Hồi lưu chảy máu tinh hoa chất xám: Tiền đề giải quyết tình trạng thiếu lao động lành nghề của châu Âu

Kế sách mới ứng phó với chảy máu chất xám Trong hơn nửa thế kỷ, các nhà hoạch định chính sách châu Âu đã phớt lờ vấn đề chảy máu chất xám, chỉ dựa vào các nhân tố bên ngoài để ổn định và hồi lưu đoàn quân tinh hoa nhân tài rời khỏi châu Âu. ở giai đoạn làn sóng tái thiết, Thủ tướng Anh Harold Wilson hứa sẽ triển khai các sáng kiến nhằm chặn đứng sự ra đi của nhân tài, nhưng lại rút lời khi kinh tế Mỹ bắt đầu sa sút (Harold Wilson, 1963). Trong làn sóng Internet, sự đổ vỡ của bong bóng Internet, cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9 và những hy vọng lạc quan về một liên minh tiền tệ mới thành lập một lần nữa đã hồi hương dòng chất xám di cư. Do đó chưa áp dụng những cải cách sâu rộng để giữ chân những tinh hoa nhân tài. Nhưng châu Âu không thể xem nhẹ vấn đề này được nữa. Tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề tạo ra cơ hội để giữ chân và tái thu hút nhân tài trong nước bằng cách kích cầu đối với lao động có tay nghề cao và các học giả có học vị cao. Nếu chính phủ các quốc gia và các định chế châu Âu không triệt để cải tổ toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội, nhân tài sẽ tiếp tục hướng ngoại để hiện thực hóa tiềm năng của mình, điều này làm cho tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề càng trầm trọng hơn và chắc chắn sẽ gạt châu Âu ra khỏi vũ đài kinh tế và chính trị thế giới trong tương lai

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hồi lưu chảy máu tinh hoa chất xám: Tiền đề giải quyết tình trạng thiếu lao động lành nghề của châu Âu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồi lưu chảy mỏu tinh hoa chất xỏm: Tiền đề giải quyết tỡnh trạng thiếu lao động lành nghề của chõu Âu (tiếp theo và hết) Edoardo Campanella (2015), “Reversing the elite brain drain: A firt step to address Europe’s skills shortage”, Journal of International Affairs, Spring/Summer 2015, Vol. 68, No.2, pp.195-209. Tôn Quang Hòa dịch Tóm tắt: Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, làn sóng chảy máu chất xám với c−ờng độ khác nhau tùy theo thời điểm và quốc gia đã làm châu Âu phải nhiều lần khốn đốn. Tuy nhiên, sự thất thoát nguồn vốn con ng−ời này ít khi đ−ợc chuyển hóa thành trao đổi chất xám hoặc đ−ợc bù đắp bằng nguồn nhân tài n−ớc ngoài nhập c− t−ơng xứng. Giờ đây, cách mạng kỹ thuật số và công cuộc tái cấu trúc kinh tế, hệ lụy của khủng hoảng triền miên trong khu vực Eurozone đang khiến cái giá phải trả cho những tổn thất về nguồn vốn con ng−ời ngày càng tăng. Điều này tạo ra sự thiếu hụt lao động lành nghề, làm suy yếu năng lực cạnh tranh toàn cầu của châu Âu. Đến nay, ủy ban châu Âu (EC) đã có những b−ớc đi nới lỏng chính sách nhập c− nhằm thu hút ng−ời n−ớc ngoài có tay nghề cao từ các khu vực trên thế giới. Tuy vậy, phân tích quá khứ thấu đáo chỉ ra rằng đã đến lúc các chính phủ châu Âu phải thu hút những nhân tài ra đi quay trở lại. Các chính sách tập trung vào hồi h−ơng, chứ không phải nhập c−, sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế