Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện
Trong vụ án này, Toà cho rằng:
Trong khoảng thời gian hơn 20 năm,
Harvard Industries đã cho phép Frank
Best, giám đốc bộ phận mua hàng, được
phép lựa chọn bên bán cho Harvard
Industries và xác lập giao dịch mua
bán với tư cách đại diện cho Harvard
Industries. Khi Gray thay thế cho Best,
không có ai thông báo cho Diversified
biết rằng Harvard Industries đã ban
hành các quy định mới về quy trình mua
hàng cũng như việc Giám đốc bộ phận
mua hàng của Harvard đã bị hạn chế
thẩm quyền trong việc thay mặt công
ty xác lập giao dịch mua hàng. Bởi vậy,
đối chiếu với hai điều kiện của đại diện
bề ngoài, quan hệ giữa Gray và Harvard
Industries đã cấu thành quan hệ đại diện
bề ngoài trong giao dịch với Diversified
và Gray hoàn toàn có đủ thẩm quyền để
xác lập thoả thuận với Diversified. Thoả
thuận này có giá trị ràng buộc Harvards
Industries. Và khi Kruske từ chối thực
hiện thoả thuận có nghĩa là Harvard
Industries đã vi phạm thoả thuận đó.
Từ vụ án trên, có thể thấy rằng việc
xem xét một quan hệ có cấu thành quan
hệ đại diện bề ngoài hay không là một câu
chuyện phức tạp, đòi hỏi các Thẩm phán
phải nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể
và phải dựa vào bản chất của quan hệ trên
cơ sở đối chiếu với hai điều kiện về đại
diện bề ngoài như đã nêu trên.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam có lẽ
mới chính thức thừa nhận đại diện rõ ràng
thông qua việc quy định 2 hình thức đại
diện là đại diện theo pháp luật và đại diện
theo uỷ quyền. Đối với đại diện ngầm
định, đại diện bề ngoài, pháp luật Việt
Nam chưa chính thức thừa nhận. Thiết
nghĩ, các nhà làm luật Việt Nam nên cân
nhắc để có thể thiết lập các quy định nhằm
hoàn thiện các quy định về đại diện trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ - Khái niệm và các hình thức đại diện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang với cấu trúc gồm 50 tiểu bang. Bởi vậy, hệ thống pháp luật của
Hoa Kỳ được cấu thành từ 2 hợp phần: hệ
thống pháp luật của liên bang và hệ thống
pháp luật của 50 tiểu bang.
Xét về nguồn luật nói chung, nguồn
luật chủ yếu ở Hoa Kỳ bao gồm:
- Hiến pháp của liên bang và của
từng bang;
- Án lệ;
- Các đạo luật thành văn;
- Các quy phạm do cơ quan hành
chính nhà nước ban hành;
- Các học thuyết pháp lý.
Ngoài những nguồn luật cơ bản nêu
trên, còn có nguồn luật thứ cấp thường
được các Thẩm phán sử dụng trong quá
trình giải quyết các vụ việc tại Toà, ví dụ
như các bài báo, các cuốn bách khoa thư
trong lĩnh vực luật
Về vấn đề đại diện, thực chất Hoa Kỳ
không có một đạo luật nào ở cấp độ liên
bang hay tiểu bang về vấn đề này. Toàn
bộ học thuyết, lý thuyết về vấn đề này
được khái quát, mô tả trong Bản phát biểu
số 3 về đại diện (“Restatement on Agency
3rd”). Bản phát biểu này đề cập đến hàng
loạt nội dung xoay quanh vấn đề đại diện
như khái niệm đại diện; các hình thức đại
diện; xác lập và chấm dứt quan hệ đại diện;
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ
CÁC HÌNH THỨC ĐẠI DIỆN
PHẠM THỊ TRANG*
* Thạc sĩ, Trưởng khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội
Đại diện luôn đóng vai trò là một chế định quan trọng trong pháp luật dân
sự của bất kỳ quốc gia nào. Các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ
(Common Law) đã có những bước tiến dài trong việc phát triển và hoàn thiện học
thuyết về đại diện. Bài viết tập trung giới thiệu hai vấn đề quan trọng liên quan
đến học thuyết về đại diện của Hoa Kỳ là khái niệm đại diện và các hình thức đại
diện, như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về chế định này ở Việt Nam.
