Hội chứng Pierre Robin nhân một trường hợp
Về điều trị
Cải thiện chức năng hô hấp, theo tác giả Van den
Elzen[4], có tới 52/74 các trường hợp cần các phương
pháp hỗ trợ hô hấp. Đơn giản nhất là tư thế ngủ nằm
sấp hoặc nằm nghiêng giúp cho đường thở thông
thoáng hơn, đa số các bệnh nhân có đáp ứng tốt với
việc thay đổi tư thế ngủ. Một số trường hợp phải khâu
treo lưỡi ra trước. Mở khí quản được chỉ định khi bệnh
nhân khó thở nặng, không đáp ứng với các phương
pháp trên, tuy nhiên việc chăm sóc đường mở khí quản
khó thực hiện tại nhà và nguy cơ nhiễm khuẩn đường
hô hấp rất cao.
Cải thiện dinh dưỡng: Ở các trẻ sơ sinh với biểu
hiện bú kém, không đủ cân so với tuổi, việc đặt sonde
dạ dày và bơm sữa là biện pháp tạm thời, nếu cần phải
mở thông dạ dày cho ăn tới khi bệnh nhân được 1-2
tuổi. Phương pháp tạo hình xương hàm dưới sau đó có
thể được tiến hành vừa nhằm mục đích thẩm mỹ, vừa
cải thiện chức năng nhai và nuốt thức ăn.
Điều trị các bất thường vùng hàm mặt [6,7] :
Phẫu thuật hở vòm họng khi trẻ đủ cân nặng giúp
giảm ho sặc khi ăn và giảm viêm tai giữa, phục hồi khả
năng phát âm và nghe.
Phẫu thuật tạo hình xương hàm dưới bằng dụng
cụ đặc biệt [7] giúp tạo hình thẩm mỹ, đồng thời cải
thiện các triệu chứng trên. Phương pháp này thường
được thực hiện ở giai đoạn 1 hoặc 2 tuổi. Sau khi chụp
cắt lớp vi tính, tái tạo xương hàm dưới, ta có thể thiết kế
được dụng cụ phù hợp nhất với từng bệnh nhân giúp
việc tạo hình đạt hiệu quả tối ưu. Phương pháp này đã
được thực hiện khá phổ biến ở các nước phát triển tuy
nhiên chi phí lớn nên hiện nay chưa triển khai được ở
Việt Nam [hình 7].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hội chứng Pierre Robin nhân một trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013462
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
Pierre Robin (PRS) is considered as rare frequency
among fetal malformations. It presents with a classic triad of
micrognathia, glossoptosis and cleft palate which is presenting
the maxillo-facial CT fi nding. This typical PRS case is describing
together with a short literature review about all CT anormaly
images for diagnosis and express its performance.
Keywords: Cleft palate, feeding plate, micrognathia,
palatal feeding obturator, Pierre Robin sequence.
HỘI CHỨNG PIERRE ROBIN
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
Pierre Robin syndrome. Study case
Nguyễn Thái Bình*, Bùi Văn Lệnh*
* Khoa Chẩn đoán hình
ảnh – Bệnh viện Đại Học Y
Hà Nội
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013 463
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Pierre Robin (SPR) là một chuỗi các dị tật
bẩm sinh hiếm gặp, theo các tác giả Mỹ, tỉ lệ gặp khoảng
1:8500 trẻ, tỉ lệ nam: nữ khoảng 1:1 [2]. Hội chứng này
được Pierre Robin báo cáo lần đầu tiên năm 1926. Bệnh
được tác giả định nghĩa là dị tật bẩm sinh, bao gồm bộ
ba triệu chứng là cằm nhỏ, lưỡi bị đẩy về phía sau và hở
vòm miệng (thường là hở màng mềm phía sau) [1]. Bệnh
thường được chẩn đoán ở giai đoạn cuối của thai kì
bằng siêu âm thai. Khi trẻ ra đời có bộ mặt biến dạng với
cằm nhỏ, nhọn nên còn gọi là người có bộ mặt “chim”.