và chính trị(*). Không tuần hoàn cũng chẳng trao đổi chất xám(*) Ai cũng biết cái giá của những dòng nhân tài di c− (Simon Commander, Mari Kangasniemi, Alan Winters, 2002, tr.235-278). Chúng làm kiệt quệ nguồn vốn con ng−ời, suy giảm tiềm (*) Bài báo thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phản ánh quan điểm của bất kỳ công ty nào hoặc nơi tuyển dụng mà tác giả đang công tác. năng tổng thể (xét về mặt kinh tế) của một nền kinh tế và xói mòn tiến trình đổi mới. Đối với những chính phủ bao cấp hoặc tài trợ toàn phần cho hệ thống giáo dục thì cần phải nói đến những thiệt hại vật chất. Mỗi lao động lành nghề rời khỏi châu Âu thể hiện một khoản đầu t− thất bại - nhất là khi không đ−ợc thay thế bằng một ng−ời nhập c− có trình độ t−ơng đ−ơng. Ví dụ 50 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 nh− ở Italia, đối với một ng−ời hoàn thành con đ−ờng học tập, Chính phủ mất một khoản chi phí khoảng 500.000 Euro cho mỗi sinh viên tốt nghiệp đại học khi họ di c− ra n−ớc ngoài (Simona Milio et al., 2012, tr.28). Tuy nhiên, ít nhất là trên lý thuyết, chảy máu chất xám không hẳn là mối quan ngại. Năm 2007, tạp chí Nature thậm chí còn ngợi ca hiện t−ợng này, nhấn mạnh rằng đây là tín hiệu tích cực cho những n−ớc có ng−ời di c− (“In Praise of the ‘Brain Drain’”, Nature 446, tháng 3/2007, tr.23; Jacques Gaillard, Anne Marie Gaillard, 1997, tr.195-228). ở chừng mực nào đó, nếu hệ thống kinh tế-xã hội thay đổi triệt để, những ng−ời ra đi có thể hồi h−ơng, thúc đẩy chuyển giao các công nghệ mới, áp dụng những mô hình kinh doanh thành đạt phù hợp với điều kiện trong n−ớc của quê h−ơng mình hoặc khuyến khích trao đổi chất xám có hiệu quả với nguồn nhân lực quốc tế (Edoardo Campanella, 2014). ở phạm vi toàn cầu, những kỹ s− ấn Độ và Israel là các ví dụ điển hình cho tuần hoàn chất xám, họ đã góp phần xây dựng ngành công nghệ thông tin trở nên thịnh v−ợng sau khi trở về quê nhà. Nh−ng ở châu Âu, nhân tài ra đi thì ít khi trở lại, hoặc là họ di c− khi đã ở phía cuối con đ−ờng sự nghiệp, khi mà họ không còn nhiều khả năng ảnh h−ởng tích cực đến cơ chế. Điều này đặc biệt đúng ở những quốc gia đang cần nguồn vốn con ng−ời nh− Nam Âu, nơi tỷ lệ ng−ời di c− trở về ở mức d−ới 20% (Ahmed Tritah, 2008, tr.24-28). Nhìn chung, ng−ời di c− trở về đã giảm xuống trong 3 thập kỷ gần đây trên toàn châu lục, trừ V−ơng quốc Anh (Ahmed Tritah, 2008, tr.24-26). Điều này thật đáng tiếc bởi các nhà khoa học và chuyên gia trở về th−ờng có năng suất lao động và trình độ cao hơn những ng−ời ở lại trong n−ớc (OECD, 2013, tr.134-135). Mặt khác, nếu những nhân tài di c− sẵn lòng trở về quê h−ơng mình, việc hình thành những định chế chính thức hoặc không chính thức để thu hút các nhóm nhân tài xa xứ có thể sẽ tạo điều kiện cho những ng−ời di c− và đồng nghiệp trong n−ớc đối thoại với nhau, tạo nên những tín hiệu tích cực cho n−ớc nhà. Những ng−ời xa xứ có thể trở thành chủ l−u dẫn dắt dòng thông tin và trí tuệ quay trở lại quê nhà. Nh−ng nếu châu Âu không có chính sách phù hợp để thu hút các nhân tài xa