Từ khoá: Đại diện, uỷ thác, đại diện rõ ràng, đại diện ngầm định, đại diện bề
ngoài, đại diện thông qua phê chuẩn.
Ngày nhận bài: 21/4/2020; Ngày biên tập xong: 22/4/2020; Ngày duyệt đăng:
22/4/2020.
Agency always acts as a very important issue in the field of civil law. It
seems that countries belong to common legal tradition have made great strides
in developing and perfecting the agency theory. This article introduces the
United States theory on the concept and forms of agency as referenced material
for anybody who takes the study on agency.
Keywords: Agency, fiduciary, actual authority, implied authority, apparent
authority, authority by approval.
64
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
đại diện cho nhiều người; quyền và nghĩa
vụ của bên được đại diện, bên đại diện và
bên thứ ba. Đây là một tài liệu do các luật
sư, học giả và Thẩm phán của Viện luật
Hoa Kỳ tổng hợp từ các quan điểm, cách
lý giải của các Thẩm phán về vấn đề đại
diện trong quá trình giải quyết các vụ án
và được xuất bản năm 2006. Chính vì vậy,
tuy không phải là án lệ nhưng do được
tập hợp từ các quan điểm của Thẩm phán
đã lý giải để đưa ra phán quyết của mình
trong quá trình giải quyết các vụ án nên
các nội dung của Bản phát biểu này có giá
trị như là những khuôn mẫu để các Thẩm
phán khác áp dụng khi gặp các vụ án có
liên quan đến vấn đề đại diện.
1. Khái niệm đại diện
Khái niệm đại diện được quy định
tại khoản 1(1) của Bản phát biểu số 3 về
đại diện như sau: “một quan hệ uỷ thác
(fiduciary) là kết quả từ sự đồng ý của một
người cho phép người khác thay mặt mình,
kiểm soát người khác hành động thay mình và
người khác cũng đồng ý hành động như vậy”1.
Với định nghĩa này, có thể thấy rằng
một quan hệ được coi là quan hệ đại diện
nếu quan hệ đó thoả mãn 3 điều kiện sau:
Một là, có sự đồng ý của người đại diện
và người được đại diện
Đây là điều kiện đầu tiên để xác lập
quan hệ đại diện. Theo đó, để xác lập
quan hệ đại diện, buộc phải có sự đồng
ý của người được đại diện và người đại
1 Nguyên bản tiếng Anh “the fiduciary relation
[that] results from the manifestation of consent by
one person to another that the other shall act in his
[or her] behalf and subject to his [or her] control,
and consent by the other so to act” quy định tại §
1.01 của Restatement on agency 3rd
diện, cụ thể: (1) người được đại diện phải
bày tỏ sự đồng ý để người đại diện thay
mặt mình hành động và kiểm soát hành
động của người đại diện; và (2) người đại
diện cũng phải đồng ý với người được đại
diện về hai nội dung đó.
Sự đồng ý của các bên trong quan hệ
đại diện phải được thể hiện bằng văn bản,
lời nói hoặc có thể được hiểu ngầm định
từ hành động của các bên trong quan hệ
đại diện.2
Hai là, người đại diện sẽ thay mặt người
được đại diện
Trong quan hệ đại diện, người đại
diện sẽ thay mặt người được đại diện.
Việc thay mặt này được hiểu là người đại
diện sẽ hành động với tư cách của người
được đại diện, vì lợi ích của người được
đại diện chứ không phải vì lợi ích của
chính người đại diện hay của một bên thứ
ba nào khác. Nếu trong phạm vi đại diện,
người đại diện xác lập giao dịch với một
bên thứ ba thì giao dịch đó được coi là
giữa người được đại diện và bên thứ ba.
Ba là, người được đại diện sẽ kiểm soát
hành động của người đại diện
Người đại diện sẽ hành động dưới
sự kiểm soát của người được đại diện là
một điều kiện bắt buộc trong quan hệ đại
diện. Lý do phải có sự kiểm soát này là
bởi trong quan hệ đại diện, người đại diện
phải hành động trong phạm vi được đại
diện. Sự kiểm soát của người được đại
diện sẽ một phần giúp cho người đại diện
không hành động vượt quá phạm vi này.
