Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và nồng độ diệt
khuẩn tối thiểu (MBC) của cao chiết chùm ngây
đối với vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trên tôm
Nồng độ ức chế tối thiểu trong 3 bộ phận của
chùm ngây lên vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus thì
cao chiết từ hạt chùm ngây (5 mg/mL) thấp hơn cao
chiết từ hoa chùm ngây (10 mg/mL) và từ lá chùm
ngây (20 mg/mL). Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu của
cao chiết hạt chùm ngây, cao chiết hoa chùm ngây
và cao chiết lá chùm ngây lần lượt là 10 mg/mL,
20 mg/mL và 40 mg/mL. Đối với vi khuẩn Vibrio
vulnificus nồng đồ ức chế tối thiểu của cao chiết hạt,
hoa và lá là 2,5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; nồng
độ diệt khuẩn của cao chiết hạt, hoa và lá chùm ngây
là 5 mg/mL, 40 mg/mL, 20 mg/mL. Nghiên cứu này
phù hợp với nghiên cứu của Nkya và cộng tác viên
(2014) cho thấy giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC)
của chiết xuất hạt chùm ngây thấp hơn so với chiết
xuất lá, rễ và thân cây. Nghiên cứu của Brilhante và
cộng tác viên (2015) cho thấy chiết xuất từ lá, hoa
và hạt không ức chế được vi khuẩn Vibrio vulnificus
nhưng chiết xuất từ vỏ quả chùm ngây MIC là
5 mg/mL. Tuy nhiên chiết xuất hạt, hoa và lá chùm
ngây ức chế vi khuẩn Vibrio cholerae, Vibrio mimicus
có nồng độ MIC từ 0,312 - 5 mg/mL. Hoạt tính
kháng khuẩn phụ thuộc vào nồng độ hoạt chất trong
chiết xuất. Ngoài ra, giá trị MIC của hạt chùm ngây
đối với một số loài vi khuẩn từ 22,2 - 28 mg/mL và
một số loài nấm từ 26 - 1073,35 mg/mL. Nồng độ
ức chế tối thiểu tùy thuộc vào các loài vi khuẩn và
nấm khác nhau, các hoạt chất trong hạt chùm ngây
tác động lên thành tế bào, hệ thống emzyme có thể
tiêu diệt được vi khuẩn và nấm gây bệnh (Jabeen
et al., 2008). Nghiên cứu của Rahman và cộng tác
viên (2009) cho thấy với chiết xuất lá chùm ngây tươi
bằng ethanol có khả năng kháng lại vi khuẩn Gram
âm và Gram dương với giá trị MIC từ 458 - 916 µg/mL,
tuy nhiên với chiết xuất lá chùm ngây khô bằng
ethanol không kháng vi khuẩn trong nghiên cứu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết chùm ngây kháng vi khuẩn vibrio spp gây bệnh trên tôm thẻ chân trắng trong điều kiện in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
main season and 75.08 tons/ha/year in off season in KMPFC while in KMPOC the highest productivity was at the
fourth year, reaching 19.29 tons/ha/year in main season and the productivity in off season was 26.18 tons/ha/year at
the third year.
Keywords: King mandarin tree, King mandarin planting in field, King mandarin planting in orchard, production
situation
Ngày nhận bài: 27/4/2020
Ngày phản biện: 12/5/2020
Người phản biện: TS. Võ Hữu Thoại
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Khoa Nông nghiệp - Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh
HOẠT TÍNH KHÁNG KHUẨN CỦA CAO CHIẾT CHÙM NGÂY KHÁNG VI KHUẨN Vibrio spp.
