Kế sách mới ứng phó với chảy máu chất xám
Trong hơn nửa thế kỷ, các nhà hoạch
định chính sách châu Âu đã phớt lờ vấn
đề chảy máu chất xám, chỉ dựa vào các
nhân tố bên ngoài để ổn định và hồi lưu
đoàn quân tinh hoa nhân tài rời khỏi
châu Âu. ở giai đoạn làn sóng tái thiết,
Thủ tướng Anh Harold Wilson hứa sẽ
triển khai các sáng kiến nhằm chặn
đứng sự ra đi của nhân tài, nhưng lại rút
lời khi kinh tế Mỹ bắt đầu sa sút (Harold
Wilson, 1963). Trong làn sóng Internet,
sự đổ vỡ của bong bóng Internet, cuộc
tấn công khủng bố ngày 11/9 và những
hy vọng lạc quan về một liên minh tiền
tệ mới thành lập một lần nữa đã hồi
hương dòng chất xám di cư. Do đó chưa
áp dụng những cải cách sâu rộng để giữ
chân những tinh hoa nhân tài.
Nhưng châu Âu không thể xem nhẹ
vấn đề này được nữa. Tình trạng thiếu
hụt lao động lành nghề tạo ra cơ hội để
giữ chân và tái thu hút nhân tài trong
nước bằng cách kích cầu đối với lao động
có tay nghề cao và các học giả có học vị
cao. Nếu chính phủ các quốc gia và các
định chế châu Âu không triệt để cải tổ
toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội, nhân
tài sẽ tiếp tục hướng ngoại để hiện thực
hóa tiềm năng của mình, điều này làm
cho tình trạng thiếu hụt lao động lành
nghề càng trầm trọng hơn và chắc chắn
sẽ gạt châu Âu ra khỏi vũ đài kinh tế và
chính trị thế giới trong tương lai
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hồi lưu chảy máu tinh hoa chất xám: Tiền đề giải quyết tình trạng thiếu lao động lành nghề của châu Âu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồi lưu chảy mỏu tinh hoa chất xỏm: Tiền đề 
giải quyết tỡnh trạng thiếu lao động 
lành nghề của chõu Âu 
(tiếp theo và hết) 
Edoardo Campanella (2015), “Reversing the elite brain drain: A firt 
step to address Europe’s skills shortage”, Journal of International Affairs, 
Spring/Summer 2015, Vol. 68, No.2, pp.195-209. 
Tôn Quang Hòa dịch 
Tóm tắt: Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, làn sóng chảy máu chất xám với 
c−ờng độ khác nhau tùy theo thời điểm và quốc gia đã làm châu Âu phải nhiều lần 
khốn đốn. Tuy nhiên, sự thất thoát nguồn vốn con ng−ời này ít khi đ−ợc chuyển hóa 
thành trao đổi chất xám hoặc đ−ợc bù đắp bằng nguồn nhân tài n−ớc ngoài nhập c− 
t−ơng xứng. Giờ đây, cách mạng kỹ thuật số và công cuộc tái cấu trúc kinh tế, hệ lụy 
của khủng hoảng triền miên trong khu vực Eurozone đang khiến cái giá phải trả 
cho những tổn thất về nguồn vốn con ng−ời ngày càng tăng. Điều này tạo ra sự 
thiếu hụt lao động lành nghề, làm suy yếu năng lực cạnh tranh toàn cầu của châu 
Âu. Đến nay, ủy ban châu Âu (EC) đã có những b−ớc đi nới lỏng chính sách nhập 
c− nhằm thu hút ng−ời n−ớc ngoài có tay nghề cao từ các khu vực trên thế giới. Tuy 
vậy, phân tích quá khứ thấu đáo chỉ ra rằng đã đến lúc các chính phủ châu Âu 
phải thu hút những nhân tài ra đi quay trở lại. Các chính sách tập trung vào hồi 
h−ơng, chứ không phải nhập c−, sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế và chính trị(*). 