2 Điều § 1.03 của Restatement on agency 3rd.
Nguyên bản tiếng Anh “A person manifests assent
or intention through written or spoken words or
other conduct”.
65Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
Việc kiểm soát của người được đại diện
đối với người đại diện không phải kiểm
soát tất cả hành động của người đại diện.
Trong vụ Green vs. H&R Block Inc, Thẩm
phán toà Maryland đã cho rằng: “Việc kiểm
soát của người được đại diện không phải là
kiểm soát từng hành động, từng giây phút
đối với người đại diện”. Việc kiểm soát này
chỉ nên đặt ra đối với kết quả hành động
của người đại diện mà thôi.
2. Hình thức đại diện
Trong Bản phát biểu thứ 3 về đại diện,
các học giả đã đề cập đến bốn hình thức
đại diện, cụ thể như sau:
2.1. Đại diện rõ ràng
Đại diện rõ ràng được hiểu là trường
hợp người được đại diện thể hiện rõ ràng
ý chí của mình là để cho người đại diện
hành động thay mặt mình và người đại
diện cũng đồng ý thay mặt người được đại
diện để thực hiện việc đó. Ý chí này được
thể hiện qua lời nói, qua hành vi của người
được đại diện hoặc qua một hay một số
văn bản cụ thể. Ví dụ, theo quy định của
pháp luật, của Điều lệ hay của một văn
bản nội bộ nào đó trong công ty là: Tổng
giám đốc sẽ là đại diện của công ty, hay
Tổng giám đốc ký văn bản uỷ quyền cho
Phó tổng giám đốc thay mặt công ty ký các
hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán
có giá trị dưới 500 triệu đồng
Với đại diện rõ ràng, sẽ rất dễ dàng để
xác định ai là người đại diện của công ty.
Đó chính là người được chỉ định bởi người
được đại diện, cụ thể: trường hợp văn bản
pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định
Tổng giám đốc là người đại diện của công
ty thì Tổng giám đốc sẽ thay mặt công ty
thực hiện các giao dịch với đối tác, ký kết
các hợp đồng; hoặc trong trường hợp Phó
tổng giám đốc được uỷ quyền ký hợp đồng
thì Phó tổng giám đốc sẽ là người đại diện
của công ty. Đại diện rõ ràng cũng giúp
chúng ta dễ dàng xác định được phạm vi
của đại diện. Phạm vi đại diện sẽ quyết
định việc giao dịch đó có ràng buộc người
được đại diện hay không. Nếu giao dịch
giữa người đại diện với người thứ ba nằm
trong phạm vi đại diện thì giao dịch đó sẽ
có giá trị ràng buộc công ty, người được
đại diện và ngược lại.
Quay trở lại hai ví dụ trên, có thể thấy:
Trường hợp Tổng giám đốc là người đại
diện của công ty thì nhiệm vụ, quyền hạn
của Tổng giám đốc sẽ tuân theo các quy
định của pháp luật hoặc điều lệ của công
ty và bị giới hạn bởi các quy định đó. Còn
trong trường hợp Phó tổng giám đốc được
Tổng giám đốc uỷ quyền ký các hợp đồng
mua bán có giá trị dưới 500 triệu đồng,
phạm vi đại diện đã được xác định rõ ràng
là Phó tổng giám đốc này chỉ được ký kết
các hợp đồng có giá trị dưới 500 triệu đồng
thôi. Trường hợp Phó tổng giám đốc ký
các hợp đồng có giá trị từ 500 triệu đồng
trở lên thì những hợp đồng này sẽ coi là
ngoài phạm vi đại diện và sẽ không có giá
trị ràng buộc công ty.
2.2. Đại diện ngầm định
Đại diện ngầm định được hiểu là
trường hợp mặc dù không có một quan
hệ rõ ràng nhưng các bên ngầm hiểu với
nhau là có sự hiện diện của một quan
hệ đại diện. Đại diện ngầm định thường
được cho là xuất phát từ đại diện rõ ràng.