GÂY BỆNH TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO
Nguyễn Thị Hồng Nhi1
TÓM TẮT
Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây kháng vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh được thử
nghiệm trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Hoạt tính kháng khuẩn, nồng độ ức chế tối thiểu (MIC),
nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC) của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây được thử nghiệm trên hai chủng vi
khuẩn gây bệnh cho tôm nuôi (Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus). Kết quả cho thấy hoạt tính kháng
khuẩn Vibrio parahaemolyticus với đường kính vòng kháng khuẩn của cao chiết từ hạt chùm ngây 20,7 mm, cao
chiết từ hoa chùm ngây 17,3 mm và cao chiết từ lá chùm ngây lá 15,3 mm. Hoạt tính kháng vi khuẩn Vibrio vulnificus
của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây lần lượt là 22,33 mm, 14,67 mm và 18,33 mm. Đối với vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây có giá trị MIC là 5 mg/mL, 10 mg/mL, 20 mg/mL; MBC là
10 mg/mL, 20 mg/mL, 40 mg/mL. Kết quả cũng xác định hiệu quả đối với vi khuẩn Vibrio vulnificus giá trị MIC
của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây là 2,5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; giá trị MBC tương ứng là 5 mg/mL,
40 mg/mL, 20 mg/mL. Kết quả nghiên cứu khẳng định hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ hạt chùm ngây trên
vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus mạnh hơn so với cao chiết từ hoa và lá chùm ngây.
Từ khóa: Cao chiết chùm ngây, hoạt tính kháng khuẩn, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio vulnificus
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong ngành nuôi tôm hiện nay, các bệnh truyền
nhiễm do các loài vi khuẩn Vibrio spp. gây ra thiệt
hại đáng kể về kinh tế và là những thách thức lớn
đối với nghề nuôi tôm của nước ta. Vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus, Vibrio vulnificus, Vibrio mimicus,
Vibrio cholerae là những loài vi khuẩn gây hại chính
cho tôm nuôi trong điều kiện môi trường nuôi thiếu
sự kiểm soát chặt chẽ (Brilhante et al., 2015). Hiện
nay, các biện pháp ngăn chặn sự phát triển của vi
khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trên tôm thường là sử
dụng hóa chất, kháng sinh hay áp dụng các biện
pháp sinh học. Việc sử dụng thuốc kháng sinh trong
điều trị các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra
đã dẫn đến sự phát triển của nhiều chủng Vibrio spp.
kháng thuốc. Để hạn chế tình trạng kháng thuốc của
các chủng vi khuẩn, hiện nay có rất nhiều nghiên
cứu sử dụng thảo dược nhằm ức chế sự phát triển
của vi khuẩn, tăng cường miễn dịch giúp tôm cá
tăng trưởng tốt (Brilhante et al., 2015; Dotta et al.,
2014; Kaleoa et al., 2019).
Ở nhiều nước trên thế giới có nhiều công trình
nghiên cứu sử dụng chiết xuất từ các loại cây khác
nhau để điều trị vi khuẩn gây bệnh (Snoussi et al,
2016; Sayeed et al, 2012; Dotta et al., 2014). Các hoạt
chất có trong thực vật có khả năng kháng khuẩn và
chống oxy hóa. Hoạt động kháng khuẩn của một số
chất có trong thực vật cũng như xác định việc sử
dụng các chất chiết xuất thu được từ cây thuốc là
rất quan trọng (Nair and Chanda, 2006). Chùm ngây
được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh gây ra do vi
khuẩn, nấm, khả năng chống viêm, suy dinh dưỡng.
Tác giả Rahman và cộng tác viên (2009) đã phát hiện
trong chùm ngây có các chất chống oxy hoá tự nhiên
như ascorbic acid, flavonoid, phenol và carotenoid.
Thêm vào đó, tác giả Fahey (2005) cũng cho thấy
một số bộ phận lá, hoa, hạt của chùm ngây có nhiều
hoạt chất kháng khuẩn và nấm. Nếu sử dụng các bộ
phận của cây chùm ngây trong điều trị bệnh nhiễm
khuẩn sẽ có nhiều ưu điểm như rẻ tiền, hiệu quả
phòng bệnh cao, không ảnh hưởng đến đối tượng
nuôi và môi trường sinh thái tạo ra các sản phẩm đạt
78
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và thân thiện
với môi trường.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Nguồn thảo dược
Lá, hoa và hạt chùm ngây thu hái về được rửa
sạch, để ráo nước, xay nhuyễn và ngâm trong ethanol
950 với tỷ lệ 1 : 4 (100 g lá chùm ngây ngâm trong
400 ml ethanol 950), ngâm trong 7 ngày. Sử dụng lưới
lọc dung dịch ngâm, sau đó phần dịch lọc được sấy
ở nhiệt độ 40 0C thu được cao chiết chùm ngây và
được bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4 0C để kiểm
tra hoạt tính kháng khuẩn (Rahman et al., 2009) và
bổ sung vào thức ăn cho tôm thẻ chân trắng.
