Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh và đối
tượng áp dụng, Điều 1 Dự thảo Luật về Hội
(Dự thảo) quy định: “Luật này không áp
dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các
tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng tại Việt
Nam”. Trên thực tế, Hội Nông dân Việt Nam
hay Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đều là
những “hội”, việc quy định như trên vô hình
chung có thể sẽ tạo nên sự bất bình đẳng
giữa các hội, dẫn đến cách hiểu là có những
hội “đặc biệt” hơn các hội khác. Nếu như
quyền con người là bình đẳng giữa các thành
viên trong gia đình nhân loại thì giữa các
hội, nhóm cũng vậy, vì thực chất, hội là là
do các cá nhân liên kết mà thành. Đồng thời,
Dự thảo nên bổ sung quy định về sự bình
đẳng giữa các hội, để tránh tình trạng độc
quyền. Ví dụ, không thể viện dẫn lý do đã
có Hội Phụ nữ hoạt động ở địa phương này
rồi mà ngăn cản sự thành lập của Hội phụ
nữ khác13.
Việc Dự thảo quy định Nhà nước sẽ cấp
ngân sách cho một số hiệp hội là không nên,
sẽ gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa các
hiệp hội.
Thứ hai, về chủ thể của quyền lập hội,
nên mở rộng chủ thể của quyền này là mọi
người thay vì chỉ là công dân Việt Nam như
theo Dự thảo hiện nay. Điều 22 khoản 1
ICCPR đã ghi nhận: “Mọi người có quyền
tự do lập hội với những người khác, kể cả
quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo
vệ lợi ích của mình”. Việc quy định chủ thể
là công dân Việt Nam sẽ hạn chế quyền lập
hội của những công dân nước ngoài khi họ
có nguyện vọng chính đáng như tham gia
các tổ chức tình nguyện được thành lập tại
Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hội trong xã hội dân sự và dự thảo về hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÖÅI TRONG XAÄ HÖÅI DÊN SÛÅ
VAÂ DÛÅ THAÃO LUÊÅT VÏÌ HÖÅI ÚÃ VIÏÅT NAM
NguyễN ĐăNg DuNg*
NguyễN ĐăNg Duy**
1. Hội là hạt nhân cơ bản của xã hội
dân sự
Chữ “dân sự” (civile) trong các ngôn
ngữ phương Tây có nhiều cách hiểu và gây
ra những sự tranh cãi. Ít nhất, XHDS có thể
được hiểu và sử dụng ở năm nghĩa cơ bản
khác nhau: thứ nhất, XHDS là xã hội văn
minh, được dùng để đối lập với “xã hội
không dân sự”, “xã hội không văn minh”;
thứ hai, XHDS được dùng để đối lập với “xã
hội chính trị”, “xã hội quân sự”, “xã hội độc
tài”, “xã hội toàn trị”; thứ ba, XHDS được
hiểu là hiện tượng thuộc xã hội cổ đại - công
xã công dân; thứ tư, XHDS được giải thích
là “xã hội tư bản”, một xã hội mà ở đó, các
công việc và lợi ích tư (lợi ích cá nhân)
không phải chịu sự tác động trực tiếp của
các thiết chế nhà nước, trở thành hoạt động
sống của con người mang tính tự chủ; thứ
năm, XHDS được hiểu là “các tổ chức dân
sự”, “các tổ chức phi nhà nước”, “các tổ
chức phi chính phủ”, “tổng thể các thiết chế
phi nhà nước”1.
XHDS là một bước tiến của loài người
trong tổ chức cộng đồng bên cạnh sự tiến bộ
của các thiết chế nhà nước ngày càng hợp
lý. Khi nhà nước chuyển từ cai trị sang phục
vụ, nhà nước của dân, do dân, vì dân, thì xã
hội cũng hình thành một loại các thiết chế
xã hội đa dạng: nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội
sẽ lớn lên. Vai trò tự quản trong cộng đồng
mạnh lên là một sự phát triển đáng kể của
nhân loại. Vai trò tự quản ấy phát triển chính
ở các tổ chức xã hội với các thiết chế riêng,
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
* GS.TS, Đại học Quốc gia Hà Nội.