Một ví dụ điển hình thường được các học
giả đưa ra để nói về đại diện ngầm định
là trường hợp Tổng giám đốc của công ty
X uỷ quyền cho ông Y là Giám đốc điều
hành của công ty ký hợp đồng mua bán
66
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
một dây chuyền công nghệ cho nhà máy
sản xuất. Để ông Y có thể ký hợp đồng
với đối tác Z, ông phải bay đến trụ sở của
đối tác Z. Các hợp đồng mini phục vụ cho
việc ký kết hợp đồng mua bán của ông Y
như ăn nghỉ tại khách sạn gần trụ sở của
đối tác Z, di chuyển trên taxi đều có giá
trị ràng buộc công ty X vì bản chất, đây
là những hợp đồng do ông Y ký thay mặt
cho công ty X. Mặc dù không có văn bản
uỷ quyền của Tổng giám đốc công ty X cho
ông Y một cách rõ ràng đối với việc ký kết
các hợp đồng mini đó nhưng thẩm quyền
đại diện của ông Y trong trường hợp này
đối với những hợp đồng mini được coi là
quyền đại diện ngầm định xuất phát từ
việc uỷ quyền rõ ràng của Tổng giám đốc
công ty X đối với hợp đồng mua bán dây
chuyền công nghệ.
Do phái sinh từ thẩm quyền đại diện
rõ ràng nên trong quan hệ đại diện ngầm
định, người đại diện sẽ có thẩm quyền đại
diện trong việc xác lập các giao dịch cần
thiết để thực hiện thẩm quyền đại diện
rõ ràng và phù hợp với mục tiêu đại diện
rõ ràng. Thẩm quyền này có thể được xác
định bởi tập quán hoặc được suy ra từ vị
trí của người đại diện. Đồng thời, thẩm
quyền đại diện ngầm định không được
mâu thuẫn với thẩm quyền đại diện rõ
ràng. Ví dụ, trong văn bản uỷ quyền của
Tổng công ty X nói rõ việc ăn ở của ông Y
trong quá trình ký hợp đồng mua bán sẽ
do bộ phận Văn phòng của công ty đảm
nhiệm thì ông Y cũng sẽ không được ký
hợp đồng ăn nghỉ tại khách sạn. Nếu ông
Y ký hợp đồng với khách sạn thì hợp đồng
này không có giá trị ràng buộc công ty X.
2.3. Đại diện thông qua phê chuẩn
Đại diện thông qua phê chuẩn được
hiểu là trường hợp mà một người nhân
danh người khác xác lập giao dịch với
người thứ ba mà trên thực tế, người này
không có thẩm quyền đại diện. Tuy nhiên,
sau đó, người được đại diện đồng ý phê
chuẩn giao dịch đã được xác lập.
Về nguyên tắc, trong trường hợp
người đại diện thực hiện giao dịch mà
không có thẩm quyền đại diện thì giao
dịch đó sẽ không có giá trị ràng buộc đối
với người được đại diện. Tuy nhiên, trong
trường hợp này, nếu người được đại diện
chấp nhận giao dịch đã xác lập thì giao
dịch đó vẫn có giá trị ràng buộc đối với
người được đại diện. Điều đó cũng đồng
nghĩa với việc quan hệ đại diện vẫn được
thiết lập, và đây là trường hợp đại diện
thông qua phê chuẩn.
Một số điều kiện để việc phê chuẩn có
hiệu lực bao gồm:
- Người được đại diện phải là người
thực hiện hành vi phê chuẩn;
- Người được đại diện phải biết được
tất cả nội dung liên quan đến giao dịch.
Nếu người được đại diện phê chuẩn giao
dịch mà không biết được tất cả nội dung
của giao dịch thì người được đại diện có
quyền huỷ giao dịch đó;
- Người được đại diện phải chấp nhận
toàn bộ hành động của người đại diện;
- Người được đại diện phải có đủ
năng lực pháp lý để uỷ quyền thực hiện
giao dịch tại thời điểm người đại diện xác
lập giao dịch và tại thời điểm người được
đại diện phê chuẩn giao dịch. Bên thứ ba
cũng phải có đủ năng lực pháp lý để xác
lập giao dịch;
- Người được đại diện phải thực
hiện việc phê chuẩn trước thời điểm bên
67Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
PHẠM THỊ TRANG
thứ ba huỷ bỏ giao dịch;
- Người được đại diện phải tuân thủ
đúng hình thức khi phê chuẩn giao dịch3.