2.1.2. Nguồn vi khuẩn
Tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu bệnh lý được thu
từ ao nuôi tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh và
phân lập, định danh theo phương pháp của Cowan
and Steels (Barrow and Felthham, 1993) kết hợp
với sử dụng bộ KIT API 20E (BioMerieux, Pháp).
Phân lập và định danh 2 chủng vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus và Vibrio vulnificus được sử dụng
cho nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp xác định hoạt tính kháng khuẩn
bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch
Chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và
Vibrio vulnificus được phục hồi và nuôi tăng sinh
trong môi trường TSB có bổ sung 1,5% NaCl. Mật
độ vi khuẩn 108 CFU/mL được xác định bằng máy
so màu quang phổ ở buớc sóng 610 nm kết hợp với
phương pháp đếm số khuẩn lạc trên môi truờng
thạch (CFU/mL). Hút 100 µl dung dịch huyền phù vi
khuẩn nhỏ vào giữa đĩa thạch TSA có bổ sung 1,5%
NaCl, cho 100 µL cao chiết chùm ngây vào lỗ thạch
(1 g cao chiết pha 10 mL trong dimethyl sulfoxide
(DMSO)) và 1 lỗ đối chứng cho vào 100 µL DMSO,
thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Đĩa thạch được đặt
trong tủ ấm 37oC trong 24 giờ, đọc kết quả bằng cách
đo đường kính vòng vô khuẩn.
2.2.2. Nồng độ ức chế tối thiểu (minimum inhibitory
concentration - MIC)
Chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và và
Vibrio vulnificus được nuôi tăng sinh trong môi
truờng TSB có bổ sung 1,5% NaCl trong 24 giờ. Mật
độ vi khuẩn thí nghiệm là 2 ˟ 106 (CFU/mL). Cao
chiết chùm ngây được pha loãng trong dimethyl
sulfoxide (DMSO) với nồng độ 0,3125 mg/mL,
0,625 mg/mL, 1,25 mg/mL, 2,5 mg/mL, 5 mg/mL,
10 mg/mL, 20 mg/mL, 40 mg/mLMỗi nồng độ
chùm ngây được lặp lại 3 lần. Sau 24 giờ đọc và ghi
nhận kết quả.
2.2.3. Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (minimum
bactericial concentration - MBC)
Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu của cao chiết chùm
ngây từ hạt, hoa, lá được kiểm tra bằng phương pháp
đếm trên đĩa thạch TCBS. MBC là nồng độ cao chiết
lá chùm ngây thấp nhất trong môi trường không có
vi khuẩn phát triển.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
Phân tích ANOVA để tìm sự khác biệt ở mức ý nghĩa
p < 0,05.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3 đến
tháng 8 năm 2019 tại Khoa Nông nghiệp - Thủy sản,
Trường Đại học Trà Vinh.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết chùm
ngây đối với vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trên tôm
Hiệu suất cao chiết chùm ngây thu được từ hạt,
hoa và lá lần lượt là 16,2%, 13,7% và 15,5%.
Bảng 1. Hiệu suất chiết xuất của cao chiết chùm ngây
Chùm
ngây
Khối lượng
chùm ngây (g)
Khối lượng
chiết xuất (g)
Hiệu suất
(%)
Hạt 100 16,2 16,2
Hoa 100 13,7 13,7
Lá 100 15,5 15,5
Những bộ phận khác nhau trong chùm ngây cho
kết quả khối lượng chiết xuất và hiệu suất khác nhau.
Phương pháp chiết xuất và dung môi khác nhau cho
hiệu suất chiết xuất thu được khác nhau (Dongmeza
et al., 2006). Chiết xuất chùm ngây bằng dung môi
ethanol cho hoạt tính kháng khuẩn cao, trong khi
đó dung môi n-hexan, diclometan, etyl axetat không
thể hiện hoạt tính kháng khuẩn (Võ Thị Diệu, 2016).
Hoạt tính kháng khuẩn Gram âm và Gram dương
mạnh nhất đối với chiết xuất chùm ngây bằng
ethanol, tuy nhiên hoạt tính kháng khuẩn thấp nhất
khi chiết xuất chùm ngây bằng nước (Doughari
et al., 2007).