Không tuần hoàn cũng chẳng trao đổi chất xám(*) 
Ai cũng biết cái giá của những dòng 
nhân tài di c− (Simon Commander, 
Mari Kangasniemi, Alan Winters, 
2002, tr.235-278). Chúng làm kiệt quệ 
nguồn vốn con ng−ời, suy giảm tiềm 
(*) Bài báo thể hiện quan điểm riêng của tác giả, 
không phản ánh quan điểm của bất kỳ công ty nào 
hoặc nơi tuyển dụng mà tác giả đang công tác. 
năng tổng thể (xét về mặt kinh tế) của 
một nền kinh tế và xói mòn tiến trình 
đổi mới. Đối với những chính phủ bao 
cấp hoặc tài trợ toàn phần cho hệ thống 
giáo dục thì cần phải nói đến những 
thiệt hại vật chất. Mỗi lao động lành 
nghề rời khỏi châu Âu thể hiện một 
khoản đầu t− thất bại - nhất là khi 
không đ−ợc thay thế bằng một ng−ời 
nhập c− có trình độ t−ơng đ−ơng. Ví dụ 
50 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 
nh− ở Italia, đối với một ng−ời hoàn 
thành con đ−ờng học tập, Chính phủ 
mất một khoản chi phí khoảng 500.000 
Euro cho mỗi sinh viên tốt nghiệp đại 
học khi họ di c− ra n−ớc ngoài (Simona 
Milio et al., 2012, tr.28). 
Tuy nhiên, ít nhất là trên lý thuyết, 
chảy máu chất xám không hẳn là mối 
quan ngại. Năm 2007, tạp chí Nature 
thậm chí còn ngợi ca hiện t−ợng này, 
nhấn mạnh rằng đây là tín hiệu tích cực 
cho những n−ớc có ng−ời di c− (“In 
Praise of the ‘Brain Drain’”, Nature 
446, tháng 3/2007, tr.23; Jacques 
Gaillard, Anne Marie Gaillard, 1997, 
tr.195-228). ở chừng mực nào đó, nếu 
hệ thống kinh tế-xã hội thay đổi triệt 
để, những ng−ời ra đi có thể hồi h−ơng, 
thúc đẩy chuyển giao các công nghệ mới, 
áp dụng những mô hình kinh doanh 
thành đạt phù hợp với điều kiện trong 
n−ớc của quê h−ơng mình hoặc khuyến 
khích trao đổi chất xám có hiệu quả với 
nguồn nhân lực quốc tế (Edoardo 
Campanella, 2014). ở phạm vi toàn cầu, 
những kỹ s− ấn Độ và 
Israel là các ví dụ điển 
hình cho tuần hoàn 
chất xám, họ đã góp 
phần xây dựng ngành 
công nghệ thông tin 
trở nên thịnh v−ợng 
sau khi trở về quê nhà. 
Nh−ng ở châu Âu, 
nhân tài ra đi thì ít 
khi trở lại, hoặc là họ 
di c− khi đã ở phía 
cuối con đ−ờng sự 
nghiệp, khi mà họ 
không còn nhiều khả 
năng ảnh h−ởng tích 
cực đến cơ chế. Điều 
này đặc biệt đúng ở 
những quốc gia đang 
cần nguồn vốn con ng−ời nh− Nam Âu, 
nơi tỷ lệ ng−ời di c− trở về ở mức d−ới 
20% (Ahmed Tritah, 2008, tr.24-28). 
Nhìn chung, ng−ời di c− trở về đã giảm 
xuống trong 3 thập kỷ gần đây trên 
toàn châu lục, trừ V−ơng quốc Anh 
(Ahmed Tritah, 2008, tr.24-26). Điều 
này thật đáng tiếc bởi các nhà khoa học 
và chuyên gia trở về th−ờng có năng 
suất lao động và trình độ cao hơn những 
ng−ời ở lại trong n−ớc (OECD, 2013, 
tr.134-135). 