** ThS, Đại học Quốc gia Hà Nội.
1 Vũ Mạnh Toàn, “Cơ sở triết học của việc xây dựng XHDS”, Tạp chí Triết học tháng 1/2009.
Trong xã hội, bên cạnh các cơ quan tạo thành cơ cấu quyền lực nhà nước, các tổ
chức kinh tế, là các tổ chức của xã hội dân sự (XHDS). Quyền lập hội là một trong
những quyền cơ bản của con người trong việc thành lập ra các tổ chức xã hội,
một công cụ quan trọng có khả năng bảo vệ quyền con người trước những nguy
cơ vi phạm của các tổ chức, và cá nhân khác. Bài viết phân tích tầm quan trọng
của các hiệp hội, nêu lên sự cần thiết phải có của Luật về Hội, để các hội có thể
tạo thành những hạt nhân cơ bản của XHDS, một thành tố cần có bên cạnh nhà
nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng.
2 LHQ, Văn bản số A/95/401, đoạn 46.
3 LHQ, Báo cáo về năm hoạt động đầu tiên 1/5/2011 – 30/4/2012, A/HCR/20/27, đoạn 51.
4 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights: ICCPR).
5 LHQ, Tuyên bố về những người bảo vệ nhân quyền của LHQ (1998).
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
bên cạnh thiết chế nhà nước. Các tổ chức xã
hội cũng chính là các nhân tố hợp thành
XHDS. Và trọng tâm của XHDS là các hiệp
hội.
Mặc dù còn có sự khác nhau nhiều trong
cách hiểu về khái niệm XHDS, nhưng khái
quát lại, XHDS có các đặc trưng cơ bản: i)
là tổ chức ở ngoài nhà nước; ii) hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện; iii) tự chủ, độc
lập về tài chính (tự trang trải), iv) quy mô,
hình thức tồn tại, các thiết chế tổ chức rất đa
dạng, iv) mục tiêu chung là vì sự phát triển
của cộng đồng, phần lớn là tổ chức không vì
lợi nhuận (non profit).
“Hội” hiểu theo nghĩa phổ biến nhất, là
sự thỏa thuận, liên kết, tập hợp, quy tụ của
nhiều người với nhau thành nhóm để hướng
đến các mục đích, lợi ích hay sự quan tâm
chung. Như vậy, hội là tập hợp các thành
viên có cùng mối quan tâm chung đến lợi
ích về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính
trị, hoặc đơn thuần chỉ để hỗ trợ, chia sẻ
thông tin với nhau. Lập hội là việc các cá nhân
liên kết, tập hợp lại với nhau (to associate,
gather) thành nhóm để hướng đến những lợi
ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Về
hình thức, hội cũng có nhiều dạng như câu
lạc bộ, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi
chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ,
công đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái chính
trị, doanh nghiệp, công ty... Do sự đa dạng
của các nhóm, hội mà pháp luật các quốc gia
thường có quy định điều chỉnh riêng một số
nhóm, hội bằng các luật riêng như: luật về
doanh nghiệp - công ty, luật về công đoàn -
nghiệp đoàn, luật về các đảng phái chính trị,
luật về các tổ chức tôn giáo...
Thuật ngữ “association” trong tiếng
Anh, dịch ra tiếng Việt là “hội”, có nội hàm
rộng. Theo Đại diện đặc biệt của Liên hợp
quốc (LHQ) về những người bảo vệ nhân
quyền, thì khái niệm “hội” nhắc đến bất kỳ
nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý
nào liên kết với nhau để cùng nhau hành
động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo
vệ một lĩnh vực quan tâm chung (a field of
common interests)2. Trong báo cáo của
mình, Báo cáo viên về tự do hội họp và lập
hội của LHQ Maina Kiai đã nhắc lại và sử
dụng định nghĩa này3. Quyền tự do lập hội
chỉ giới hạn ở các nhóm hình thành vì mục
đích “công” (public), các nhóm chỉ vì lợi ích
riêng tư, như nhóm gia đình, được bảo vệ
bởi các quy định của Công ước LHQ về các
quyền dân sự và chính trị (ICCPR)4.
Hội có thể có tư cách pháp nhân hoặc
không có tư cách pháp nhân. Nếu không có
tư cách pháp nhân, hội có thể bị giới hạn
một số quyền nhất định, như quyền sở hữu
tài sản hay một số các giao dịch dân sự...
Quyền lập hội gần gũi với quyền hội họp, tụ
họp và quyền tự do biểu đạt (tự do ngôn
luận). Các quyền này đều có giá trị quan
trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các
quyền khác, được phân tích là các quyền
bảo vệ quyền, quyền của các quyền. Hiến
pháp Hoa Kỳ không đề cập đến quyền lập
hội mà chỉ đề cập đến tự do ngôn luận và
hội họp. Nhưng thông qua án lệ vụ NAACP
kiện Alabama ex rel. Patterson (1958) Tòa
án Tối cao Hoa Kỳ đã kết luận rằng, quyền
lập hội phát sinh từ quyền tự do biểu đạt.
