Thứ ba, phát triển và chuẩn hóa hệ thống
tài liệu dạy học.
Tài liệu giảng dạy, học tập là yếu tố gắn
liền với chương trình đào tạo. Trong những
năm gần đây, hệ thống giáo trình, hồ sơ tình
huống đã được đầu tư xây dựng mới và cập
nhật thường xuyên. Tuy nhiên, so với yêu
cầu thì hệ thống giáo trình và hồ sơ tình
huống vẫn cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện.
Trong đó, các giáo trình cần phải đạt được
tiêu chí quan trọng nhất là trang bị đầy đủ
kỹ năng, hướng dẫn rõ ràng cụ thể quy trình
giải quyết/xử lý công việc để đảm bảo
phương châm “cầm tay chỉ việc” trong đào
tạo nghề. Hồ sơ tình huống cần được nghiên
cứu, biên tập kỹ càng đảm bảo phù hợp với
mục tiêu bài học, đối tượng đào tạo và ý đồ
sư phạm.
Thứ tư, đổi mới hệ thống quản trị đào tạo
và xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng
đào tạo chức danh tư pháp.
Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo và phục
vụ đào tạo cần được chuẩn hóa về chuyên
môn, nghiệp vụ, có tác phong làm việc
chuyên nghiệp với tâm thế của người cung
cấp dịch vụ, không ngừng chăm sóc, làm hài
lòng người học - khách hàng của mình.
Hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo nội
bộ cần được xây dựng một cách bài bản và
chính thức vận hành trong thời gian sớm
nhất. Hệ thống này cần được tiếp cận theo
mô hình “Quản lý chất lượng tổng thể”, vừa
đảm bảo quản lý chất lượng đầu vào, vừa
đảm bảo quản lý chất lượng quá trình, quản
lý chất lượng đầu ra và quan trọng hơn cả là
phát triển “văn hóa chất lượng” trong đội ngũ
công chức, viên chức, người lao động và học
viên của Học viện Tư pháp./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Học viện tư pháp - 20 năm đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN TƯ PHÁP - 20 NĂM ĐÀO TẠO CÁC CHỨC DANH TƯ PHÁP,
BỔ TRỢ TƯ PHÁP VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRONG THỜI GIAN TỚI
Nguyễn Xuân Thu1
Tóm tắt: Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư
pháp, với hai chức năng đóng vai trò nòng cốt là đào tạo và bồi dưỡng các chức danh tư
pháp, bổ trợ tư pháp. Bài viết sau nhìn nhận, đánh giá lại những thành tựu cơ bản trong 20
năm đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp, qua đó đề ra một
số giải pháp nằm nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian tới.
Từ khóa: đào tạo, bồi dưỡng, chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, Học viện Tư pháp,
20 năm
Nhận bài: 10/12/2017; Hoàn thành biên tập: 15/01/2018; Duyệt đăng: 26/01/2018
Abstract: Judicial Academy is a training and scientific science unit under the management
of Ministry of Justice. It has two key functions namely training and coutinning of legal
professionals, legal support professionals. The below article reviews, assesses basic
achievements for 20 years of training legal professionals, legal support professionals of
Judicial Academy to make recommendations of enhancing quality of training, retraining in
the coming time.
Keywords: training, retraining, legal professionals, legal support professionals, Judicial
Academy, 20 years
Date of receipt: 10/12/2017; Date of revision: 15/01/2018; Date of approval: 26/01/2018
1. Những thành tựu cơ bản 20 năm đào
tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp
của Học viện Tư pháp
Học viện Tư pháp được thành lập theo
Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004
của Thủ tướng Chính phủ (tiền thân là Trường
Đào tạo các chức danh tư pháp được thành lập
theo Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg ngày
11/02/1998). Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo
và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư
pháp, hoạt động theo Điều lệ trường đại học,
có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau: i)
Đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, kiểm sát viên,
luật sư, chấp hành viên, công chứng viên và
các chức danh tư pháp khác; ii) Bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
chấp hành viên, công chứng viên, luật sư và
cán bộ có chức danh tư pháp khác thuộc thẩm
quyền quản lý của Bộ Tư pháp; iii) Nghiên cứu
khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ có chức danh tư pháp; iv) Hợp tác với
các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
trong việc đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu
khoa học; v) Tùy theo yêu cầu và đòi hỏi của
thực tế, Học viện Tư pháp có thể được cơ quan
có thẩm quyền giao thêm nhiệm vụ mới2.