Mặt khác, nếu những nhân tài di c− 
sẵn lòng trở về quê h−ơng mình, việc 
hình thành những định chế chính thức 
hoặc không chính thức để thu hút các 
nhóm nhân tài xa xứ có thể sẽ tạo điều 
kiện cho những ng−ời di c− và đồng 
nghiệp trong n−ớc đối thoại với nhau, 
tạo nên những tín hiệu tích cực cho 
n−ớc nhà. Những ng−ời xa xứ có thể trở 
thành chủ l−u dẫn dắt dòng thông tin 
và trí tuệ quay trở lại quê nhà. Nh−ng 
nếu châu Âu không có chính sách phù 
hợp để thu hút các nhân tài xa xứ, 
Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 51 
những ng−ời di c− châu Âu th−ờng 
thoát ly khỏi công việc nội bộ của châu 
Âu (Frédéric Docquier, Hillel 
Rapoport, 2012, tr.725). Tất nhiên, các 
n−ớc phát triển giải quyết tốt hơn các 
n−ớc mới nổi trong vấn đề thay thế 
nguồn chất xám đã di c− bằng những 
nhân tài nhập c− từ n−ớc ngoài. Nh−ng 
nếu điều kiện trong n−ớc không tối −u 
đối với lao động bản địa, ng−ời n−ớc 
ngoài chắc chắc sẽ thăm dò những nơi 
khác để tìm ra các cơ hội hấp dẫn hơn. 
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh 
tế (OECD), khoảng 28% ng−ời nhập c− 
vào châu Âu có trình độ đại học so với 
31% ở Hoa Kỳ, nơi 40% tổng số ng−ời 
nhập c− từ các quốc gia OECD có trình 
độ đọc thông viết thạo và tính toán giỏi 
nhất đang c− trú (Jean-Christophe 
Dumont, 2014). Chỉ có Ireland và V−ơng 
quốc Anh có tỷ lệ gần 30% hoặc hơn 
(Frédéric Docquier and Hillel 
Rapoport, 2012, tr.713-714). Nh− đã 
trình bày ở Hình 2, thể hiện chất l−ợng 
các nhà khoa học nhập c− và di c−, hầu 
hết các n−ớc châu Âu đều thu hút các 
nhà nghiên cứu ít nổi tiếng hơn trong 
lĩnh vực khoa học và công nghệ so với 
những nhà khoa học di c−. 
Xem xét dòng nhập c− và di c− của 
các học giả qua lại giữa các quốc gia 
OECD trong những năm 1996-2011, 
châu Âu trở thành nơi “chuyên cung 
cấp” các nhà nghiên cứu cho cả thế giới 
tiến bộ còn lại. Trong giai đoạn này, 
khoảng 42.000 nhà khoa học châu Âu 
đã di c− đến Hoa Kỳ, Canada hoặc 
Australia và chỉ có 31.000 nhà khoa học 
từ những n−ớc này nhập c− vào châu 
Âu. Nh−ng điều đáng lo ngại hơn là, 
châu Âu không có khả năng thu hút 
nhân tài từ các n−ớc đang phát triển. 
Năm 2000, khoảng 20% lao động nhập 
c− lành nghề từ các n−ớc đang phát 
triển sinh sống tại EU, trong khi 
khoảng 1/3 trong số đó đã tiếp tục di c− 
sang Hoa Kỳ, Australia hoặc Canada 
(Frédéric Docquier, Olivier Lohest, 
Abdeslam Marfouk, 2007, tr.198). 