xứ, Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 51 những ng−ời di c− châu Âu th−ờng thoát ly khỏi công việc nội bộ của châu Âu (Frédéric Docquier, Hillel Rapoport, 2012, tr.725). Tất nhiên, các n−ớc phát triển giải quyết tốt hơn các n−ớc mới nổi trong vấn đề thay thế nguồn chất xám đã di c− bằng những nhân tài nhập c− từ n−ớc ngoài. Nh−ng nếu điều kiện trong n−ớc không tối −u đối với lao động bản địa, ng−ời n−ớc ngoài chắc chắc sẽ thăm dò những nơi khác để tìm ra các cơ hội hấp dẫn hơn. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), khoảng 28% ng−ời nhập c− vào châu Âu có trình độ đại học so với 31% ở Hoa Kỳ, nơi 40% tổng số ng−ời nhập c− từ các quốc gia OECD có trình độ đọc thông viết thạo và tính toán giỏi nhất đang c− trú (Jean-Christophe Dumont, 2014). Chỉ có Ireland và V−ơng quốc Anh có tỷ lệ gần 30% hoặc hơn (Frédéric Docquier and Hillel Rapoport, 2012, tr.713-714). Nh− đã trình bày ở Hình 2, thể hiện chất l−ợng các nhà khoa học nhập c− và di c−, hầu hết các n−ớc châu Âu đều thu hút các nhà nghiên cứu ít nổi tiếng hơn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ so với những nhà khoa học di c−. Xem xét dòng nhập c− và di c− của các học giả qua lại giữa các quốc gia OECD trong những năm 1996-2011, châu Âu trở thành nơi “chuyên cung cấp” các nhà nghiên cứu cho cả thế giới tiến bộ còn lại. Trong giai đoạn này, khoảng 42.000 nhà khoa học châu Âu đã di c− đến Hoa Kỳ, Canada hoặc Australia và chỉ có 31.000 nhà khoa học từ những n−ớc này nhập c− vào châu Âu. Nh−ng điều đáng lo ngại hơn là, châu Âu không có khả năng thu hút nhân tài từ các n−ớc đang phát triển. Năm 2000, khoảng 20% lao động nhập c− lành nghề từ các n−ớc đang phát triển sinh sống tại EU, trong khi khoảng 1/3 trong số đó đã tiếp tục di c− sang Hoa Kỳ, Australia hoặc Canada (Frédéric Docquier, Olivier Lohest, Abdeslam Marfouk, 2007, tr.198). Những khác biệt này đ−ợc cho là do sức hấp dẫn tổng hợp của một hệ thống cụ thể cũng nh− các chính sách nhập c− đặc thù ở cấp quốc gia trong hệ thống đó. Trong nhiều thập kỷ, Australia, Hoa Kỳ và Canada đã áp dụng các chính sách nhập c− có sàng lọc để thu hút những ng−ời có trình độ cao nhất, trong khi châu Âu th−ờng tập trung nhiều hơn đến đoàn tụ gia đình và những ng−ời tìm kiếm nơi trú thân an toàn(*) (Frédéric Docquier, Olivier Lohest, Abdeslam Marfouk, 2007, tr.197-199). Theo lời của nhà kinh tế học Giovanni Peri, trong công cuộc săn tìm nhân tài toàn cầu, Hoa Kỳ d−ờng nh− có khả năng thu hút “những ng−ời có học vị cao nhất (những ng−ời có bằng sau đại học), những ng−ời trong các lĩnh vực cạnh tranh nhất (khoa học, kỹ thuật, quản trị) và chỉ đơn giản là “đổ tiền” vào những ng−ời tài năng nhất (những ng−ời chỉ chú tâm cống hiến cho khoa học) (Giovanni Peri, 2005, tr.18). Nhập c− và hồi h−ơng Sự bất lực của châu Âu trong việc tạo ra môi tr−ờng, nơi tinh hoa trí tuệ dù là ng−ời n−ớc ngoài hay bản địa có thể tỏa sáng, chắc chắn góp phần tạo nên tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề hiện nay. Để chặn đứng chảy máu chất xám và trao đổi trí tuệ với mục (*) Để có cái nhìn tổng thể, cần l−u ý rằng nhiều thẻ xanh đ−ợc Hoa Kỳ cấp là loại đoàn tụ gia đình. Nh−ng Chính quyền Obama hiện đang xem xét nâng trần visa H-1B (cấp cho lao động lành nghề). Xem: Dhanya Ann Thoppil (2015), “H1-B Visas: Obama’s Visit Brings Hope for India’s Skilled Workers”, Wall Street Journal, 25/1/2015, l-obama-bring-more-h-1b-visas-for-indias-skilled- workers/. 