Bởi lẽ, nếu không có sự tập hợp để lên tiếng
thì quyền biểu đạt bị giảm hiệu quả đáng kể.
LHQ khẳng định, để thúc đẩy và bảo vệ các
quyền con người và tự do cơ bản, mọi người
phải có quyền tự do lập hội ở cả cấp độ quốc
gia và quốc tế5. Công ước quốc tế về Quyền
6 Công ước 87 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Điều 2.
7 Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights: ICESCR).
8 LHQ, Báo cáo về năm hoạt động đầu tiên 1/5/2011 – 30/4/2012, A/HCR/20/27, đoạn 58; Báo cáo viên đặc biệt về tự do
hội họp và lập hội Maina Kiai.
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội năm
1948 xác định mọi người lao động và người
sử dụng lao động đều có quyền thành lập và
gia nhập các tổ chức mà họ tự lựa chọn mà
không phải xin phép trước6.
Quyền lập hội gồm ba lĩnh vực cơ bản:
i) Thành lập, ii) Gia nhập; iii) Hoạt động.
Khoản 1 Điều 22 ICCPR xác định: Mọi
người có quyền tự do lập hội với những
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các
công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình.
Quyền này bao gồm cả ba khía cạnh: (1)
thành lập ra các hội mới, (2) gia nhập các
hội đã có sẵn, và (3) hoạt động, điều hành
các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động
các nguồn kinh phí. Quyền thành lập và gia
nhập các hội là nội dung chủ yếu của quyền
tự do lập hội. Quyền này bao hàm cả quyền
thành lập và gia nhập các công đoàn để bảo
vệ lợi ích của người lao động. Trong các
hiệp hội, LHQ rất chú ý đến việc thành lập
công đoàn cho người lao động. Quyền thành
lập và gia nhập các công đoàn được bảo vệ
cả trong ICCPR (Điều 22) và ICESCR7
(Điều 8).
Trong khi thủ tục thành lập một hội có
tư cách pháp nhân được quy định khác nhau
trong pháp luật của các quốc gia, thì điều
quan trọng là các cơ quan nhà nước phải giải
quyết thủ tục một cách thiện chí, nhanh
chóng và bình đẳng. Thủ tục này càng đơn
giản, càng tiết kiệm thời gian và chi phí thì
càng tốt. Ở Bungary, việc thành lập hội
không mất chi phí. Ở Nhật Bản, việc nộp
đơn thành lập hội có thể qua mạng Internet...
Chuyên gia của LHQ khuyến cáo, một “thủ
tục thông báo” (a notification procedure) là
tốt hơn, phù hợp với luật nhân quyền hơn
là một “thủ tục cho phép trước” (prior
authorization procedure) - đòi hỏi phải có sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước khi lập
một pháp nhân. Tại nhiều quốc gia, việc
thông báo này được thực hiện bằng văn bản,
bao gồm một số nội dung thông tin mà luật
yêu cầu rõ ràng. Văn bản này là một thông
báo để các cơ quan thống kê có thông tin về
hội. Hệ thống thông báo này đang hoạt động
tại ở nhiều quốc gia (Djibouti, Maroc, Bồ
Đào Nha, Senegal, Thụy Sỹ, Urugoay...)8.
Thủ tục thông báo và thủ tục cấp phép
đều đòi hỏi sự nhanh chóng và thuận lợi cho
người muốn thành lập hay gia nhập hội.
Chậm trễ đăng ký, cấp phép khi có đề nghị
thành lập hội đều được coi là sự vi phạm
quyền lập hội của người dân. Một khi từ
chối đơn xin thành lập hội, thì cơ quan nhà
nước phải nêu rõ lý do và thông báo một
cách rõ ràng cho chủ thể đứng đơn thành
lập. Những cá nhân, tổ chức bị từ chối có
quyền được khiếu nại, khiếu kiện ra trước
một tòa án độc lập và không thiên vị. Ủy ban
về Tự do lập hội (Freedom of Association
Committee) của ILO đã có phán quyết rằng:
“việc không thể đưa ra trước cơ quan tư
pháp để xem xét sự từ chối bởi cơ quan Bộ
cho phép thành lập một công đoàn là vi
phạm các nguyên tắc tự do lập hội”.