Đào tạo nghiệp vụ xét xử là khóa đào tạo
đầu tiên được triển khai tại Học viện Tư pháp
vào năm 1998. Tiếp sau đó, năm 2000 triển
khai đào tạo nghề luật sư, năm 2001 đào tạo
nghề công chứng, năm 2002 đào tạo nghiệp
vụ thi hành án dân sự, năm 2004 đào tạo
nghiệp vụ kiểm sát, năm 2010 đào tạo nghiệp
vụ lý lịch tư pháp, năm 2011 đào tạo nghề
1 Tiến sỹ, Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Học viện Tư pháp, Tổng biên tập Tạp chí Nghề luật
2 Điều 2, Điều 3 Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg, ngày 25/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học
viện Tư pháp.
15
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
đấu giá và năm 2016 đào tạo nghề thừa phát
lại. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, mặc
dù mỗi thời kỳ có những chính sách pháp luật
khác nhau về đào tạo chức danh tư pháp, bổ
trợ tư pháp nhưng Học viện Tư pháp vẫn là
cơ sở đào tạo có chức năng, nhiệm vụ đào tạo
gần như tất cả các chức danh tư pháp, bổ trợ
tư pháp và được Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận xây dựng thành Trung tâm lớn đào tạo
các chức danh tư pháp của Việt Nam. Điều
này chứng tỏ Học viện đã khẳng định được
niềm tin đối với Đảng, Nhà nước và xã hội.
Có thể khái quát thành tựu đào tạo các
chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, đồng thời
cũng là những đóng góp của Học viện Tư
pháp cho ngành và cho đất nước trong 20 qua
như sau:
Thứ nhất, với xuất phát điểm ban đầu
chỉ đào tạo một chức danh tư pháp là Thẩm
phán, đến nay, Học viện Tư pháp đã và
đang đào tạo 9 chức danh tư pháp và bổ trợ
tư pháp (Thẩm phán, Thư ký tòa án, Kiểm
sát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Thừa
phát lại, Công chứng viên, Đấu giá viên,
Cán bộ lý lịch tư pháp). Từ một chương
trình đào tạo nghiệp vụ xét xử, sau 20 năm,
Học viện Tư pháp đã và đang triển khai 11
chương trình đào tạo nghiệp vụ, đào tạo
nghề (Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét
xử, Chương trình đào tạo nghiệp vụ thư ký
tòa án, Chương trình đào tạo nghiệp vụ
kiểm sát, Chương trình đào tạo nghề luật
sư, Chương trình đào tạo luật sư phục vụ
hội nhập quốc tế, Chương trình đào tạo
chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên,
luật sư, Chương trình đào tạo nghiệp vụ thi
hành án, Chương trình đào tạo nghề thừa
phát lại, Chương trình đào tạo nghề công
chứng, Chương trình đào tạo nghề đấu giá,
Chương trình đào tạo nghiệp vụ lý lịch
tư pháp).
Trước đây, các chương trình đào tạo đều
được xây dựng theo hình thức niên chế, gồm
3 phần riêng biệt (kiến thức chung, kỹ năng
chung và kỹ năng định hướng chuyên sâu)
thì nay các chương trình đào tạo được xây
dựng lại theo hình thức tín chỉ nhằm tạo tính
liên thông, thuận tiện cho người học và tổ
chức quá trình đào tạo, giảm chi phí cho
người học và cho xã hội... Các bài học trong
chương trình đều được thiết kế theo mô hình
xoáy trôn ốc nhằm phát huy tốt nhất khả
năng của người học thông qua triết lý “học
thông qua thực hành” (Lerning by Doing).