79
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 2. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết chùm ngây
đối với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus
Cao chiết chùm ngây
Đường kính vòng kháng khuẩn (mm)
Hạt Hoa Lá
Vibrio parahaemolyticus 20,7 ± 0,58c 17,3 ± 0,58b 15,3 ± 0,57a
Vibrio vulnificus 23,33 ± 0,58c 14,67 ± 0,58a 18,33 ± 0.58b
Ghi chú: Các giá trị trong bảng là trung bình và độ lệch chuẩn, các giá trị trong cùng một hàng có các ký tự khác
nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Hoạt tính kháng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus
với đường kính vòng kháng khuẩn của cao chiết hạt
chùm ngây là 20,7 ± 0,58 mm, cao chiết hoa chùm
ngây là 17,3 ± 0,58 mm và cao chiết lá chùm ngây
là 15,3 ± 0,57 mm. Kết quả trên cho thấy cao chiết
hạt chùm ngây có hoạt tính kháng khuẩn mạnh
hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so
với cao chiết hoa chùm ngây và cao chiết lá chùm
ngây. Hoạt tính kháng khuẩn Vibrio vulnificus của
cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây lần lượt là:
23,33 ± 0,58 mm, 14,67 ± 0,58 mm, 18,33 ± 0,58 mm.
Đối với vi khuẩn Vibrio vulnificus hoạt tính kháng
khuẩn của cao chiết hạt chùm ngây cho kết quả cao
hơn so với hoa và lá chùm ngây. Nghiên cứu này
cho kết quả kháng khuẩn của chùm ngây cao hơn
kết quả nghiên cứu của tác giả Hồng Mộng Huyền
và cộng tác viên (2018) khi sử dụng chùm ngây
kháng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus vòng kháng
khuẩn là 9 mm. Ngoài ra, hoạt tính kháng vi khuẩn
Vibrio parahaemolyticus ở cây thầu dầu là 17,5 mm,
lưỡi rắn là 7 mm, mật gấu 9,5 mm, lược vàng
7,5 mm, ô rô là 9 mm, sài đất là 8 mm. Hoạt tính
kháng khuẩn của chiết xuất từ lá, vỏ cây và rễ
chùm ngây cho kết quả vòng kháng khuẩn từ
10 - 15 mm đối với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus
(Dalukdeniya et al., 2016).
Theo nghiên cứu của Peixoto và cộng tác viên
(2011), chiết xuất lá chùm ngây với ethanol cho kết
quả kháng lại tất cả vi khuẩn gây bệnh trong thử
nghiệm, đối với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus
thể hiện vòng kháng khuẩn từ 13 - 15 mm. Chiết
xuất từ trái chùm ngây kháng lại một số loài vi
khuẩn và nấm, kết quả cho thấy trái chùm ngây có
khả năng kháng khuẩn và chống nấm. Chiết xuất từ
trái chùm ngây cho thấy một hoạt động kháng khuẩn
phổ rộng với vùng ức chế từ 0 đến 22 mm, trong đó
cao nhất trên vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa là
22 mm. Hoạt tính kháng nấm với vùng ức chế từ
8 đến 14 mm, trong đó nấm Colletotrichum sp là
14 mm (Sayeed et al., 2012).
Các hoạt chất thực vật chính thu được từ cây
chùm ngây bao gồm: tannin, saponin, alkaloid,
flavonoid, phenol và glycoside từ lá; tanin, steroid,
flavonoid, alkaloid glycoside, quercetin và terpenoid
từ hoa; axit gallic, catechin, epicatechin, axit
ferulic, vanillin, axit caffeic, axit protocatecuic,
axit cinnamic, phytosterol, quercetin, glycoside và
phenol từ hạt. Hoạt động ức chế vi khuẩn từ chiết
xuất lá, hoa và hạt của chùm ngây trên Gram dương
và vi khuẩn Gram âm. Trong chùm ngây có các hoạt
chất sinh học có tác dụng ức chế sự phát triển của vi
khuẩn bằng cách phá vỡ các cơ chế của màng và tổng
hợp enzyme của vi khuẩn (Brilhante et al., 2017).