Đồng thời với việc thành lập, các cá
nhân có quyền gia nhập và rút lui (ra khỏi,
rời bỏ) các hội. Tương tự, các hội có quyền
ngưng hoạt động và tự giải tán hội. Việc các
cơ quan nhà nước tiến hành cho ngưng hoạt
động và giải tán hội cũng phải tuân thủ chặt
chẽ các quy định của luật. Việc cản trở không
có lý do chính đáng cũng bị xử lý tương tự
như trường hợp chối từ khi thành lập.
Quyền hoạt động tự do của các hội
tương ứng với nghĩa vụ của chính quyền
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
9 LHQ, Báo cáo về năm hoạt động đầu tiên 1/5/2011 – 30/4/2012, A/HCR/20/27, đoạn 65.
10 Lê Quang Bình, Tại sao Việt Nam vẫn cần có Luật về Hội? Nguồn
can-co-luat-ve-hoi.
trong việc tôn trọng, thực thi và bảo vệ
quyền này. Nhà nước có nghĩa vụ thực thi
các biện pháp chủ động và thụ động đối với
quyền lập hội của người dân. Nhà nước phải
kiềm chế không được can thiệp vào các hoạt
động bình thường của hội. Trước hết, quy
chế, điều lệ của các hội được tự quyết bởi
các thành viên mà không có sự can thiệp của
nhà nước. Quyền riêng tư của các hội cũng
cần được bảo đảm, các cơ quan nhà nước
không được thay đổi việc bầu chọn ban lãnh
đạo của các hội, cử người của mình vào ban
lãnh đạo hội, yêu cầu các hội nộp kế hoạch
hoạt động hội9. Nhiều quốc gia có các biện
pháp hỗ trợ cho việc thành lập các hội thông
qua các biện pháp khác nhau như: cung cấp
địa điểm mở văn phòng, tài trợ tài chính
trong giai đoạn đầu hoạt động...
Với tư cách là chủ thể quan trọng cho
việc bảo vệ quyền con người, các cơ quan
nhà nước không những có trách nhiệm tôn
trọng, bảo vệ quyền này của con người
không bị vi phạm, mà còn có trách nhiệm
phải tạo dựng một môi trường thuận lợi,
bình đẳng cho hoạt động của các hội đoàn.
Các cá nhân thực thi quyền lập hội không
phải lo sợ trở thành nạn nhân của sự dọa nạt,
bôi nhọ, bắt bớ tùy tiện, đối xử vô nhân đạo
hoặc hạn chế quyền đi lại của họ từ phía các
cơ quan nhà nước...
Hiện nay, XHDS đang phát triển mạnh
mẽ ở Việt Nam hơn bao giờ hết. Vai trò quan
trọng của XHDS là cầu nối các cá nhân với
Nhà nước; tham gia hoạch định và phối hợp
với Nhà nước thực hiện các chủ trương, chính
sách của Nhà nước; tổ chức phản biện xã hội
đối với các chủ trương, chính sách và giám
sát hoạt động của đội ngũ công chức nhà
nước; góp phần phát huy các nguồn lực nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người.
Việt Nam đang có một số loại hình tổ
chức XHDS như sau:
- Nhóm thứ nhất, các tổ chức chính trị -
xã hội nghề nghiệp như Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Luật gia, Hội
Cựu chiến binh, Liên đoàn Lao động (được
gọi một cách dân dã là Công, Nông, Thanh,
Phụ, Cựu...) Đây là những hiệp hội được
Nhà nước thành lập có cơ cấu tổ chức từ
trung ương đến địa phương, nhận kinh phí
hoạt động từ Nhà nước và triển khai thực
hiện các hoạt động của Đảng và Nhà nước
Việt Nam, được gọi là các tổ chức chính trị
- xã hội.
- Nhóm thứ hai, các tổ chức khoa học và
công nghệ hoạt động phi lợi nhuận, được
thành lập theo Luật Khoa học và Công nghệ.
Các tổ chức này tự nhận mình và cũng được
nhìn nhận bởi xã hội, như là các tổ chức phi
chính phủ (NGO) vì tính tương đối độc lập
của mình. Các tổ chức này phải đăng ký
dưới một “cơ quan chủ quản” như Hội
Nghiên cứu Đông Nam Á hay Liên hiệp các
Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, các
Trường đại học hoặc các Viện nghiên cứu và
có tư cách pháp nhân. Về chiến lược hoạt
động, nhân sự và tài chính, các tổ chức này tự
chủ, không được nhận tiền từ ngân sách nhà
nước. Nhưng vì có tư cách pháp nhân, nên họ
có thể nhận tiền tài trợ từ các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước để phục vụ hoạt động.