Nội dung chương trình đào tạo phân định rõ
thành 3 khối kiến thức phải biết, cần biết và
nên biết. Khối kiến thức phải biết phải được
giảng dạy trong chương trình đào tạo. Khối
kiến thức cần biết và nên biết dành cho người
học tự nghiên cứu, tự học. Các chương trình
đào tạo hiện nay đều công bố rõ ràng chuẩn
đầu ra của chương trình mà người học đạt
được sau khi tốt nghiệp. Đây là bước phát
triển mới trong các chương trình đào tạo hiện
nay so với trước đây.
Từ năm 1998 đến năm 2001, hoạt động đào
tạo chỉ được triển khai tại thành phố Hà Nội, từ
năm 2002 việc đào tạo đồng thời được triển
khai tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, hoạt
động này đã mở rộng ra ở nhiều tỉnh thành
trong cả nước như Cần Thơ, Hậu Giang, An
Giang, Tây Ninh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế,
Phú Yên, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Bình,
Nghệ An nhờ đó người học dễ dàng tiếp cận
với các chương trình đào tạo, đồng thời giảm
thiểu đáng kể chi phí cho bản thân và gia đình
người học, chi phí cho xã hội.
Thứ hai, Học viện Tư pháp đặt nền
móng và mở ra mô hình đào tạo mới - đào
tạo nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp tạo
nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp, bổ
trợ tư pháp; hình thành tiêu chuẩn, điều kiện
16
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
luật định về chuyên môn nghiệp vụ khi bổ
nhiệm chức danh tư pháp.
Tham gia các chương trình đào tạo của
Học viện Tư pháp, người học được trang bị
một cách hệ thống các kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp cần thiết, qua đó người học nhanh
chóng nắm bắt được kiến thức, kỹ năng nghề
một cách chuyên nghiệp, không còn bỡ ngỡ
khi bước chân vào nghề, rút ngắn thời gian tự
học tập, làm quen với công việc, tự tin hơn khi
thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Sự thành công của các khóa đào tạo tại
Học viện Tư pháp đã khẳng định được sự cần
thiết phải đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng trước
khi hành nghề đối với các chức danh tư pháp
và bổ trợ tư pháp. Trong các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan (Luật Tổ chức tòa
án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Luật Luật sư, Luật Công chứng, Luật
Thi hành án dân sự, Luật đấu giá) Nhà
nước đã lần lượt quy định “Tốt nghiệp
chương trình đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ” là
một trong các tiêu chuẩn, điều kiện cứng khi
xem xét, bổ nhiệm/công nhận hầu hết các
chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Thứ ba, hoạt động đào tạo của Học viện
Tư pháp đã góp phần đặc biệt quan trọng tạo
nguồn nhân lực tư pháp, bổ trợ tư pháp chất
lượng cao cho các ngành liên quan và cho
đất nước.
Trước đây, đánh giá chung về đội ngũ cán
bộ chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, các
cấp, các ngành đã từng có chung nhận định
về số lượng chức danh tư pháp, bổ trợ tư
pháp còn thiếu, cơ cấu đội ngũ cán bộ trong
các ngành tư pháp vẫn còn trong tình trạng
mất cân đối, chưa hợp lý giữa các vùng,
miền; thiếu hụt số cán bộ có trình độ chuyên
môn cao, có khả năng xử lý các vụ án phức
tạp, có kiến thức ngoại ngữ và kỹ năng giải
quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài; một bộ
phận không nhỏ các chức danh tư pháp, bổ
trợ tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu đảm
bảo tranh tụng tại phiên tòa; các kiến thức bổ
trợ tư pháp, đặc biệt là kiến thức về giám
định tư pháp và kỹ thuật điều tra hình sự còn
thiếu hụt, dẫn tới những hạn chế trong việc
kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Bên
cạnh đó, nhiều bất cập, hạn chế kiến thức xã
hội, kiến thức hội nhập kinh tế - quốc tế,
quản trị hành chính - tư pháp, kỹ năng ứng
dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ
thuật trong hoạt động tư pháp chưa được
khắc phục.