52 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 đích đôi bên cùng có lợi, EU đã sửa đổi các chính sách nhập c− của mình. Với việc triển khai Ch−ơng trình Thẻ xanh từ năm 2011, châu Âu đã có ý định thu hút nhiều hơn ng−ời nhập c− có tay nghề cao. Những ng−ời ủng hộ chính sách nhập c− mới đây đã hy vọng thu hút đ−ợc 20 triệu lao động có tay nghề cao, đặc biệt là kỹ s−, các nhà hoạch định chiến l−ợc doanh nghiệp và chuyên gia công nghệ sinh học (European Parliament, 2007). Tuy nhiên tới nay, kết quả thu đ−ợc khá thất vọng. Trong năm 2012 và 2013, EU rốt cuộc cũng chỉ cấp đ−ợc ch−a đến 20.000 visa (European Commission, 2014). Con số này khó mà cải thiện đ−ợc t−ơng lai tr−ớc mắt cùng với khủng hoảng Eurozone hiện đang cản trở những ng−ời nhập c− tiềm năng vào châu Âu. Cho dù châu Âu sớm muộn gì cũng v−ợt qua đ−ợc những bất ổn kinh tế, khác biệt về ngôn ngữ, thuế má nặng nề thì hàng rào điều tiết khổng lồ ngăn cản đổi mới vẫn h−ớng dòng nhập c− có tay nghề tới những khu vực khác của thế giới. Theo Chỉ số Tài năng Toàn cầu, xếp hạng các quốc gia theo sức thu hút các nhân tài quốc tế, chỉ có các nền kinh tế Scandinavi thuộc tốp 10 dẫn đầu. Tất cả các nền kinh tế lớn khác của châu Âu đang phải tranh đấu trong “cuộc chiến săn lùng nhân tài” (Economist Intelligence Unit, 2011, tr.4-5). Hơn nữa, sự trỗi dậy của các đảng dân túy trên toàn châu Âu đang làm cho chính sách nhập c− khó chấp nhận đ−ợc về mặt chính trị. Các đảng dân túy đang nổi lên khắp nơi trên toàn châu Âu và tạo thế vững chắc ở những quốc gia chủ chốt nh− ở Pháp (Đảng Mặt trận Quốc gia), ở Đức (Đảng Sự lựa chọn khác cho n−ớc Đức) và ở V−ơng quốc Anh (Đảng Độc lập V−ơng quốc Anh) (Yascha Mounk, 2014). Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách châu Âu phải xây dựng các chính sách có khả năng tái thu hút các học giả xa xứ của mình. Hồi h−ơng không chỉ là ph−ơng sách thuyết phục hơn về mặt chính trị so với thu hút nhân tài n−ớc ngoài mà còn hiệu quả hơn về kinh tế. Do có tình cảm sâu nặng với quê h−ơng, những kiều bào hồi h−ơng th−ờng tận tâm cống hiến hơn để tăng c−ờng sự thịnh v−ợng của cộng đồng mình. Ng−ợc lại, những ng−ời nhập c− lại tranh đấu để hòa nhập với xã hội, đặc biệt là các xã hội phức tạp và đa dạng về văn hóa ở nhiều n−ớc châu Âu, và th−ờng ít tham gia vào đời sống chính trị ở n−ớc sở tại. Ngoài ra, những kiều bào hồi h−ơng còn mang về các nguồn vốn tài chính, xã hội và con ng−ời. Nhờ kinh nghiệm chuyên môn và kiến thức tích lũy đ−ợc ở n−ớc ngoài, kiều bào hồi h−ơng thúc đẩy áp dụng những công nghệ mới, khuyến khích trao đổi chất xám với cộng đồng quốc tế và góp phần xây dựng những công ty định h−ớng sáng tạo và các cơ sở nghiên cứu tầm cỡ thế giới (Edoardo Campanella, 2014). Ví