Giám đốc các tổ chức này do Hội đồng sáng
lập chọn và đề xuất lên cơ quan chủ quản và
thường được phê duyệt. Những tổ chức phi
chính phủ này thường bị các cơ quan của
Chính phủ quản lý một cách chặt chẽ.
- Nhóm thứ ba, các tổ chức cộng đồng,
hoạt động tự nguyện, gắn liền với các nhu cầu
của một nhóm người dân. Các tổ chức này rất
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
đa dạng, tồn tại ở cả thành thị lẫn nông thôn.
Các mô hình như Câu lạc bộ nghệ thuật,
Nhóm hành động vì môi trường, Tổ hợp tác
kinh tế, hoặc Câu lạc bộ của các cụ hưu trí...
Các tổ chức này tự do thành lập, tự do hoạt
động và tự do giải thể. Họ không có nhu cầu
đăng ký tư cách pháp nhân và không muốn
được/bị chính quyền quản lý, hoạt động
thường hạn chế, thậm chí còn bị gây khó
khăn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.
Nếu các tổ chức chính trị - xã hội nghề
nghiệp và các tổ chức cộng đồng về cơ bản
không gặp nhiều khó khăn về thủ tục pháp
lý trong thành lập hay hoạt động, thường hài
lòng với sứ mệnh mình đang làm, và Nhà
nước cũng hài lòng với vai trò họ đang đảm
nhiệm, thì ngược lại, các tổ chức phi chính
phủ đang phải loay hoay với việc tồn tại và
hoạt động của mình. Trên thực tế, việc hình
thành và hoạt động của các tổ chức phi chính
phủ hiện tại đang gặp những khó khăn như:
Thứ nhất, hiện đã có gần 1.000 tổ chức
được đăng ký ở những cơ quan chủ quản
khác nhau. Việc thành lập các tổ chức này
thường phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ cá
nhân hoặc năng lực vận động thành viên của
ban sáng lập. Chỉ những người thuộc tầng
lớp trung lưu và có nguồn lực mới có thể
thành lập được tổ chức của mình. Nhiều thủ
trưởng các cơ quan nhà nước khi nghỉ hưu
đã thành lập các hiệp hội riêng cho bản thân.
Những nhóm yếu thế hơn, không có nguồn
lực hoặc quan hệ hẹp thì thường rất khó
khăn khi muốn thành lập một tổ chức. Điều
này dẫn đến hiện tượng bất bình đẳng ngay
trong XHDS, nơi đáng lý phải có sự bình
đẳng về tiếng nói, vị trí của người yếu thế.
Thứ hai, những tổ chức có sứ mệnh
hoạt động độc lập, hướng tới sự giám sát và
phê phán chính sách, thường gặp phải khó
khăn khi tiến hành các thủ tục thành lập.
Ngược lại, những tổ chức được xem là “triển
khai các hoạt động của Nhà nước” hay
“cung cấp dịch vụ cho cộng đồng” theo chủ
trương của Nhà nước thì dễ dàng được phép
thành lập.
Thứ ba, khi chưa có Luật về Hội, việc
thành lập các Hội thành viên hoạt động độc
lập khác với các tổ chức đoàn thể, nhất là
các đoàn thể được gọi là các tổ chức chính
trị -xã hội, là rất khó khăn, thậm chí không
thể thực hiện được. Điều này dẫn đến sự
độc quyền trong XHDS. Ví dụ, Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị -
xã hội duy nhất có tổ chức từ trung ương
đến các cơ sở, nếu phụ nữ nào muốn tham
gia hội phụ nữ thì chỉ có một lựa chọn, dù
họ có đồng ý với tôn chỉ mục đích và
phương thức hoạt động của Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam hay không. Điều này cũng
đúng cho Công đoàn, cho Hội Nông dân,
Đoàn Thanh niên... Rõ ràng, sự độc quyền
về hội hạn chế quyền thành lập và tham gia
hội của người dân, dẫn đến hoạt động hội
không hiệu quả nhất là trong việc bảo vệ
quyền của nhân dân.