Qua 20 năm, Học viện Tư pháp đã đào
tạo 51.210 học viên, trong đó có 43.049 học
viên đã được công nhận tốt nghiệp. Cụ thể
như sau:
Với kết quả đào tạo như trên, sự thiếu hụt
về nguồn nhân lực tư pháp đã dần được khắc
phục. Phần lớn học viên tốt nghiệp từ các
chương trình đào tạo chức danh tư pháp, bổ
trợ tư pháp tại Học viện Tư pháp đã được bổ
nhiệm/công nhận chức danh tư pháp, bổ trợ
17
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
tư pháp. Nhiều người hiện đảm trách những
chức vụ quan trọng trong hệ thống cơ quan
toà án, kiểm sát, thi hành án các cấp, tổ chức
hành nghề luật sư, công chứng và đấu giá,
khẳng định được uy tín trong nghề. Bổ sung
được lượng lớn chức danh tư pháp, bổ trợ tư
pháp đã góp phần giảm thiểu sự thiếu hụt
nguồn nhân lực tư pháp nhất là trong bối
cảnh nền kinh tế, xã hội Việt Nam ngày càng
phát triển, số lượng vụ việc mà các ngành,
các cấp phải giải quyết năm sau tăng nhiều
hơn năm trước, tính chất vụ việc ngày càng
phức tạp thì kết quả đào tạo của Học viện Tư
pháp trong 20 năm qua là thành tích đáng
trân trọng, được ghi nhận, đồng thời, thông
qua đó thể hiện được chính sách xã hội hóa
hoạt động bổ trợ tư pháp của Đảng, Nhà
nước và Bộ Tư pháp là đúng đắn, phù hợp
với nhu cầu xã hội.
Thứ tư, kết quả đào tạo chức danh tư
pháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp
đã góp phần quan trọng trong công cuộc cải
cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do nhân
dân, vì nhân dân.
Mục tiêu cải cách tư pháp được xác định
trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 là:“Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao”.
Trong thời gian gần đây, cơ bản hoạt động
tranh tụng được đảm bảo, chất lượng giải
quyết, xét xử các vụ án tiếp tục được nâng lên,
công tác giải quyết, xét xử các vụ, việc dân sự
và vụ, việc hành chính cũng có nhiều chuyển
biến, tiến bộ cả về tiến độ và chất lượng giải
quyết, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng; tôn trọng quyền con người; bảo đảm để
các bên thực hiện đúng và đầy đủ quyền hạn,
trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theo
quy định của pháp luật, đặc biệt là nghĩa vụ
chứng minh, xác định sự thật khách quan của
vụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giải
quyết trong vụ án. Phán quyết của Tòa án nhìn
chung đã đảm bảo dựa trên cơ sở pháp luật và
các tình tiết, chứng cứ, lập luận đã được kiểm
tra, xem xét, kết luận toàn diện, đầy đủ tại
phiên tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiên
tòa cơ bản bảo đảm thực sự khách quan, minh
bạch và công bằng, không được thiên vị và
định kiến.
Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ từ
đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp, bổ trợ tư
pháp đã qua đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng nghề
nghiệp tại Học viện Tư pháp. Những kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp mà người học
được trang bị từ các chương trình đào tạo của
Học viện Tư pháp đã phát huy tác dụng, góp
phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách
tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ năm, Học viện Tư pháp đã tạo dựng
được giá trị thương hiệu đào tạo nghề luật
của mình thông qua những giá trị cốt lõi của
hoạt động đào tạo, lợi thế so sánh của mình
trong hoạt động đào tạo chức danh tư pháp,
bổ trợ tư pháp.
Để tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng trong
hoạt động đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ
tư pháp, đã có một số cơ sở đào tạo chức
danh tư pháp được Đảng và Nhà nước cho
phép thành lập, hoạt động. Tuy nhiên, đến
thời điểm hiện tại, Học viện Tư pháp vẫn là
cơ sở đào tạo có uy tín, chất lượng được thể
hiện thông qua những giá trị cốt lõi về triết lý
đào tạo, chương trình đào tạo, phương pháp
đào tạo, tư duy quản lý hoạt động đào tạo.
18
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Đây là những vấn đề cốt lõi của cơ sở giáo
dục không thể có trong thời gian ngắn mà cần
có sự tích lũy, phát triển đến độ nhất định với
sự tâm huyết, học tập kinh nghiệm, quyết
tâm chính trị mới có thể có được.
