế 5
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới 7
3.1. Trung Quốc 7
3.1.1. Về sản xuất 7
3.1.2. Về xuất khẩu 7
3.2. Thái Lan 8
3.2.1. Về sản xuất 8
3.2.2. Về xuất khẩu 8
3.3. Inđônêxia 10
3.3.1. Về sản xuất 10
3.3.2. Về xuất khẩu 10
3.4. Các nước khác 12
4. Nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may trên thế giới 12
Chương II: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng
dệt may ở Việt Nam 16
1. Lịch sử phát triển ngành dệt may Việt Nam 16
1.1. Giai đoạn trước năm 1986 16
1.2. Giai đoạn từ 1986 – 1997 18
1.2.1. Tình hình kinh tế trong nước 18
1.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh chung của ngành dệt may 18
1.2.2.1. Cơ cấu tổ chức của VINATEX 20
1.2.2.2. Sản xuất kinh doanh 20
1.3. Giai đoạn từ 1997 tới nay 23
2. Tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 26
2.1. Tình hình sản xuất 26
2.2. Tình hình xuất khẩu 27
3. Một số thị trường trọng điểm của dệt may Việt nam 29
3.1. Thị trường Đông Âu 30
3.1.1. Đặc điểm thị trường 30
3.1.2. Nhu cầu tiêu thụ 30
3.1.3. Tình hình xuất nhập khẩu 31
3.2. Thị trường EU 31
3.2.1 Đặc điểm thị trường 31
3.2.2. Nhu cầu tiêu thụ 32
3.2.3. Tình hình xuất nhập khẩu 33
3.3. Thị trường Nhật Bản 35
3.3.1. Đặc điểm thị trường 35
3.2.2.
Nhu cầu tiêu thụ
36
3.2.3.
Tình hình xuất nhập khẩu
37
3.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ 38
3.3.1.
Đặc điểm thị trường
38
3.3.2.
Nhu cầu tiêu thụ
39
3.3.3.
Tình hình xuất nhập khẩu
40
3.4. Thị trường ASEAN 42
3.4.1. Đặc điểm thị trường 42
3.4.2. Tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu 43
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam 45
1. Đánh giá tình hình kinh doanh xuất khẩu trong thời gian qua 45
1.1. Thành công 45
1.1.1. Về kinh tế 45
1.1.2. Về xã hội 46
1.1.2. Thành công về công nghệ 46
1.1.4. Thành công về kinh tế đối ngoại 46
1.2. Tồn tại 47
1.2.1. Đó là sự phát triển yếu kém của ngành dệt 47
1.2.2. Về phụ liệu 47
1.2.3. Về phương thức kinh doanh 47
2. Những thuận lợi và khó khăn trong thời gian tới 48
2.1. Thuận lợi 48
2.1.1. Thuận lợi khách quan 48
2.1.2. Thuận lợi mang tính chủ quan
48
2.1.3. Thuận lợi về công nghệ
49
2.2. Khó khăn
49
2.2.1. Khó khăn trong nước
49
2.2.2. Khó khăn khách quan
50
3.
Phương hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam
50
4.
Giải pháp
52
4.1. Giải pháp vĩ mô
52
4.1.1. Hoàn thiện chính sách đầu tư
52
4.1.2. Chính sách ưu đãi về xuất khẩu
53
4.1.3. Chính sách về vốn
53
4.1.4. Chính sách tiêu thụ nội địa
53
4.2. Giải pháp vi mô
54
4.2.1. Giải pháp cho hoạt động Marketing
54
4.2.2. Cải tiến phương thức xâm nhập thị trường,
phân phối sản phẩm
55
4.2.3. Nắm bắt nhu cầu, xu thế thị trường
để có phương án phù hợp
56
4.2.4. Cải tiến và hạ giá thành sản phẩm
58
4.2.5. Lấy thị trường trong nước làm cơ sở
phát triển ra nước ngoài
58
4.2.6. Tích cực, chủ động tìm nguồn vốn
đầu tư mở rộng sản xuất
59
4.2.7. Quản lý, nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
60
4.2.8. Cải tiến mẫu mã sản phẩm 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công nghiệp dệt may khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Tác giả: Trần Quang Sửng, Nguyễn Nhã, Nguyễn Văn Ký, Nguyễn Văn Thông)
2. Các báo cáo của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam (VINATEX)
3. Tài liệu của Hiệp hội Dệt may Châu Á - Thái Bình Dương (AFTEX)
4. Tài liệu của Bộ Thương mại.
5. Thời báo kinh tế Việt Nam
6. Tài liệu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
7. Tổng hợp tài liệu trên tạp chí điện tử www.vn.express.net
8. Tổng hợp tài liệu trên tạp chí điện tử www.vietin.com
9. Tổng hợp tài liệu trên tạp chí điện tử www.laodong.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8357.doc