2. Sự cần thiết xây dựng Luật về Hội và
nội dung của Luật
2.1. Sự cần thiết
Thứ nhất, việc liên kết lại với nhau là
một đặc tính xã hội xuất phát từ nhu cầu tồn
tại của con người, tự do hiệp hội được coi là
một quyền tự nhiên của con người. Quyền
lập hội là quyền con người cơ bản, là biểu
hiện của quyền tự do ngôn luận, quyền tự do
biểu đạt, và đã được ghi nhận trong nhiều
văn kiện quốc tế về quyền con người như
UDHR và ICCPR cùng các quy định trong
các đạo luật cơ bản của nhiều quốc gia.
Cũng như những quyền cơ bản khác, các
nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và
thúc đẩy quyền tự do này. Quyền tự do lập
hội cũng là một quyền hiến định được ghi
nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - tiền
thân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam hiện nay. Hiến pháp năm 2013 cũng đã
tái khẳng định lại quyền tự do lập hội tại
11 Lê Quang Bình, tlđd.
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Điều 25. Do vậy, việc ban hành Luật về Hội
để mau chóng hiện thực hóa quyền này là
một việc làm cần thiết.
Thứ hai, Luật về Hội sẽ tạo ra hành lang
pháp lý an toàn, khắc phục những hành vi
chủ quan, duy ý chí của các cơ quan nhà
nước thông qua người thi hành công vụ khi
họ muốn cản trở việc thực hiện quyền của
người dân.
Nếu không có Luật về Hội, việc thành
lập các hội thành viên hoạt động độc lập
(khác với các tổ chức đoàn thể) sẽ khó. Điều
này dẫn đến độc quyền trong XHDS.
Thứ ba, bản thân những hiệp hội đang
hoạt động không thuần khiết là hiệp hội của
XHDS. Chúng được thành lập với sự cho
phép của các cơ quan nhà nước và về cơ
bản, những hiệp hội này được Nhà nước
thành lập, như là “những cánh tay nối dài”
của Nhà nước, chỉ được phép làm những gì
mà phía các cơ quan nhà nước yêu cầu. Trên
thực tế, một số tổ chức phi chính phủ đang
cố gắng thực hiện sứ mệnh giám sát và phản
biện chính sách (đã và đang được soạn thảo)
của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, họ chỉ
là những tổ chức phát triển, hoặc các tổ chức
chuyên môn luôn ở thế yếu so với các cơ
quan nhà nước. Họ được tham vấn vì quan
hệ cá nhân, năng lực chuyên môn, hoặc do
các nhà tài trợ nước ngoài kết nối với các cơ
quan chính phủ. Tất cả những cơ hội này
hoàn toàn có thể biến mất nếu Chính phủ
thấy không cần thiết phải lắng nghe các tổ
chức phi chính phủ, hoặc khi thấy ý kiến của
các tổ chức phi chính phủ đi ngược lại quan
điểm và nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Do hạn chế về tài chính, không có quyền lực
chính trị nên ý kiến của các hiệp hội này
thường ít được tiếp thu10.
Vì không là hội viên của một hội hoạt
động độc lập, nên người bị thiệt thòi trước
tiên là người dân. Một chính sách giáo dục
có thể ảnh hưởng đến tương lai của hàng
triệu học sinh và sinh viên, một chính sách
nhập khẩu thực phẩm có thể ảnh hưởng đến
hàng triệu người dân, nhưng do không có
hội đại diện cho quyền lợi của mình, sinh
viên và người dân sẽ không được thông tin
đầy đủ về ảnh hưởng của chính sách. Các cá
nhân đơn lẻ sẽ không thể phản hồi hiệu quả
cho Chính phủ. Thực tế sẽ khác đi, nếu có
những hội với hàng chục ngàn hoặc hàng
trăm ngàn thành viên cùng nêu ý kiến. Khi
đó các cơ quan nhà nước phải lắng nghe và
có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết và thay
đổi. Hội thành viên làm tăng quyền lực của
các tổ chức XHDS, để cuối cùng giúp tìm ra
giải pháp tốt nhất cho xã hội và đất nước11.
Với khung pháp lý hiện tại, các tổ chức
phi chính phủ vẫn có thể hoạt động, tham
gia cung cấp dịch vụ, vận động xã hội và
chính sách. Nhưng khi hoạt động của họ
vươn ra các vùng bị các cơ quan nhà nước
cho là “nhạy cảm”, không mong đợi, thì việc
bị hạn chế hoạt động hoặc bị loại bỏ ra khỏi
các cuộc tham vấn chính sách là hoàn toàn
có thể. Đây chính là lý do cần phải có Luật
về Hội để các tổ chức phi chính phủ có thể
giám sát và phản biện chính sách của Nhà
nước một cách độc lập, trung thực mà không
bị ngăn cản, và các Hội thành viên có thể
được thành lập để nâng cao nhận thức xã
hội, cũng như cân bằng quyền lực với các
cơ quan công quyền, nhằm tạo ra các kênh
đối thoại để tìm ra những giải pháp tối ưu
cho sự phát triển của đất nước, song hành
với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân.