dụ, cần xem xét tr−ờng hợp của hai nhà kinh tế học ng−ời Pháp hiện nay: Thomas Piketty (tác giả cuốn T− bản trong thế kỷ XXI) và Jean Tirole (ng−ời đạt giải Nobel trong lĩnh vực Khoa học Kinh tế) (Tyler Cowen, 2014; Lindsay Whipp, Robin Harding, 2014). Ngoài những ý t−ởng phát triển mang tính đột phá, hai học giả này đã đóng góp vật chất để đổi mới quê h−ơng mình. Sau khi giảng dạy tại những tr−ờng đại học hàng đầu n−ớc Mỹ, cả hai nhà Sự trỗi dậy của các đảng dân túy trên toàn châu Âu đang làm cho chính sách nhập c− khó chấp nhận đ−ợc về mặt chính trị Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 53 kinh tế học trở về Pháp để hồi sinh môi tr−ờng học thuật đang ngủ quên ở đây và mở cánh cửa h−ớng ra thế giới. Piketty đã giúp thành lập Tr−ờng Đại học Kinh tế Paris, còn Tirole trở thành ng−ời sáng lập Tr−ờng Đại học Kinh tế Toulouse. Cả hai cơ sở này đều đào tạo và thu hút các giáo s− tầm cỡ thế giới, sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ làm việc và tiến hành nghiên cứu học thuật theo chuẩn cao nhất (“Toulouse v Paris: A Tale of Two French Economists and their Rival Schools”, Economist, 15/11/2014). Để tái thu hút ng−ời di c−, b−ớc đi đầu tiên và đơn giản nhất có lẽ là miễn thuế cho họ, đặc cách vị trí công tác, cho họ quyền tiếp cận tín dụng đặc biệt để xây dựng, điều hành doanh nghiệp và có chỗ đứng chính trị. Và để những biện pháp này đ−ợc bền vững, các chính sách tái hòa nhập cũng nên đ−ợc dành cho những nhóm chuyên môn và lứa tuổi đặc thù. Các kỹ s−, nhà khoa học và doanh nhân trong lĩnh vực kỹ thuật số, đặc biệt là những ng−ời d−ới 40 tuổi, th−ờng hay khởi nghiệp nhất, thúc đẩy mở rộng đ−ờng biên công nghệ của đất n−ớc và đẩy mạnh tăng tr−ởng. Nh−ng những nhà hoạch định chính sách châu Âu cũng cần tính đến sự cân bằng giữa lợi ích ngắn hạn và chi phí dài hạn của việc hồi h−ơng. Đặc biệt là, những ng−ời ch−a từng rời khỏi đất n−ớc có thể sẽ oán giận ng−ời hồi h−ơng vì những −u đãi đặc quyền mà họ đ−ợc h−ởng, thậm chí sự oán giận này có thể sẽ gây khó khăn cho đội ngũ lãnh đạo. Tuy nhiên, những lợi ích vật chất và tài chính ch−a đủ để khích lệ nhân tài di c− hồi h−ơng. Ví dụ, năm 2001, Chính phủ Italia đã áp dụng những khuyến khích về vật chất nhằm thu hút nhân tài từ ngoài n−ớc. Đến năm 2007, chỉ có 300 lao động có tay nghề cao ng−ời Italia về n−ớc trong tổng số 40.000-50.000 lao động có tay nghề cao đã di c− (Simona Milio et al., 2012, tr.32). Năm 2000, Chính phủ Anh phát động một ch−ơng trình t−ơng tự nh−ng thu đ−ợc kết quả đáng thất vọng (Simona Milio et al., 2012, tr.19-20). Nếu xét đến phẩm chất của dòng chất xám chảy máu khỏi châu Âu thì các gói thu hút bằng tài chính ch−a đủ thuyết phục để ng−ời di c− quay về. Để kiều dân hồi h−ơng hiện thực hóa toàn bộ tiềm năng của mình, phải có sự thay đổi của cả hệ thống. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách châu Âu nên dỡ bỏ hàng rào điều tiết đổi mới, quốc tế hóa các tr−ờng đại học vốn cục bộ hẹp hòi và xây dựng quan hệ đối tác công-t−. Nói chung, thái độ bảo thủ của châu Âu đối với các nhà đổi mới, những ng−ời dám mạo hiểm và những kẻ “kỳ đà cản mũi” phải đ−ợc thay đổi triệt để. Thậm chí cựu Chủ tịch EC, ngài José Manuel Barroso cũng phải chấp nhận vấn đề mang tính văn hóa này. Tại Hội nghị th−ợng đỉnh châu Âu 2020 do Hội đồng Lisbon tổ chức vào tháng 5/2014, ngài José Manuel Barroso đã tranh luận rằng, những điều chỉnh nhằm dỡ bỏ các rào cản sẽ không bao giờ có thể hồi sinh kinh tế châu Âu, trừ khi văn hóa doanh nghiệp đ−ợc thay đổi (“Entrepreneurs Picking Silicon Valley over EU”, EurActiv, 22/5/2014). Dù vậy, các n−ớc châu Âu, đặc biệt là những n−ớc trên lãnh thổ lục địa này đang thực sự cần nguồn vốn con ng−ời, sẽ phải tranh đấu để tạo ra môi tr−ờng thu hút những ng−ời đã di c−. Kế sách mới ứng phó với chảy máu chất xám Trong hơn nửa thế kỷ, các nhà hoạch định chính sách châu Âu đã phớt lờ vấn đề chảy máu chất xám, chỉ dựa vào các nhân tố bên ngoài để ổn định và hồi l−u đoàn quân tinh hoa nhân tài rời khỏi châu Âu. ở giai đoạn làn sóng tái thiết, 54 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 Thủ t−ớng Anh Harold Wilson hứa sẽ triển khai các sáng kiến nhằm chặn đứng sự ra đi của nhân tài, nh−ng lại rút lời khi kinh tế Mỹ bắt đầu sa sút (Harold Wilson, 1963). Trong làn sóng Internet, sự đổ vỡ của bong bóng Internet, cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9 và những hy vọng lạc quan về một liên minh tiền tệ mới thành lập một lần nữa đã hồi h−ơng dòng chất xám di c−. Do đó ch−a áp dụng những cải cách sâu rộng để giữ chân những tinh hoa nhân tài. Nh−ng châu Âu không thể xem nhẹ vấn đề này đ−ợc nữa. Tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề tạo ra cơ hội để giữ chân và tái thu hút nhân tài trong n−ớc bằng cách kích cầu đối với lao động có tay nghề cao và các học giả có học vị cao. Nếu chính phủ các quốc gia và các định chế châu Âu không triệt để cải tổ toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội, nhân tài sẽ tiếp tục h−ớng ngoại để hiện thực hóa tiềm năng của mình, điều này làm cho tình trạng thiếu hụt lao động lành nghề càng trầm trọng hơn và chắc chắn sẽ gạt châu Âu ra khỏi vũ đài kinh tế và chính trị thế giới trong t−ơng lai  Tài liệu trích dẫn 1. Ahmed Tritah (2008), “The Brain Drain between Knowledge-Based Economies: the European Human Capital Outflow to the US”, Working paper No.8, Centre d’études Prospectives et d’Informations Internationales, Paris, /wp2008-08.pdf 2. Economist Intelligence Unit (2011), The Global Talent Index: The Outlook to 2015, Heidrik, Struggles, London, /sites/default/files/downloads/GTI %20FINAL%20REPORT%205.4.1 1.pdf 3. Edoardo Campanella (2014), “Come Home, Europeans”, Foreign Affairs (16/10/2014), foreignaffairs.com/articles/142218/e doardo-campanella/come-home- europeans 4. “Entrepreneurs Picking Silicon Valley over EU”, EurActiv, 22/5/2014, sections/innovation- enterprise/entrepreneurs-picking- silicon-valley-over-eu-says-barroso- 302315 5. European Commission (2014), Communication from the Commission to the European Parliament and the Council on the Implementation of Directive 2009/50/EC on the Conditions of Entry and Residence of