2.4. Đại diện bề ngoài
Khi người đại diện không nhận được
uỷ quyền từ người được đại diện thì họ
sẽ không có quyền đại diện. Tuy nhiên,
trên thực tế, có rất nhiều trường hợp một
người hành động khi chưa có uỷ quyền rõ
ràng từ người được đại diện nhưng vẫn
được coi là tồn tại quan hệ đại diện nếu
mối quan hệ đó thoả mãn lý thuyết về đại
diện bề ngoài với những điều kiện sau:
Thứ nhất, người được đại diện (A)
theo một cách thức nào đó làm cho bên
thứ ba tin tưởng rằng: B, người sẽ thực
hiện giao dịch với bên thứ ba, chính là
người đại diện của A. Đây là điểm khác
biệt cơ bản giữa đại diện bề ngoài so với
đại diện rõ ràng như đã nói ở trên. Nếu
như trong quan hệ đại diện rõ ràng, người
được đại diện sẽ phải có hành động, lời
nói làm cho người đại diện biết rõ rằng
mình có đủ thẩm quyền đại diện để thay
mặt cho người được đại diện thực hiện các
giao dịch thì trong đại diện bề ngoài, hành
động của người được đại diện lại hướng
tới người thứ ba và làm cho người thứ
ba hiểu rằng người đại diện có đủ thẩm
quyền để thay mặt cho người được đại
diện tham gia vào giao dịch.
Thứ hai, dựa trên sự thể hiện của A,
người thứ ba tin tưởng B chính là đại
diện của A và đã hành động dựa trên
niềm tin ấy.
3 Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller,
Frank B. Cross, Business Law, Text and Cases
(Cengage Learning, 2015).
Sự tin tưởng của người thứ ba trong
trường hợp này phải được coi là phù hợp,
có nghĩa là người thứ ba phải chứng minh
rằng sự tin tưởng ấy là hợp lý. Tính hợp
lý ở đây được hiểu là: hoàn cảnh thực
tế trong trường hợp đó phải chỉ ra rằng
một người trong điều kiện, tập quán kinh
doanh thông thường và với mức độ cẩn
trọng phù hợp sẽ nhận thấy người đại
diện có đủ thẩm quyền để thực hiện giao
dịch. Trên thực tế, có rất nhiều vụ án phát
sinh liên quan đến đại diện bề ngoài. Việc
xác định một quan hệ có đủ yếu tố để coi
đó là một đại diện bề ngoài hay không là
rất phức tạp. Thẩm phán sẽ phải tiến hành
xem xét tất cả mọi yếu tố liên quan đến
quan hệ đó và đối chiếu xem có thoả mãn
hai điều kiện như đã nói ở trên hay không?
Ví dụ có thể kể ra ở đây như vụ Essco
Geometric v. Harvard Industries4. Trong
vụ án này, Harvard Industries là nhà sản
xuất đồ nội thất với sản phẩm chủ yếu là
ghế, còn Essco Geometric (tên thương mại
là Diversified) là công ty chuyên bán các
sản phẩm keo bọt. Harvard Industries đã
mua các sản phẩm keo bọt của Diversified
để sản xuất các sản phẩm của mình. Hai
bên đã thiết lập quan hệ mua bán trong
khoảng thời gian hơn 20 năm. Các giao dịch
được xác lập giữa Frank Best, Giám đốc bộ
phận mua hàng của Harvard Industries
và Edsel Safron, Chủ tịch của Diversified.
Năm 1988, Frank Best nghỉ hưu và Michael
Gray, một nhân viên mua hàng thay thế
vị trí của Frank Best. Hai bên tiếp tục việc
mua bán hàng giữa Harvard Industries và
Essco Geometric.