Những khác biệt này đ−ợc cho là do sức 
hấp dẫn tổng hợp của một hệ thống cụ 
thể cũng nh− các chính sách nhập c− 
đặc thù ở cấp quốc gia trong hệ thống 
đó. Trong nhiều thập kỷ, Australia, Hoa 
Kỳ và Canada đã áp dụng các chính 
sách nhập c− có sàng lọc để thu hút 
những ng−ời có trình độ cao nhất, trong 
khi châu Âu th−ờng tập trung nhiều 
hơn đến đoàn tụ gia đình và những 
ng−ời tìm kiếm nơi trú thân an toàn(*) 
(Frédéric Docquier, Olivier Lohest, 
Abdeslam Marfouk, 2007, tr.197-199). 
Theo lời của nhà kinh tế học Giovanni 
Peri, trong công cuộc săn tìm nhân tài 
toàn cầu, Hoa Kỳ d−ờng nh− có khả 
năng thu hút “những ng−ời có học vị cao 
nhất (những ng−ời có bằng sau đại học), 
những ng−ời trong các lĩnh vực cạnh 
tranh nhất (khoa học, kỹ thuật, quản 
trị) và chỉ đơn giản là “đổ tiền” vào 
những ng−ời tài năng nhất (những 
ng−ời chỉ chú tâm cống hiến cho khoa 
học) (Giovanni Peri, 2005, tr.18). 
Nhập c− và hồi h−ơng 
Sự bất lực của châu Âu trong việc 
tạo ra môi tr−ờng, nơi tinh hoa trí tuệ 
dù là ng−ời n−ớc ngoài hay bản địa có 
thể tỏa sáng, chắc chắn góp phần tạo 
nên tình trạng thiếu hụt lao động lành 
nghề hiện nay. Để chặn đứng chảy máu 
chất xám và trao đổi trí tuệ với mục 
(*) Để có cái nhìn tổng thể, cần l−u ý rằng nhiều 
thẻ xanh đ−ợc Hoa Kỳ cấp là loại đoàn tụ gia 
đình. Nh−ng Chính quyền Obama hiện đang xem 
xét nâng trần visa H-1B (cấp cho lao động lành 
nghề). Xem: Dhanya Ann Thoppil (2015), “H1-B 
Visas: Obama’s Visit Brings Hope for India’s 
Skilled Workers”, Wall Street Journal, 25/1/2015, 
l-obama-bring-more-h-1b-visas-for-indias-skilled-
workers/. 
52 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 
đích đôi bên cùng có lợi, EU đã sửa đổi 
các chính sách nhập c− của mình. Với 
việc triển khai Ch−ơng trình Thẻ xanh 
từ năm 2011, châu Âu đã có ý định thu 
hút nhiều hơn ng−ời nhập c− có tay 
nghề cao. Những ng−ời ủng hộ chính 
sách nhập c− mới đây đã hy vọng thu 
hút đ−ợc 20 triệu lao động có tay nghề 
cao, đặc biệt là kỹ s−, các nhà hoạch 
định chiến l−ợc doanh nghiệp và chuyên 
gia công nghệ sinh học (European 
Parliament, 2007). Tuy nhiên tới nay, 
kết quả thu đ−ợc khá thất vọng. Trong 
năm 2012 và 2013, EU rốt cuộc cũng chỉ 
cấp đ−ợc ch−a đến 20.000 visa 
(European Commission, 2014). 
Con số này khó mà cải thiện đ−ợc 
t−ơng lai tr−ớc mắt cùng với khủng 
hoảng Eurozone hiện đang cản trở 
những ng−ời nhập c− tiềm năng vào 
châu Âu. Cho dù châu Âu sớm muộn gì 
cũng v−ợt qua đ−ợc những bất ổn kinh 
tế, khác biệt về ngôn ngữ, thuế má nặng 
nề thì hàng rào điều tiết khổng lồ ngăn 
cản đổi mới vẫn h−ớng dòng nhập c− có 
tay nghề tới những khu vực khác của 
thế giới. Theo Chỉ số Tài năng Toàn cầu, 
xếp hạng các quốc gia theo sức thu hút 
các nhân tài quốc tế, chỉ có các nền kinh 
tế Scandinavi thuộc tốp 10 dẫn đầu. Tất 
cả các nền kinh tế lớn khác của châu Âu 
đang phải tranh đấu trong “cuộc chiến 
săn lùng nhân tài” (Economist 
Intelligence Unit, 2011, tr.4-5). 