Trước đây, các chương trình đào tạo đều
được xây dựng theo hình thức niên chế. Việc
triển khai chương trình đào tạo theo hình
thức tín chỉ, giúp người học chủ động, phát
huy tính sáng tạo, tích lũy được nhiều nhất
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
xã hội.
Đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảng
được phát triển không ngừng, đáp ứng yêu
cầu về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
Phương pháp dạy học được sử dụng đa
dạng, trọng tâm là các phương pháp tích cực,
lấy người học làm trung tâm và phương pháp
tương tác giữa người dạy và người học, giữa
người học với nhau, phát huy tối đa tính chủ
động, sáng tạo của học viên, như: giải quyết
tình huống (Case study), diễn án (Simulation);
thực hành đóng vai (Role-play), thực hành
nghề tại Trung tâm tư vấn pháp luật
(Legal Clinic), làm việc nhóm, đồng giảng
(Co-training)...
Hệ thống học liệu (Giáo trình, Hồ sơ tình
huống, Chương trình môn học) được xây
dựng và thường xuyên cập nhật, bổ sung đáp
ứng đầy đủ yêu cầu về học liệu của tất cả các
chương trình đào tạo3. Hệ thống học liệu của
Học viện Tư pháp còn là nguồn tài liệu tham
khảo quý cho các cơ sở đào tạo khác, cho các
chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp trong quá
trình hành nghề.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo của Học viện Tư pháp trong thời
gian tới
Học viện Tư pháp đang bước những bước
cuối cùng trên chặng đường đến “Trung tâm
lớn đào tạo các chức danh tư pháp” theo
Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày
08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Với
nhận thức, “Trung tâm lớn” không chỉ là lớn
về quy mô đào tạo mà còn là lớn ở chức
năng, nhiệm vụ; lớn ở chất lượng đào tạo; lớn
ở những hoạt động vì cộng đồng, xã hội cho
một nền tư pháp, pháp quyền và hội nhập
quốc tế. Vì vậy, sứ mệnh và đích hướng tới
của Học viện Tư pháp trong những năm tới
sẽ phải trở thành địa chỉ, đối tác tin cậy của
xã hội, đồng thời có sức hút cao đối với đối
tác hợp tác trong nước và quốc tế về cả ba trụ
cột căn bản là đào tạo, bồi dưỡng và nghiên
cứu ứng dụng nghề luật.
Để đạt được mục tiêu đó, Học viện Tư
pháp cần đổi mới tư duy về hoạt động đào
tạo. Đổi mới không có nghĩa là xóa đi cái cũ,
xây cái mới. Đổi mới không có nghĩa là làm
lại tất cả, từ đầu mà cần vừa củng cố, phát
huy các thành tựu và điển hình đổi mới, kiên
quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc
làm trái quy luật, phát triển những nhân tố
3 Tính đến ngày 31/12/2017, Học viện Tư pháp đã biên soạn, xuất bản được 17 Giáo trình và 01 Tập bài giảng phục
vụ đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư; 28 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghiệp vụ vụ xét
xử; 03 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghiệp vụ kiểm sát; 20 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghề luật sư; 11
Giáo trình phục vụ đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên và thừa phát lại; 07 Giáo trình phục vụ đào tạo nghề công
chứng; 02 Tập bài giảng phục vụ đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp; 01 Giáo trình và 01 Tập bài giảng phục vụ đào
tạo nghề đấu giá; 02 Sổ tay đào tạo. Hiện tại, Học viện Tư pháp đang sử dụng 77 bộ hồ sơ tình huống đào tạo luật
sư; 57 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghề công chứng; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm
sát viên, luật sư; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; 14 bộ hồ sơ tình huống đào tạo
nghiệp vụ kiểm sát; 35 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạo
nghề thừa phát lại; 54 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ xét xử; 19 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghề đấu giá;
45 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp.