Ngày nay hội chứng được xác định là do đột biến gen
trên các nhiễm sắc thể số 2, 11 hoặc 17 [3]. SPR thường
xuất hiện lẻ tẻ ngẫu nhiên trong cộng đồng nhưng cũng
có khoảng 10-15% các ca có tính gia đình.
Trong quá trình phát triển, vào khoảng tuần thứ 7
tới tuần thứ 11 bào thai, xương hàm dưới ngừng phát
triển, cằm chỉ ngang mức khớp ức đòn và nằm cao hơn
so với bình thường, dẫn tới lưỡi bị giữ ở vị trí cao và ra
sau hơn, vòm miệng không đóng được và hở dạng hình
chữ U, đường thở trên bị hẹp do lưỡi chèn ép, mềm
sụn thanh quản, dẫn tới tiếng thở khó và thở rít giống
tiếng mèo kêu [1]. Trí não và thể chất của trẻ sẽ phát
triển bình thường nếu được chăm sóc tốt.
Các triệu chứng trên gây cho trẻ khó thở, khó ăn,
mục tiêu của điều trị là tránh tắc nghẽn đường thở và
cung cấp đủ chất dinh dưỡng.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp hội chứng
Pierre Robin được phát hiện khá muộn nhằm đưa ra
kinh nghiệm chẩn đoán và giới thiệu hướng chăm sóc,
điều trị.
II. GIỚI THIỆU BỆNH ÁN
Bệnh nhân nữ 4 tuổi là con thứ hai, vào viện khám
vì bất thường cằm nhỏ.
Tiền sử gia đình, có bố đẻ công tác ở vùng nhiễm
chất độc da cam, hiện tại sức khỏe bình thường. Mẹ đẻ
không có bệnh lý gì đặc biệt, có con đầu 6 tuổi dị tật bại
não bẩm sinh. Thai nghén lần 2 đi siêu âm nhiều lần,
tới tháng thứ 8 phát hiện thai có dị tật cằm nhỏ, không
quyết định bỏ thai. Sau sinh có xét nghiệm nhiễm sắc
thể không phát hiện gì đặc biệt.
Lâm sàng có dị tật cằm nhỏ: xương hàm dưới nhỏ,
cằm tụt vào trong và lên trên so với vị trí bình thường,
hở hàm ếch, ăn uống không ho, sặc, không khó thở.
Trí tuệ và thể chất phát triển bình thường. Khám hệ cơ
xương khớp bình thường.
Xét nghiệm công thức máu và sinh hóa bình
thường. Xét nghiệm di truyền không thấy bất thường
nhiễm sắc thể, chưa làm xét nghiệm gen.
Chẩn đoán hình ảnh: siêu âm ổ bụng không thấy
bất thường các cơ quan trong ổ bụng. Chụp Cắt lớp
vi tính sọ não: hình thái hai bán cầu và các cấu trúc
bình thường, không teo não, không ứ nước não thất.
Cắt lớp vi tính hàm mặt: xương hàm dưới teo nhỏ,
lưỡi tụt về phía sau, cung răng dưới tụt vào trong so
với cung răng trên gây khớp cắn lệch. Xương khẩu
cái liên tục. Trên hình ảnh tái tạo theo mặt phẳng
đứng dọc có hẹp nhẹ đường dẫn khí. Tái tạo xương
đá hai bên: xoang chũm và tai giữa chứa dịch, chuỗi
xương con không thấy bị tổn thương. Các xương
khác vùng hàm mặt không thấy bất thường. Răng:
các mầm răng vĩnh viễn, các răng sữa mọc không
cân xứng hai bên.
Nội soi tai mũi họng thấy có hình ảnh hở vòm dạng
chữ U.