3.2. Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và nồng độ diệt
khuẩn tối thiểu (MBC) của cao chiết chùm ngây
đối với vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trên tôm
Nồng độ ức chế tối thiểu trong 3 bộ phận của
chùm ngây lên vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus thì
cao chiết từ hạt chùm ngây (5 mg/mL) thấp hơn cao
chiết từ hoa chùm ngây (10 mg/mL) và từ lá chùm
ngây (20 mg/mL). Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu của
cao chiết hạt chùm ngây, cao chiết hoa chùm ngây
và cao chiết lá chùm ngây lần lượt là 10 mg/mL,
20 mg/mL và 40 mg/mL. Đối với vi khuẩn Vibrio
vulnificus nồng đồ ức chế tối thiểu của cao chiết hạt,
hoa và lá là 2,5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; nồng
độ diệt khuẩn của cao chiết hạt, hoa và lá chùm ngây
là 5 mg/mL, 40 mg/mL, 20 mg/mL. Nghiên cứu này
phù hợp với nghiên cứu của Nkya và cộng tác viên
(2014) cho thấy giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC)
của chiết xuất hạt chùm ngây thấp hơn so với chiết
xuất lá, rễ và thân cây. Nghiên cứu của Brilhante và
cộng tác viên (2015) cho thấy chiết xuất từ lá, hoa
và hạt không ức chế được vi khuẩn Vibrio vulnificus
nhưng chiết xuất từ vỏ quả chùm ngây MIC là
5 mg/mL. Tuy nhiên chiết xuất hạt, hoa và lá chùm
ngây ức chế vi khuẩn Vibrio cholerae, Vibrio mimicus
có nồng độ MIC từ 0,312 - 5 mg/mL. Hoạt tính
kháng khuẩn phụ thuộc vào nồng độ hoạt chất trong
chiết xuất. Ngoài ra, giá trị MIC của hạt chùm ngây
đối với một số loài vi khuẩn từ 22,2 - 28 mg/mL và
80
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
một số loài nấm từ 26 - 1073,35 mg/mL. Nồng độ
ức chế tối thiểu tùy thuộc vào các loài vi khuẩn và
nấm khác nhau, các hoạt chất trong hạt chùm ngây
tác động lên thành tế bào, hệ thống emzyme có thể
tiêu diệt được vi khuẩn và nấm gây bệnh (Jabeen
et al., 2008). Nghiên cứu của Rahman và cộng tác
viên (2009) cho thấy với chiết xuất lá chùm ngây tươi
bằng ethanol có khả năng kháng lại vi khuẩn Gram
âm và Gram dương với giá trị MIC từ 458 - 916 µg/mL,
tuy nhiên với chiết xuất lá chùm ngây khô bằng
ethanol không kháng vi khuẩn trong nghiên cứu.
Bảng 3. Nồng độ ức chế tối thiểu, nồng độ diệt khuẩn tối thiểu
của cao chiết chùm ngây đối với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus
Cao chiết chùm ngây
MIC (mg/mL) MBC (mg/mL)
MBC/MIC
Hạt Hoa Lá Hạt Hoa Lá
Vibrio parahaemolyticus 5 10 20 10 20 40 2
Vibrio vulnificus 2,5 20 10 5 40 20 2
Theo nghiên cứu của Cannillac và Mourey
(2001), nếu tỷ lệ MBC/MIC nhỏ hơn hoặc bằng 4
thì chiết xuất được xem là có khả năng diệt khuẩn,
tỷ lệ này nhỏ hơn 4 thì chiết xuất có tác dụng kìm
hãm vi khuẩn phát triển. Từ kết quả nghiên cứu cho
thấy cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây có khả
năng diệt được vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và
Vibrio vulnificus. Trong chùm ngây chứa các hoạt
chất như triterpenoid và alkaloid, phenolic, tannin,
phenol và saponin, tất cả các hoạt chất này đều có
hoạt tính kháng khuẩn (Nkya et al., 2014).