4 Essco Geometric v. Harvard Industries, 46 F.3d
718
68
HỌC THUYẾT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA HOA KỲ - KHÁI NIỆM VÀ ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
Năm 1989, Chủ tịch của Harvard
Industries, Ed Kruske, ban hành hai văn
bản nội bộ và chỉ gửi cho Gray với nội
dung: (1) tất cả các đơn đặt mua hàng
phải được gửi cho Kruske trước khi gửi
cho bên bán và (2) tất cả các đơn hàng có
giá trị lớn hơn 50 đô la Mỹ sẽ phải có sự
chấp thuận của cả Giám đốc bộ phận mua
hàng và Kruske.
Năm 1990, Gray và Safron ký một
thoả thuận, trong đó Diversified độc
quyền bán hàng cho Harvard Industries
trong thời hạn hai năm. Đây là một thoả
thuận độc quyền và không huỷ ngang.
Tuy nhiên, Kruske đã từ chối thực hiện
thoả thuận này và Diversified đã khởi
kiện ra toà Minnisota để đòi bồi thường vì
cho rằng Harvard Industries đã vi phạm
thoả thuận.
Một trong những vấn đề mấu chốt để
xác định Harvard Industries có vi phạm
thoả thuận hay không là việc xác định
Gray có đủ quyền đại diện cho Harvard
Industries để ký thoả thuận với Diversified
hay không? Trong trường hợp Gray có
quyền đại diện thì Harvard Industries sẽ
bị ràng buộc bởi thoả thuận đã ký giữa
Gray và Safron. Khi đã bị ràng buộc, việc
Kruske từ chối thực hiện thoả thuận sẽ bị
coi là vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận và
sẽ phải bồi thường cho Diversified. Ngược
lại, nếu Gray không có đủ quyền đại diện
thì Harvard Industries sẽ không chịu sự
ràng buộc của thoả thuận.
Trong vụ án này, Toà cho rằng:
Trong khoảng thời gian hơn 20 năm,
Harvard Industries đã cho phép Frank
Best, giám đốc bộ phận mua hàng, được
phép lựa chọn bên bán cho Harvard
Industries và xác lập giao dịch mua
bán với tư cách đại diện cho Harvard
Industries. Khi Gray thay thế cho Best,
không có ai thông báo cho Diversified
biết rằng Harvard Industries đã ban
hành các quy định mới về quy trình mua
hàng cũng như việc Giám đốc bộ phận
mua hàng của Harvard đã bị hạn chế
thẩm quyền trong việc thay mặt công
ty xác lập giao dịch mua hàng. Bởi vậy,
đối chiếu với hai điều kiện của đại diện
bề ngoài, quan hệ giữa Gray và Harvard
Industries đã cấu thành quan hệ đại diện
bề ngoài trong giao dịch với Diversified
và Gray hoàn toàn có đủ thẩm quyền để
xác lập thoả thuận với Diversified. Thoả
thuận này có giá trị ràng buộc Harvards
Industries. Và khi Kruske từ chối thực
hiện thoả thuận có nghĩa là Harvard
Industries đã vi phạm thoả thuận đó.
Từ vụ án trên, có thể thấy rằng việc
xem xét một quan hệ có cấu thành quan
hệ đại diện bề ngoài hay không là một câu
chuyện phức tạp, đòi hỏi các Thẩm phán
phải nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể
và phải dựa vào bản chất của quan hệ trên
cơ sở đối chiếu với hai điều kiện về đại
diện bề ngoài như đã nêu trên.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam có lẽ
mới chính thức thừa nhận đại diện rõ ràng
thông qua việc quy định 2 hình thức đại
diện là đại diện theo pháp luật và đại diện
theo uỷ quyền. Đối với đại diện ngầm
định, đại diện bề ngoài, pháp luật Việt
Nam chưa chính thức thừa nhận. Thiết
nghĩ, các nhà làm luật Việt Nam nên cân
nhắc để có thể thiết lập các quy định nhằm
hoàn thiện các quy định về đại diện trong
hệ thống pháp luật Việt Nam./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoc_thuyet_ve_dai_dien_cua_hoa_ky_khai_niem_va_cac_hinh_thuc.pdf