19
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng
điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đào tạo
hiện nay của Học viện Tư pháp. Những hạn
chế, thách thức của chương trình đào tạo hiện
nay phải được nhận thức sâu sắc, có giải
pháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượt
qua để đưa sự nghiệp đào tạo lên tầm cao
mới, nhất là những hạn chế về quy mô lớp; ý
thức chấp hành nề nếp, kỷ luật, kỷ cương giờ
giấc trên lớp; chất lượng bài giảng, hồ sơ tình
huống; sự tương tác trong đào tạo
Tư duy mới là tư duy văn hóa chất lượng
trên mọi phương diện trong đó đối với hoạt
động đào tạo cần phải chuyển hướng phát
triển chủ yếu theo số lượng sang chú trọng
chất lượng và hiệu quả, đồng thời vẫn đáp
ứng yêu cầu số lượng, phát triển mạnh mẽ
các chương trình đào tạo, trọng tâm là các
chương trình chuyên sâu theo chuyên ngành
và vị trí nghề nghiệp; đa dạng hoá các hình
thức đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội; theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa hoạt động đào
tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý
điều hành hoạt động đào tạo, thu gọn đầu mối
quản lý, sử dụng cán bộ linh hoạt, hợp lý,
khoa học, phù hợp với yêu cầu phát triển của
Học viện Tư pháp trong tình hình mới; đồng
thời thiết lập cơ chế và hệ thống kiểm tra,
giám sát đối với chất lượng đào tạo đảm bảo
tính trung thực, hợp lý, minh bạch.
Để nâng cao chất lượng đào tạo trong thời
gian tới, Học viện Tư pháp cần thực hiện
những nhóm giải pháp chính sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triển
chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo là yếu tố quan trọng
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chức
danh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Thời gian vừa
qua, Học viện Tư pháp đã đổi mới nhiều
chương trình đào tạo từ niên chế sang tín chỉ,
công bố chuẩn đầu ra của từng chương trình.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chương trình
đào cần phải phù hợp với đối tượng đào tạo.
Hiện nay, học viên theo học các chương trình
đào tạo tại Học viện Tư pháp rất đa dang,
phong phú về tuổi đời, tuổi nghề, trình độ
chuyên môn, mục tiêu theo khoá đào tạo và
vùng miền khác nhau. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng đào tạo. Vì thế, Học
viện Tư pháp cần xây dựng các chương trình
đào tạo khác nhau phù hợp cho các đối tượng
này. Trong năm 2018, Học viện Tư pháp triển
khai, xây dựng và thí điểm tổ chức chương
trình đào tạo luật sư chất lượng cao. Trên cơ
sở tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện
thí điểm này có thể nhân rộng đến các
chương trình đào tạo các chức danh khác.
Bên cạnh đó, Học viện Tư pháp cần
nhanh chóng triển khai hiệu quả nhiệm vụ đề
nghị cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt
động đào tạo cử nhân định hướng ứng dụng
nghề luật. Khi được đào tạo cử nhân luật định
hướng ứng dụng, mô hình đào tạo của Học
viện Tư pháp sẽ tiếp bước mô hình
Lawschool trong đào tạo nghề luật của
những nước phát triển, giúp rút ngắn thời
gian đào tạo, tạo tính liên thông, thống nhất,
liền mạch từ bậc đại học đến đào tạo nghề,
tiết kiệm chi phí đào tạo cho xã hội.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ giảng viên đủ
mạnh tham gia đào tạo.
Đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết định
nhất đến chất lượng đào tạo. Chương trình
chuẩn, học liệu tốt nhưng không có đội ngũ
giảng viên chuẩn thì chất lượng đào tạo cũng
không thể đạt được như mong muốn. Mỗi
giảng viên cần phải biết được trình độ, năng lực
mình thế nào, đang đứng ở đâu, từ đó nỗ lực
phấn đấu nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức
mới, lấy chương trình đào tạo chuẩn của quốc
tế làm thước đo cho chính mình để học hỏi, xây
dựng và nâng cao chất lượng bài giảng.
20
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Xây dựng đội ngũ giảng viên phải chú
trọng trên 3 phương diện: Quy hoạch phát
triển, sử dụng, nuôi dưỡng môi trường.