Hơn nữa, sự trỗi dậy của các đảng 
dân túy trên toàn châu Âu 
đang làm cho chính sách nhập 
c− khó chấp nhận đ−ợc về mặt 
chính trị. Các đảng dân túy 
đang nổi lên khắp nơi trên 
toàn châu Âu và tạo thế vững 
chắc ở những quốc gia chủ 
chốt nh− ở Pháp (Đảng Mặt 
trận Quốc gia), ở Đức (Đảng 
Sự lựa chọn khác cho n−ớc 
Đức) và ở V−ơng quốc Anh (Đảng Độc lập 
V−ơng quốc Anh) (Yascha Mounk, 2014). 
Vì vậy, các nhà hoạch định chính 
sách châu Âu phải xây dựng các chính 
sách có khả năng tái thu hút các học 
giả xa xứ của mình. Hồi h−ơng không 
chỉ là ph−ơng sách thuyết phục hơn về 
mặt chính trị so với thu hút nhân tài 
n−ớc ngoài mà còn hiệu quả hơn về 
kinh tế. Do có tình cảm sâu nặng với 
quê h−ơng, những kiều bào hồi h−ơng 
th−ờng tận tâm cống hiến hơn để tăng 
c−ờng sự thịnh v−ợng của cộng đồng 
mình. Ng−ợc lại, những ng−ời nhập c− 
lại tranh đấu để hòa nhập với xã hội, 
đặc biệt là các xã hội phức tạp và đa 
dạng về văn hóa ở nhiều n−ớc châu Âu, 
và th−ờng ít tham gia vào đời sống 
chính trị ở n−ớc sở tại. 
Ngoài ra, những kiều bào hồi h−ơng 
còn mang về các nguồn vốn tài chính, xã 
hội và con ng−ời. Nhờ kinh nghiệm 
chuyên môn và kiến thức tích lũy đ−ợc ở 
n−ớc ngoài, kiều bào hồi h−ơng thúc đẩy 
áp dụng những công nghệ mới, khuyến 
khích trao đổi chất xám với cộng đồng 
quốc tế và góp phần xây dựng những 
công ty định h−ớng sáng tạo và các cơ sở 
nghiên cứu tầm cỡ thế giới (Edoardo 
Campanella, 2014). 
Ví dụ, cần xem xét tr−ờng hợp của 
hai nhà kinh tế học ng−ời Pháp hiện 
nay: Thomas Piketty (tác giả cuốn T− 
bản trong thế kỷ XXI) và Jean Tirole 
(ng−ời đạt giải Nobel trong lĩnh vực Khoa 
học Kinh tế) (Tyler Cowen, 
2014; Lindsay Whipp, 
Robin Harding, 2014). 
Ngoài những ý t−ởng phát 
triển mang tính đột phá, hai 
học giả này đã đóng góp vật 
chất để đổi mới quê h−ơng 
mình. Sau khi giảng dạy tại 
những tr−ờng đại học hàng 
đầu n−ớc Mỹ, cả hai nhà 
Sự trỗi dậy của 
các đảng dân túy 
trên toàn châu 
Âu đang làm cho 
chính sách nhập 
c− khó chấp nhận 
đ−ợc về mặt 
chính trị 
Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 53 
kinh tế học trở về Pháp để hồi sinh môi 
tr−ờng học thuật đang ngủ quên ở đây 
và mở cánh cửa h−ớng ra thế giới. 
Piketty đã giúp thành lập Tr−ờng Đại 
học Kinh tế Paris, còn Tirole trở thành 
ng−ời sáng lập Tr−ờng Đại học Kinh tế 
Toulouse. Cả hai cơ sở này đều đào tạo 
và thu hút các giáo s− tầm cỡ thế giới, 
sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ làm 
việc và tiến hành nghiên cứu học thuật 
theo chuẩn cao nhất (“Toulouse v Paris: 
A Tale of Two French Economists and 
their Rival Schools”, Economist, 
15/11/2014). 