III. BÀN LUẬN
1. Lịch sử
Lannelonguen và Menard là người đầu tiên mô
tả bệnh trên hai bệnh nhân năm 1891 với các biểu
hiện cằm nhỏ, hở vòm. Vào năm 1926, nhà phẫu thuật
người Pháp, Pierre Robin đã mô tả được một cách đầy
đủ bộ ba triệu trứng của hội chứng này trên một bài báo
chính thức [1]. Thuật ngữ “sequence” được sử dụng vì
hầu hết triệu chứng còn lại đều là thứ phát do một dị tật
là xương hàm dưới teo nhỏ. Ngày nay, các tác giả trên
thế giới đã chứng minh được hội chứng Pierre Robin
có thể mắc đơn thuần hoặc phối hợp nhiều hội chứng dị
tật bẩm sinh khác [3]. Trường hợp của chúng tôi có bố
sống một thời gian ở vùng có chất độc da cam. Liệu có
liên quan đến biến đổi nhiễm sắc thể? Cần xét nghiệm
thêm về gen mới xác định được (xét nghiệm nhiễm sắc
thể chưa phát hiện được bất thường).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013464
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Chẩn đoán hội chứng Pierre Robin
Bệnh nhân có hội chứng Pierre Robin cần được
thăm khám và đánh giá một cách đầy đủ các dị tật để
có hướng điều trị tốt nhất.
Về thời gian chẩn đoán, hội chứng Pierre Robin
có thể chẩn đoán được ở giai đoạn ba tháng cuối của
thời kỳ bào thai trên siêu âm với dấu hiệu hàm dưới
nhỏ, cằm không phát triển quá mặt phẳng qua khớp ức
đòn. Thăm khám sau sinh có thể phát hiện dễ dàng bộ
ba dị tật. Theo M. Entezami [5], bệnh có thể chẩn đoán
sớm nhất ở giai đoạn 2 của thai kỳ. Rotten nghiên cứu
12 thai nhi tuần từ 18 tới 28 [9] bằng cách đo góc mặt –
trán đo trên hướng cắt đứng dọc. Tác giả nhận thấy góc
mặt – trán có giá trị khoảng 65,5o ± 8,13 o ở thai bình
thường và < 50o ở thai có tật cằm nhỏ với độ nhạy và
độ đặc hiệu gần bằng 1 (hình 1).
A B
Hình 1. A: góc mặt–trán ở thai bình thường. B: Góc mặt-trán ở thai có dị tật cằm nhỏ
Góc mặt - trán là góc giữa đường thẳng vuông góc với mặt phẳng trán đi qua gốc xương mũi và đường thẳng
tiếp xúc với môi, cằm.
Ngoài ra tác giả so sánh độ rộng giữa hàm dưới/hàm trên (MD/MX). Chẩn đoán dương tính nếu MD/MX
<0.785.
A B
Hình 2.
A: Hình cắt ngang qua cung răng trên (thấy huyệt răng nanh), kẻ đoạn thẳng 10mm qua điểm giữa cung
răng trên về phía sau, MX là khoảng cách giữa hai bản ngoài xương hàm trên đi vuông góc qua điểm sau của
đoạn thẳng trên.
B: Hình cắt ngang qua cung răng dưới, MD được đo tương tự như trên. Hai cách đo này được coi là tiêu
chuẩn chẩn đoán xác định trên siêu âm thai.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013 465
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Sau sinh, bệnh được chẩn đoán khá dễ dàng bằng thăm khám lâm sàng phát hiện bộ ba dị tật. Chúng tôi tiến
hành chụp cắt lớp vi tính với độ dày lát cắt 1mm từ cằm tới da vùng đỉnh đầu ở bệnh nhân này, tái tạo ảnh theo các
mặt phẳng và theo không gian ba chiều nhằm chẩn đoán đầy đủ các bất thường vùng hàm mặt (hình 3).