Third- country Nationals for the Purpose of Highly Qualified Employment, EC, Brussels, 5/2014, dgs/home- affairs/e- library/documents/policies/immigra tion/work/docs/communication_on_ the_blue_ card_directive_en.pdf 6. European Parliament (2007), “European ‘Blue Card’ to Solve Problem of Aging Population?”, (26/11/2007), es/getDoc.do?pubRef=- //EP//TEXT+IM-PRESS+ 20070921STO10548+0+DOC+XM L+V0//EN 7. Frédéric Docquier, Olivier Lohest, Abdeslam Marfouk (2007), “Brain Drain in Developing Countries”, Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 55 World Bank Economic Review 21, No.2 (5/2007). 8. Frédéric Docquier, Hillel Rapoport (2012), “Globalization, Brain Drain and Development”, Journal of Economic Literature 50, No.3. 9. Giovanni Peri (2005), “Skills and Talent of Immigrants: a Comparison between the European Union and the United States”, working paper AY0503-4, Institute of European Studies, UC Berkeley, Berkeley, CA, 4/3/2005. 10. Harold Wilson (1963), “The White Heat of the Technological Revolution”, speech, Labour Party Conference, Scarborough, United Kingdom, 1/10/1963. 11. “In Praise of the ‘Brain Drain’”, Nature 446 (15/3/2007). 12. Jacques Gaillard, Anne Marie Gaillard (1997), “The International Mobility of Brains: Exodus or Circulation”, Science Technology Society 2, No.2. 13. Jean-Christophe Dumont (2014), “Recent Trends and Future Challenges in the Global Competition for Skills”, presentation at the World Education Service 40th Anniversary Forum: The Global Talent Agenda, New York, 10/2014, Christophe-Dumont@WES-40th- Forum.pdf 14. Lindsay Whipp, Robin Harding (2014), “Jean Tirole: 5 things to Know about Nobel Prize winner’s Work”, Financial Times, 13/10/2014, cms/s/0/01bc3910-52ca-11e4-a236- 00144feab7de.html#axzz3R6wu15n8 15. Rosalind S. Hunter, Andrew J. Oswald, Bruce G. Charlton (2009), “The Elite Brain Drain”, Economic Journal 119, No.538 (6/2009), ct.com/content/bpl/ecoj/2009/000001 19/00 000538/art00001 16. “Science, Technology and Industry Scoreboard 2013”, report, OECD, Paris, 2013, 2013.pdf 17. Simon Commander, Mari Kangasniemi, Alan Winters (2002), “The Brain Drain: Curse or Boon? A Survey of the Literature”, in Challenges to Globalization: Analyzing the Economics, ed. Robert Baldwin, Alan Winters, University of Chicago Press, Chicago, 18. Simona Milio et al. (2012), “Brain Drain, Brain Exchange and Brain Circulation: the Case of Italy Viewed from a Global Perspective”, working group report, Aspen Institute Italia, Rome, 3/2012, https:// www.aspeninstitute.it/en/system/f iles/private_files/2012- 05/doc/Brain%20Drain%20%28En glish%29.pdf 19. “Toulouse v Paris: A Tale of Two French Economists and their Rival Schools”, Economist (15/11/2014). 20. Tyler Cowen (2014), “Capital Punishment: Why a Global Tax on Wealth Won’t End Inequality”, Foreign Affairs 93, No.4 (5- 6/2014). 21. Yascha Mounk (2014), “Pitchfork Politics”, Foreign Affairs 93, No.5 (9-10/2014).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoi_luu_chay_mau_tinh_hoa_chat_xam_tien_de_giai_quyet_tinh_t.pdf
Tài liệu liên quan