Để tái thu hút ng−ời di c−, b−ớc đi 
đầu tiên và đơn giản nhất có lẽ là miễn 
thuế cho họ, đặc cách vị trí công tác, cho 
họ quyền tiếp cận tín dụng đặc biệt để 
xây dựng, điều hành doanh nghiệp và có 
chỗ đứng chính trị. Và để những biện 
pháp này đ−ợc bền vững, các chính sách 
tái hòa nhập cũng nên đ−ợc dành cho 
những nhóm chuyên môn và lứa tuổi 
đặc thù. Các kỹ s−, nhà khoa học và 
doanh nhân trong lĩnh vực kỹ thuật số, 
đặc biệt là những ng−ời d−ới 40 tuổi, 
th−ờng hay khởi nghiệp nhất, thúc đẩy 
mở rộng đ−ờng biên công nghệ của đất 
n−ớc và đẩy mạnh tăng tr−ởng. Nh−ng 
những nhà hoạch định chính sách châu 
Âu cũng cần tính đến sự cân bằng giữa 
lợi ích ngắn hạn và chi phí dài hạn của 
việc hồi h−ơng. Đặc biệt là, những ng−ời 
ch−a từng rời khỏi đất n−ớc có thể sẽ 
oán giận ng−ời hồi h−ơng vì những −u 
đãi đặc quyền mà họ đ−ợc h−ởng, thậm 
chí sự oán giận này có thể sẽ gây khó 
khăn cho đội ngũ lãnh đạo. 
Tuy nhiên, những lợi ích vật chất và 
tài chính ch−a đủ để khích lệ nhân tài di 
c− hồi h−ơng. Ví dụ, năm 2001, Chính 
phủ Italia đã áp dụng những khuyến 
khích về vật chất nhằm thu hút nhân tài 
từ ngoài n−ớc. Đến năm 2007, chỉ có 300 
lao động có tay nghề cao ng−ời Italia về 
n−ớc trong tổng số 40.000-50.000 lao 
động có tay nghề cao đã di c− (Simona 
Milio et al., 2012, tr.32). Năm 2000, 
Chính phủ Anh phát động một ch−ơng 
trình t−ơng tự nh−ng thu đ−ợc kết quả 
đáng thất vọng (Simona Milio et al., 
2012, tr.19-20). Nếu xét đến phẩm chất 
của dòng chất xám chảy máu khỏi châu 
Âu thì các gói thu hút bằng tài chính 
ch−a đủ thuyết phục để ng−ời di c− quay 
về. Để kiều dân hồi h−ơng hiện thực hóa 
toàn bộ tiềm năng của mình, phải có sự 
thay đổi của cả hệ thống. 
Vì vậy, các nhà hoạch định chính 
sách châu Âu nên dỡ bỏ hàng rào điều 
tiết đổi mới, quốc tế hóa các tr−ờng đại 
học vốn cục bộ hẹp hòi và xây dựng 
quan hệ đối tác công-t−. Nói chung, thái 
độ bảo thủ của châu Âu đối với các nhà 
đổi mới, những ng−ời dám mạo hiểm và 
những kẻ “kỳ đà cản mũi” phải đ−ợc 
thay đổi triệt để. Thậm chí cựu Chủ tịch 
EC, ngài José Manuel Barroso cũng 
phải chấp nhận vấn đề mang tính văn 
hóa này. Tại Hội nghị th−ợng đỉnh châu 
Âu 2020 do Hội đồng Lisbon tổ chức vào 
tháng 5/2014, ngài José Manuel Barroso 
đã tranh luận rằng, những điều chỉnh 
nhằm dỡ bỏ các rào cản sẽ không bao giờ 
có thể hồi sinh kinh tế châu Âu, trừ khi 
văn hóa doanh nghiệp đ−ợc thay đổi 
(“Entrepreneurs Picking Silicon Valley 
over EU”, EurActiv, 22/5/2014). Dù vậy, 
các n−ớc châu Âu, đặc biệt là những 
n−ớc trên lãnh thổ lục địa này đang 
thực sự cần nguồn vốn con ng−ời, sẽ 
phải tranh đấu để tạo ra môi tr−ờng thu 
hút những ng−ời đã di c−. 