Hình 3. Bệnh nhân có dị tật cằm nhỏ do xương hàm dưới thiểu sản
Về đánh giá hẹp đường thở và chức năng hô hấp rất quan trọng. Hẹp đường thở nguyên nhân do lưỡi bị đẩy
về phía sau và lên trên, biểu hiện bằng khó thở, tím tái. Cần đặc biệt chú ý khi bệnh nhân ngủ trong tư thế nằm ngửa,
cơ lưỡi giảm trương lực và chèn về phía sau sát với vòm họng, do vậy tiếng thở của bệnh nhân khi ngủ giống tiếng
mèo kêu, thậm chí có thể ngạt thở khi ngủ [4]. Chụp cắt lớp vi tính dựng hình theo mặt phẳng đứng dọc với tư thế
bệnh nhân nằm ngửa có thể cho phép đo được khoảng cách giữa gốc lưỡi và thành sau vòm họng. Bệnh nhân trên
không có biểu hiện khó thở, nhưng trên phim chụp CLVT thấy có dấu hiệu hẹp nhẹ đường thở trên (hình 4).
A B
Hình 4. A: Hình tái tạo theo mặt phẳng đứng dọc của bệnh nhân trên (cho phép đánh giá mức độ hẹp đường thở
trên ở tư thế nằm ngửa): có hẹp nhẹ đường thở sau gốc lưỡi kèm theo thiếu sót khẩu cái mềm.B: Hình ảnh các
cấu trúc của khoang hầu họng bình thường.
Về dị tật hở hàm ếch: nguyên nhân do lưỡi bị đẩy về phía sau và lên trên, dẫn tới khẩu cái mềm không đóng
được ở thời kỳ bào thai. Chính vì vậy dị tật hở hàm ếch kiểu chữ U thường gặp hơn kiểu chữ V. Hở hàm ếch dẫn tới
tình trạng khó khăn trong việc bú sữa của trẻ, bệnh nhân thường bú yếu và dễ bị ho sặc. Tình trạng khó thở cũng
tăng lên khi bệnh nhân bú sữa và trẻ phải gắng sức hơn. Ở trẻ lớn, do phối hợp khớp cắn lệch nên bệnh nhân gặp
khó khăn trong việc nhai, nghiền và nuốt thức ăn. Từ đó trẻ có thể bị thiếu dinh dưỡng, nếu kéo dài sẽ dẫn tới suy
dinh dưỡng. Chẩn đoán dị tật hở hàm ếch khá đơn giản dựa vào khám và nội soi tai mũi họng.
Về thính giác: khoảng 60% trẻ có biểu hiện nghe kém, nguyên nhân do dị tật hở hàm ếch dẫn tới viêm tắc vòi
Eustachian, tụ dịch trong tai giữa, lâu dài dẫn tới viêm tai giữa mạn tính. Chẩn đoán tổn thương tai giữa dựa trên
thăm khám lâm sàng, đo thính lực và phim chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao, tái tạo hình ảnh theo mặt phẳng
ngang và đứng ngang. Trong tai giữa và xoang chũm thường chứa nhiều dịch dẫn tới giảm thính lực. Đây là môi
trường lý tưởng cho nhiễm trùng, quá trình viêm thường diễn ra lặp đi lặp lại nhiều lần (hình 5).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013466
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 5. Hình ảnh tụ dịch trong tai giữa hai bên
Vấn đề về phát âm: do bệnh nhân có hở hàm ếch
nên phát âm mũi, nếu hở lớn có thể dẫn tới phát âm
không rõ. Cùng với vấn đề về thính giác nên bệnh nhân
thường chậm nói, ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn
ngữ và khả năng giao tiếp kém.
Bệnh nhân của chúng tôi có biểu hiện tụ dịch trong
tai giữa và xoang chũm hai bên, chức năng nghe kém
và hiện tại chưa biết nói.
Về phát triển trí tuệ: Bệnh nhân SPR có thể phát
triển trí tuệ bình thường nếu không bị thiếu oxy và dinh
dưỡng ở giai đoạn sau sinh.
Bất thường về răng: Bệnh nhân SPR thường có
các bất thường về vị trí răng và khớp cắn bị lệch. Tuy
nhiên không nên can thiệp quá sớm, bệnh nhân cần
được khám chuyên khoa răng hàm mặt và chỉnh nha
khi trẻ đủ lớn (hình 6).
Hình 6. Hình ảnh bất thường khớp cắn lệch và vị trí răng.