IV. KẾT LUẬN
Cao chiết từ hạt chùm ngây có hoạt tính kháng
khuẩn Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus
cao hơn cao chiết từ hoa và lá chùm ngây. Nồng
độ ức chế tối thiểu (MIC) trên vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus của cao chiết từ hạt, hoa và lá
chùm ngây 5 mg/mL, 10 mg/mL, 20 mg/mL; Nồng
độ diệt khuẩn (MBC) là 10 mg/mL, 20 mg/mL,
40 mg/mL. Đối với vi khuẩn Vibrio vulnificus giá
trị MIC của cao chiết hạt, hoa và lá chùm ngây,
2,5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; MBC là 5 mg/mL,
40 mg/mL, 20 mg/mL. Như vậy cao chiết từ hạt,
hoa và lá chùm ngây có khả năng diệt hai loại khuẩn
Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Võ Thị Diệu, 2016. Nghiên cứu chiết tách, xác định
thành phần hóa học trong một số dịch chiết của lá và
hạt cây chùm ngây. Luận văn cao học. Trường Đại
học Đà Nẵng.
Hồng Mộng Huyền, V.T. Huy, T.T.T. Hoa, 2018. Hoạt
tính kháng khuẩn của một số cao chiết thảo dược
kháng vi khuẩn gây bệnh trên tôm nuôi. Tạp chí
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, số chuyên đề
Thủy sản, (2): 1143-1150.
Barrow, G.I and R.K.A. Feltham, 1993. Cowan and
Steel’s manual for the identification of medical
bacteria. Cambridge university press: 331 pages.
Brilhante, R.S.N, J.A. Sales, C.M. de Souza Sampaio,
F.G. Barbosa, M. de A.N. Paiva, G.M.de Melo
Guedes, L.P. de Alencar, T. de Jesus P.G. Bandeira,
J.L.B.Moreira, Y.B. de Ponte, D. de S.C.M. Castelo-
Branco, W. de A. Pereira-Neto, R.de A. Cordeiro,
J.J.C. Sidrim, M. F.G. Rocha, 2015. Vibrio spp. from
Macrobrachium amazonicum prawn farming are
inhibited by Moringa oleifera extracts. Asian Pacific
Journal of Tropical Medicine, 8 (11): 919-922.
Brilhante, R.S.N, J.A. Sales, V.S. Pereira1, D. de S. C.
M. Castelo-Branco , R. de A. Cordeiro1 , C. M. de S.
Sampaio, M. de A. N. Paiva, J. B. F. dos Santos, J.J.C.
Sidrim, M. F. G. Rocha, 2017. Research advances on
the multiple uses of Moringa oleifera: A sustainable
alternative for socially neglected population. Asian
Pacific Journal of Tropical Medicine, 10 (7): 621-630.
Cannillac and Mourey, 2001. Antibacterial activity of the
essential oil of Picea excelsa on Listeria, Staphylococcus
aureus and coliform bacteria. Food Microbiology, 18
(3): 261-268.
Dalukdeniya D.A.C.K., K.L.S.R. De Silva and
R.M.U.S.K. Rathnayaka, 2016. Antimicrobial
activity of different extracts of leaves bark and roots
of Moringa oleifera (Lam). Int.J.Curr.Microbiol.
App.Sci, 5 (7): 687-691.
Dongmeza, E, P. Siddhuraju, G. Francis, K. Becker,
2006. Effects of dehydrated methanol extracts of
moringa (Moringa oleifera Lam.) leaves and three
of its fractions on growth performance and feed
nutrient assimilation in Nile tilapia (Oreochromis
niloticus L.). Aquaculture, Vol 216: 407-422.
Dotta, G., J.I Alves de Andrade, E.L. Tavares-
Gonçalves, A.J.J. Brum, A.A. Mattos, M.
Maraschin, M. Laterça-Martins, 2014. Leukocyte
81
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
phagocytosis and lysozyme activity in Nile tilapia fed
supplemented diet with natural extracts of propolis
and Aloe barbadensis. Fish Shellfish Immunol, 39:
280-284.
Doughari, JH., M.S Pukuma, N. De, 2007. Antibacterial
effects of Balanites aegyptiaca L. Drel. and Moringa
oleifera Lam. on Salmonella Typhi. Afr. J. Biotechnol.,
6 (19): 2212-2215.
Fahey, J.W, 2005. Moringa oleifera: A Review of the
Medical Evidence for Its Nutritional. The rapeutic,
and Prophylactic Properties . Part 1.
Jabeen, R, M. Shahid, A. Jamil, M. Ashraf, 2008.
Microscopic evaluation of the antimicrobial activity
of seed extracts of Moringa oleifera. Pak. J. Bot,
40 (4): 1349-1358.