2.2. Các nội dung cơ bản của Luật về
Hội
Về cơ bản, các nội dung sau đây sẽ
được pháp luật về hội của các quốc gia quy
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
định: i) phạm vi điều chỉnh của luật (các loại
hội, tổ chức nào được điều chỉnh); ii) điều
kiện thành lập, gia nhập hội; iii) cơ quan, thủ
tục đăng ký, thành lập hội; iv) quyền của các
hội; v) cơ quan giám sát, xử lý vi phạm; vi)
chấm dứt hoạt động của hội.
Phạm vi điều chỉnh của Luật về Hội.
Luật về Hội của các quốc gia thường quy
định về các hội, hiệp hội và thường loại trừ
(không áp dụng đối với) các tổ chức tôn
giáo, đảng phái chính trị, tổ chức lập ra trong
tiến trình bầu cử. Tuy nhiên, một số quốc gia
xác định phạm vi điều chỉnh rất rộng. Luật
Hungary quy định chung cho các “tổ chức
XHDS”, bao gồm cả các đảng phái chính trị,
tổ chức công đoàn. Luật về Hội của Malaysia
năm 1996 điều chỉnh cả các công ty, các tổ
chức có trên 07 người, bao gồm cả các đảng
phái, công đoàn. Luật Hội của Ba Lan phân
chia thành các hội có tư cách pháp nhân và
hội không có tư cách pháp nhân (hội đơn
giản). Các loại hội này sẽ có thủ tục thành
lập khác nhau và phạm vi quyền hạn cũng
khác nhau.
Điều kiện lập hội, gia nhập hội. Điều
kiện lập hội thường có các quy định liên
quan đến: mục đích, trụ sở và tài sản, điều
lệ và thành viên. Các quy định liên quan đến
điều kiện về thành viên rất đa dạng, như: thứ
nhất, quyền lập hội đương nhiên thuộc về
mọi công dân của quốc gia, trừ một số
trường hợp luật định, chẳng hạn như công
chức, lực lượng vũ trang Đối với quyền
lập hội của người nước ngoài, các quốc gia
có những cách điều chỉnh khác nhau. Luật
Hội của Ba Lan phân biệt người nước ngoài
thành người cư trú (được tự do gia nhập hội)
và người không cư trú (tùy trường hợp).
Về độ tuổi, thường thì phải đủ 18 tuổi
mới có đầy đủ quyền thành lập và gia nhập
hội. Luật Hội của Ba Lan cho phép người
chưa thành niên từ 16 đến 18 tuổi trở thành
thành viên của các hội, với điều kiện đa số
thành viên hội đồng quản trị của hội phải là
người đã thành niên, có đủ năng lực để thực
hiện giao dịch dân sự hợp pháp. Trẻ em dưới
16 tuổi có thể trở thành thành viên của một
hội nếu quy chế của hội này cho phép và có
sự đồng ý của người giám hộ hợp pháp,
nhưng họ có thể không được bầu cử hoặc
biểu quyết tại phiên họp của hội.
Số lượng thành viên để thành lập một
hội rất khác nhau, tùy theo quy định của
từng quốc gia. Luật Hội của Ecuador chỉ yêu
cầu có 05 người để lập một hội, trong khi
luật Ấn Độ cần phải có 07 người, luật Ai
Cập cần có 10 người, luật Ba Lan cần có 15
người, luật Rumani cần có 21 người.
Thủ tục đăng ký. Việc lập hội dễ dàng
hay khó khăn phụ thuộc nhiều vào ý chí của
người làm luật, thể hiện rõ nét nhất trong các
quy định về thủ tục thành lập. Đa số quốc
gia yêu cầu nộp hồ sơ đăng ký tại một cơ
quan nhất định (tòa án, cơ quan công chứng
hoặc cơ quan chuyên trách). Hai loại cơ
quan thường được các quốc gia trao quyền
đăng ký lập hội là tòa án (Luật Hội của Ba
Lan, Hungary, Rumani) và cơ quan công
chứng (Bolivia, Braxin, Italia, Hà Lan).