Về chẩn đoán các hội chứng phối hợp [8]:
Thông thường SPR đơn thuần thường gặp nhất
chiếm khoảng 50% các trường hợp tuy nhiên để chẩn
đoán xác định SPR đơn thuần nên đợi khoảng 12 tháng
sau khi trẻ ra đời do có thể xuất hiện các bất thường
khác muộn hơn.
Hội chứng Stickler (khoảng 18% các trường hợp).
Ngoài các dấu hiệu về hàm mặt của chuỗi các triệu
chứng Pierre Robin, trong hội chứng Stickler, bệnh
nhân còn mắc một số các bất thường khác:
- Mũi tẹt: mũi nhỏ, xương sống mũi dẹt hơn so với
bình thường.
- Bất thường về mắt: cận thị, đục thủy tinh thể, tăng
nhãn áp, bong võng mạc.
- Bất thường về xương khớp: biên độ khớp rộng,
viêm xương khớp, ngón tay dài, vẹo cột sống.
Các triệu chứng trên nặng hoặc nhẹ tùy từng bệnh
nhân và độ tuổi khác nhau.
Hội chứng DiGeorge (7-15% các trường hợp) do
đột biến nhiễm sắc thể 22 [3]. Các dị tật thường gặp là
dị tật tim, bất thường hàm mặt, bất sản tuyến giáp, hở
hàm ếch, hội chứng giảm canxi máu và hội chứng suy
cận giáp.
Bệnh nhân của chúng tôi thuộc nhóm Pierre Robin
đơn thuần, không có các dị tật khác phối hợp.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013 467
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Về mức độ nặng của bệnh, theo một số tác giả [4]:
Độ 1: Khoảng ¼ số trẻ mắc bệnh ở mức độ 1,
không có biểu hiện khó thở nhưng có biểu hiện thở rít.
Trào ngược dạ dày thực quản nhẹ.
Độ 2: 2/3 mắc bệnh ở mức độ 2. Khó thở nhẹ và
thường có viêm nhiễm đường hô hấp. Bệnh nhân nhai
và nuốt khó khăn, trào ngược dạ dày thực quản thường
xuyên.
Độ 3: Thường xuyên khó thở, xuất hiện từ khi mới
sinh, biểu hiện tím tái. Bệnh nhân thường không nhai
và nuốt được, trào ngược dạ dày thực quản mức độ
nặng và thường xuyên.
Như vậy, phân chia mức độ nặng của hội chứng
Pierre Robin chủ yếu dựa vào tình trạng hô hấp và dinh
dưỡng của bệnh nhân nhằm mục đích tiên lượng. Việc
điều trị cũng chủ yếu ưu tiên cải thiện các triệu chứng
này.
3. Về điều trị
Cải thiện chức năng hô hấp, theo tác giả Van den
Elzen[4], có tới 52/74 các trường hợp cần các phương
pháp hỗ trợ hô hấp. Đơn giản nhất là tư thế ngủ nằm
sấp hoặc nằm nghiêng giúp cho đường thở thông
thoáng hơn, đa số các bệnh nhân có đáp ứng tốt với
việc thay đổi tư thế ngủ. Một số trường hợp phải khâu
treo lưỡi ra trước. Mở khí quản được chỉ định khi bệnh
nhân khó thở nặng, không đáp ứng với các phương
pháp trên, tuy nhiên việc chăm sóc đường mở khí quản
khó thực hiện tại nhà và nguy cơ nhiễm khuẩn đường
hô hấp rất cao.
Cải thiện dinh dưỡng: Ở các trẻ sơ sinh với biểu
hiện bú kém, không đủ cân so với tuổi, việc đặt sonde
dạ dày và bơm sữa là biện pháp tạm thời, nếu cần phải
mở thông dạ dày cho ăn tới khi bệnh nhân được 1-2
tuổi. Phương pháp tạo hình xương hàm dưới sau đó có
thể được tiến hành vừa nhằm mục đích thẩm mỹ, vừa
cải thiện chức năng nhai và nuốt thức ăn.