Kaleoa, I.V , Q. Gaoc, B. Liua, C. Sunb, Q. Zhoub,
H. Zhanga, F. Shana, Z. Xionga, L.Boa, C. Song,
2019. Effects of Moringa oleifera leaf extract on
growth performance, physiological and immune
response, and related immune gene expression of
Macrobrachium rosenbergii with Vibrio anguillarum
and ammonia stress. Fish and Shellfish Immunology,
89: 603-613.
Nair, R, S. Chanda, 2006. Activity of some medicinal
plants against certain pathogenic bacterial strains.
Indian J. Pharmacol., 38 (2): 142-144.
Nkya, J.W, P. Erasto, M. Chacha, 2014.
Antimycobacterial and cytotoxicity activities of
Moringa oleifera Lam extracts. American Journal of
Research Communication, 2 (9): 108-120.
Peixoto J.R.O, G.C. Silva1, R. A. Costa, J.L.D.S,
Fontenelle, G.H.F. Vieira, A.A. F.Filho,
R.H.S.Fernandes Vieira, 2011. In vitro antibacterial
effect of aqueous and ethanolic Moringa leaf extracts.
Asian Pacific Journal of Tropical Medicine: Vol 4:
201-204.
Rahman, M.M., M.M.I. Sheikh, S.A. Sharmin, M.S.
Islam, M.A, Rahman, M.M. Rahman, M.F. Alam,
2009. Antibacterial activity of leaf juice and extracts
of Moringa oleifera Lam. against some human
pathogenic bacteria. CMU J. Nat. Sci., 8: 219-227.
Sayeed, M.A, M.S. Hossain, M.E.H. Chowdhury, M.
Haque, 2012. In vitro Antimicrobial Activity of
Methanolic Extract of Moringa oleifera Lam. Fruits.
Journal of Pharmacognosy and Phytochemistry: ISSN
2278-4136, Vol 1: 94-98.
Snoussi, M, A. Dehmani, E. Noumi, G. Flamini,
A. Papetti, 2016. Chemical composition and
antibiofilm activity of Petroselinum crispum and
Ocimum basilicum essential oils against Vibrio spp.
Strains. Microbial Pathogenesis: 90 1-21.
Antibacterial activity of Moringa extract against pathogenic bacteria Vibrio spp.
on white leg shrimp in in vitro culture
Nguyen Thi Hong Nhi
Abstract
Antibacterial activity of Moringa seeds extract, Moringa flowers extract and Moringa leafs extract to Vibrio spp.
causing disease were tested on whiteleg shrimp (Litopenaeus vannamei). Antimicrobial activity, minimum inhibitory
concentration (MIC), and minimum bactericidal concentration (MBC) of Moringa seeds extract, Moringa flowers
extract and Moringa leafs extract were screened for two common shrimp pathogens (Vibrio parahaemolyticus and
Vibrio vulnificus). The results showed that the inhibition zone diameter on V. parahaemolyticus from Moringa seed
extract was 20.7 mm; from Moringa flower extract was 17.3 mm, and from Moringa leaf extract was 15.3 mm. The
inhibition zone diameter on V. vulnificus from Moringa seed extract was 22.33 mm; from Moringa flower extract
was 14.67 mm, and from Moringa leaf extract was 18.33 mm. For Vibrio parahaemolyticus, Moringa seed extract,
Moringa flower extract and Moringa leaf extract had MIC values of 5 mg/mL, 10 mg/mL, 20 mg/mL; MBC was 10
mg/mL, 20 mg/mL, 40 mg/mL. The results also found that MIC value of Moringa seed extract, flower extract and leaf
extract on Vibrio vulnificus was 2.5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; MBC value was 5 mg/mL, 40 mg/mL, 20 mg/mL,
respectively. The antibacterial activity on V. parahaemolyticus and V. vulnificus of Moringa seed extract was higher
than Moringa flower extract and Moringa leaf extract.
Keywords: Antibacterial activity, Moringa extracts, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio vulnificus
Ngày nhận bài: 29/4/2020
Ngày phản biện: 9/5/2020
Người phản biện: TS. Đinh Văn Trung
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hoat_tinh_khang_khuan_cua_cao_chiet_chum_ngay_khang_vi_khuan.pdf