Kế sách mới ứng phó với chảy máu chất xám 
Trong hơn nửa thế kỷ, các nhà hoạch 
định chính sách châu Âu đã phớt lờ vấn 
đề chảy máu chất xám, chỉ dựa vào các 
nhân tố bên ngoài để ổn định và hồi l−u 
đoàn quân tinh hoa nhân tài rời khỏi 
châu Âu. ở giai đoạn làn sóng tái thiết, 
54 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2016 
Thủ t−ớng Anh Harold Wilson hứa sẽ 
triển khai các sáng kiến nhằm chặn 
đứng sự ra đi của nhân tài, nh−ng lại rút 
lời khi kinh tế Mỹ bắt đầu sa sút (Harold 
Wilson, 1963). Trong làn sóng Internet, 
sự đổ vỡ của bong bóng Internet, cuộc 
tấn công khủng bố ngày 11/9 và những 
hy vọng lạc quan về một liên minh tiền 
tệ mới thành lập một lần nữa đã hồi 
h−ơng dòng chất xám di c−. Do đó ch−a 
áp dụng những cải cách sâu rộng để giữ 
chân những tinh hoa nhân tài. 
Nh−ng châu Âu không thể xem nhẹ 
vấn đề này đ−ợc nữa. Tình trạng thiếu 
hụt lao động lành nghề tạo ra cơ hội để 
giữ chân và tái thu hút nhân tài trong 
n−ớc bằng cách kích cầu đối với lao động 
có tay nghề cao và các học giả có học vị 
cao. Nếu chính phủ các quốc gia và các 
định chế châu Âu không triệt để cải tổ 
toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội, nhân 
tài sẽ tiếp tục h−ớng ngoại để hiện thực 
hóa tiềm năng của mình, điều này làm 
cho tình trạng thiếu hụt lao động lành 
nghề càng trầm trọng hơn và chắc chắn 
sẽ gạt châu Âu ra khỏi vũ đài kinh tế và 
chính trị thế giới trong t−ơng lai  
Tài liệu trích dẫn 
1. Ahmed Tritah (2008), “The Brain 
Drain between Knowledge-Based 
Economies: the European Human 
Capital Outflow to the US”, 
Working paper No.8, Centre 
d’études Prospectives et 
d’Informations Internationales, 
Paris, 
/wp2008-08.pdf 
2. Economist Intelligence Unit 
(2011), The Global Talent Index: 
The Outlook to 2015, Heidrik, 
Struggles, London, 
/sites/default/files/downloads/GTI
%20FINAL%20REPORT%205.4.1
1.pdf 
3. Edoardo Campanella (2014), “Come 
Home, Europeans”, Foreign Affairs 
(16/10/2014),  
foreignaffairs.com/articles/142218/e
doardo-campanella/come-home-
europeans 
4. “Entrepreneurs Picking Silicon 
Valley over EU”, EurActiv, 
22/5/2014,  
sections/innovation-
enterprise/entrepreneurs-picking-
silicon-valley-over-eu-says-barroso-
302315 
5. European Commission (2014), 
Communication from the 
Commission to the European 
Parliament and the Council on the 
Implementation of Directive 
2009/50/EC on the Conditions of 
Entry and Residence of Third-
country Nationals for the Purpose of 
Highly Qualified Employment, EC, 
Brussels, 5/2014, 
 dgs/home-
affairs/e-
library/documents/policies/immigra
tion/work/docs/communication_on_
the_blue_ card_directive_en.pdf 
6. European Parliament (2007), 
“European ‘Blue Card’ to Solve 
Problem of Aging Population?”, 
(26/11/2007), 
es/getDoc.do?pubRef=-
//EP//TEXT+IM-PRESS+ 
20070921STO10548+0+DOC+XM
L+V0//EN 
7. Frédéric Docquier, Olivier Lohest, 
Abdeslam Marfouk (2007), “Brain 
Drain in Developing Countries”, 
Hồi l−u chảy máu tinh hoa... 55 
World Bank Economic Review 21, 
No.2 (5/2007). 