Điều trị các bất thường vùng hàm mặt [6,7] :
Phẫu thuật hở vòm họng khi trẻ đủ cân nặng giúp
giảm ho sặc khi ăn và giảm viêm tai giữa, phục hồi khả
năng phát âm và nghe.
Phẫu thuật tạo hình xương hàm dưới bằng dụng
cụ đặc biệt [7] giúp tạo hình thẩm mỹ, đồng thời cải
thiện các triệu chứng trên. Phương pháp này thường
được thực hiện ở giai đoạn 1 hoặc 2 tuổi. Sau khi chụp
cắt lớp vi tính, tái tạo xương hàm dưới, ta có thể thiết kế
được dụng cụ phù hợp nhất với từng bệnh nhân giúp
việc tạo hình đạt hiệu quả tối ưu. Phương pháp này đã
được thực hiện khá phổ biến ở các nước phát triển tuy
nhiên chi phí lớn nên hiện nay chưa triển khai được ở
Việt Nam [hình 7].
Hình 7. Dụng cụ tạo hình xương hàm dưới.
IV. KẾT LUẬN
Hội chứng Pierre Robin là một chuỗi các dị dạng
bẩm sinh hiếm gặp, do xương hàm dưới không phát
triển. Việc chẩn đoán đầy đủ các dị tật nhằm mục đích
lập phương án điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Phương
pháp chụp cắt lớp vi tính mỏng và tái tạo hình ảnh theo
các mặt phẳng khác nhau có thể chẩn đoán được hầu
hết các dị tật vùng hàm mặt - sọ não.
Điều trị bệnh nhân Pierre Robin nhằm mục đích
đảm bảo đường thở thông thoáng và dinh dưỡng tốt.
Giai đoạn dưới 1 tuổi cần điều trị tạm thời, sau 1 tuổi
khi trẻ đủ cân nặng có thể phẫu thuật chỉnh sửa hàm
mặt nhằm cải thiện chức năng và thẩm mỹ cho bệnh
nhân. Trẻ có thể phát triển trí não và thể chất bình
thường.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 11 - 4 / 2013468
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Pierre Robin (1923). “La glossoptose. Son
diagnostic, ses consequences, son traitement”. Journal
de médecine de Paris, 43: 235-237.
2. Pierre Robin syndrome. Dorland’s Medical
Dictionary.
3. Jakobsen LP, Knudsen MA, Lespinasse J, et
al (2006). ”The genetic basis of the Pierre Robin
Sequence”. Cleft Palate Craniofac. J. 43 (2): 155–159.
4. Van den Elzen AP et al (2001). “Diagnosis
and treatment of the Pierre Robin sequence: results
of a retrospective clinical study and review of the
literature”. Eur. J. Pediatr. 160 (1): 47–53.
5. Michael Entezami et al, “Ultrasound Diagnosis
of Fetal Anormalies” Thieme . 44 (2): 35-39
6. Jose O, Atonio M (2001), “Surgical management
of Pierre Robin sequence by Beverli Douglas technique.
Case report” Biosci J. V.17, n.1, p.17-23.
7. Sesenna et al, 2012. “Mandibular distraction
in neonates :indications, technique, results”.
ItalianJournalofPediatrics, 38:7.
8. Adele .K.E et al(2006), ‘Robinsequence:A
retrospective review of 115 patients’ International
Journal of Pediatric Otorhinolaryngology 70,973—980
9. Rotten D et al (2002), “The fetal mandible: a
2D and 3D sonographic approach to the diagnosis of
retrognathia and micrognathia’. Ultrasound Obstet
Gynecol 2002; 19: 122–130.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Hội chứng Pierre Robin được coi như hội chứng hiếm gặp ở thai nhi. Nó được thể hiện với tam chứng cổ điển là
cầm nhỏ, lưỡi bị đẩy ra sa và hở hàm ếch, có thể thấy trên chụp cắt lớp vi tính. Trường hợp đã gặp được mô tả cùng
với tham khảo y văn về tất cả những dấu hiệu của dị tật này để chẩn đoán và thể hiện tính hiệu quả của nó.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hoi_chung_pierre_robin_nhan_mot_truong_hop.pdf