Về số lượng, thời gian tới, Học viện cần
có kế hoạch tuyển dụng đủ số lượng giảng
viên cơ hữu còn thiếu. Trong điều kiện tuyển
dụng nguồn giảng viên chất lượng đã hành
nghề chức danh tư pháp có khó khăn như
thời gian vừa qua thì phải khẩn trương tuyển
dụng nguồn giảng viên mới chưa có chức
danh tư pháp, đồng thời có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp
cho đội ngũ giảng viên này. Ngoài đội ngũ
giảng viên cơ hữu, Học viện Tư pháp cần chú
trọng phát triển đội ngũ giảng viên thỉnh
giảng giàu kinh nghiệm, có uy tín đạo đức
nghề nghiệp. Muốn vậy, bên cạnh việc xây
dựng cơ chế chính sách tăng thù lao giảng
dạy như vừa qua đã làm thì điều cần thiết là
phải thường xuyên quan tâm, chăm lo, đãi
ngộ, xây dựng mối quan hệ tốt của nhà
trường với giảng viên để giảng viên thỉnh
giảng nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người
của Học viện Tư pháp.
Về chất lượng, quy chế giảng viên hiện
nay của Học viện Tư pháp đã quy định chi
tiết những nhiệm vụ của giảng viên cơ hữu.
Song quy định thôi chưa đủ, quan trọng hơn
là các giảng viên phải thực hiện có chất
lượng tất cả các nhiệm vụ đó. Cùng với quá
trình tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện, tích lũy
kinh nghiệm của từng giảng viên, Học viện
Tư pháp cần xây dựng kế hoạch để đảm bảo
mỗi giảng viên cơ hữu có điều kiện thực hiện
đầy đủ và có chất lượng nhiệm vụ của mình.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
thỉnh giảng cũng phải được quan tâm thích
đáng. Cùng với việc lựa chọn kỹ càng về
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề
nghiệp, Học viện Tư pháp cần thường xuyên
tổ chức tập huấn về phương pháp sư phạm, tổ
chức thao giảng để từ đó rút ra những bài học
sư phạm tốt, trang bị phương pháp giảng dạy
tốt nhất cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng.
Thứ ba, phát triển và chuẩn hóa hệ thống
tài liệu dạy học.
Tài liệu giảng dạy, học tập là yếu tố gắn
liền với chương trình đào tạo. Trong những
năm gần đây, hệ thống giáo trình, hồ sơ tình
huống đã được đầu tư xây dựng mới và cập
nhật thường xuyên. Tuy nhiên, so với yêu
cầu thì hệ thống giáo trình và hồ sơ tình
huống vẫn cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện.
Trong đó, các giáo trình cần phải đạt được
tiêu chí quan trọng nhất là trang bị đầy đủ
kỹ năng, hướng dẫn rõ ràng cụ thể quy trình
giải quyết/xử lý công việc để đảm bảo
phương châm “cầm tay chỉ việc” trong đào
tạo nghề. Hồ sơ tình huống cần được nghiên
cứu, biên tập kỹ càng đảm bảo phù hợp với
mục tiêu bài học, đối tượng đào tạo và ý đồ
sư phạm.
Thứ tư, đổi mới hệ thống quản trị đào tạo
và xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng
đào tạo chức danh tư pháp.
Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo và phục
vụ đào tạo cần được chuẩn hóa về chuyên
môn, nghiệp vụ, có tác phong làm việc
chuyên nghiệp với tâm thế của người cung
cấp dịch vụ, không ngừng chăm sóc, làm hài
lòng người học - khách hàng của mình.
Hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo nội
bộ cần được xây dựng một cách bài bản và
chính thức vận hành trong thời gian sớm
nhất. Hệ thống này cần được tiếp cận theo
mô hình “Quản lý chất lượng tổng thể”, vừa
đảm bảo quản lý chất lượng đầu vào, vừa
đảm bảo quản lý chất lượng quá trình, quản
lý chất lượng đầu ra và quan trọng hơn cả là
phát triển “văn hóa chất lượng” trong đội ngũ
công chức, viên chức, người lao động và học
viên của Học viện Tư pháp./.
21
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoc_vien_tu_phap_20_nam_dao_tao_cac_chuc_danh_tu_phap_bo_tro.pdf