8. Frédéric Docquier, Hillel Rapoport 
(2012), “Globalization, Brain 
Drain and Development”, Journal 
of Economic Literature 50, No.3. 
9. Giovanni Peri (2005), “Skills and 
Talent of Immigrants: a 
Comparison between the 
European Union and the United 
States”, working paper AY0503-4, 
Institute of European Studies, UC 
Berkeley, Berkeley, CA, 4/3/2005. 
10. Harold Wilson (1963), “The White 
Heat of the Technological 
Revolution”, speech, Labour Party 
Conference, Scarborough, United 
Kingdom, 1/10/1963. 
11. “In Praise of the ‘Brain Drain’”, 
Nature 446 (15/3/2007). 
12. Jacques Gaillard, Anne Marie 
Gaillard (1997), “The 
International Mobility of Brains: 
Exodus or Circulation”, Science 
Technology Society 2, No.2. 
13. Jean-Christophe Dumont (2014), 
“Recent Trends and Future 
Challenges in the Global 
Competition for Skills”, 
presentation at the World 
Education Service 40th 
Anniversary Forum: The Global 
Talent Agenda, New York, 10/2014, 
Christophe-Dumont@WES-40th- 
Forum.pdf 
14. Lindsay Whipp, Robin Harding 
(2014), “Jean Tirole: 5 things to 
Know about Nobel Prize winner’s 
Work”, Financial Times, 
13/10/2014,  
cms/s/0/01bc3910-52ca-11e4-a236-
00144feab7de.html#axzz3R6wu15n8 
15. Rosalind S. Hunter, Andrew J. 
Oswald, Bruce G. Charlton (2009), 
“The Elite Brain Drain”, Economic 
Journal 119, No.538 (6/2009), 
ct.com/content/bpl/ecoj/2009/000001
19/00 000538/art00001 
16. “Science, Technology and Industry 
Scoreboard 2013”, report, OECD, 
Paris, 2013, 
2013.pdf 
17. Simon Commander, Mari 
Kangasniemi, Alan Winters (2002), 
“The Brain Drain: Curse or Boon? A 
Survey of the Literature”, in 
Challenges to Globalization: 
Analyzing the Economics, ed. Robert 
Baldwin, Alan Winters, University of 
Chicago Press, Chicago, 
18. Simona Milio et al. (2012), “Brain 
Drain, Brain Exchange and Brain 
Circulation: the Case of Italy 
Viewed from a Global 
Perspective”, working group 
report, Aspen Institute Italia, 
Rome, 3/2012, https:// 
www.aspeninstitute.it/en/system/f
iles/private_files/2012-
05/doc/Brain%20Drain%20%28En
glish%29.pdf 
19. “Toulouse v Paris: A Tale of Two 
French Economists and their 
Rival Schools”, Economist 
(15/11/2014). 
20. Tyler Cowen (2014), “Capital 
Punishment: Why a Global Tax 
on Wealth Won’t End Inequality”, 
Foreign Affairs 93, No.4 (5-
6/2014). 
21. Yascha Mounk (2014), “Pitchfork 
Politics”, Foreign Affairs 93, No.5 
(9-10/2014). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
hoi_luu_chay_mau_tinh_hoa_chat_xam_tien_de_giai_quyet_tinh_t.pdf