Cũng có một số quốc gia có cơ quan chuyên
trách việc đăng ký hội như Cơ quan đăng ký
Hội của Malaysia. Ở nhiều quốc gia, thủ tục
lập hội được thực thi rất dễ dàng, chỉ cần
thông báo cho cơ quan nhà nước, thậm chí
chỉ cần đăng ký qua Internet.
Ban vận động thành lập hội (ban sáng
lập) thường phải nộp cho cơ quan đăng ký
(tòa án hoặc cơ quan công chứng) giấy đăng
ký kèm theo các loại văn bản như: quy chế
(điều lệ) hội, danh sách các thành viên sáng
lập, địa chỉ văn phòng tạm thời của hội
Sau một thời hạn, cơ quan đăng ký sẽ có trả
lời về việc đăng ký.
Các quyền của hội. Trong số các quyền,
quyền về tài chính, tài sản, về tổ chức nhân
sự và nói lên tiếng nói chung của đa số các
thành viên hội là quan trọng nhất. Về tài
chính, nhìn chung, các hội có thể huy động
12 Dự thảo Luật về Hội được đưa ra lấy ý kiến công chúng từ ngày 4/6/2015 trên cổng thông tin của Bộ Nội vụ.
13 Lê Quang Bình, Để Luật về Hội không cùm chân đời sống dân sự, nguồn:
khong-cum-chan-doi-song-dan-su.
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
các nguồn đóng góp từ trong nước và quốc
tế. Tuy nhiên, theo Luật Hội của Ba Lan, hội
không có tư cách pháp nhân (hội đơn giản)
chỉ có thể có nguồn thu từ đóng góp của các
thành viên. Là các tổ chức phi lợi nhuận, hội
không thể hoạt động kinh doanh thu lợi. Tuy
nhiên, luật Hungary cho phép hội có thể
kinh doanh để có điều kiện kinh tế nhằm đạt
được các mục đích hoạt động. Các hội có
quyền chủ động về nhân sự và cơ cấu tổ
chức. Một số quốc gia có quy định khái quát
về bộ máy lãnh đạo hội: Hội đồng quản trị,
Ban điều hành của hội. Các hội có thể có tổ
chức trực thuộc, tổ chức thành viên, chi
nhánh. Các hội có quyền tự do triển khai các
hình thức hoạt động để thực thi nhiệm vụ
của mình. Nhìn chung, việc triển khai hoạt
động liên quan chặt chẽ đến khuôn khổ pháp
lý thực thi các quyền tự do khác, đặc biệt là
tự do ngôn luận khi muốn truyền thông, xuất
bản, vận động, tự do hội họp khi muốn tổ
chức tuần hành, hội thảo, tập huấn; tự do đi
lại (khi muốn tiếp cận địa bàn, hay đối tượng
dễ bị tổn thương)
Chấm dứt hoạt động. Các hội, tổ chức
XHDS có thể chủ động chấm dứt hoạt động
hoặc bị cơ quan nhà nước (tòa án) chấm dứt
hoạt động. Việc chấm dứt hoạt động của hội
thường bao gồm các thủ tục: xử lý, thanh lý
tài sản và các nghĩa vụ khác, tuyên bố giải
thể. Tài sản của hội được chia thành hai
phương thức đối với hai nhóm tài sản. Các
tài sản có được từ nguồn tài trợ của các tổ
chức trong nước, nước ngoài hoặc của nhà
nước, sau khi thanh toán toàn bộ các nghĩa
vụ của tổ chức, số còn lại do cơ quan có
thẩm quyền (thường là tòa án) quyết định.
Đối với các tài sản tự có của hội, sau khi
thanh toán hết các nghĩa vụ, số còn lại do
hội quyết định theo điều lệ. Tuyên bố giải
thể được thực hiện sau khi đã thanh toán các
nghĩa vụ về tài sản, thanh lý tài sản và các
nghĩa vụ khác của hội. Thời điểm tuyên bố
giải thể hội là thời điểm chấm dứt hoàn toàn
các hoạt động cũng như tư cách pháp lý của
hội trên thực tế.
3. Một số ý kiến đóng góp cho Dự thảo
Luật về Hội của Việt Nam12
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh và đối
tượng áp dụng, Điều 1 Dự thảo Luật về Hội
(Dự thảo) quy định: “Luật này không áp
dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các
tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng tại Việt
Nam”. Trên thực tế, Hội Nông dân Việt Nam
hay Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đều là
những “hội”, việc quy định như trên vô hình
chung có thể sẽ tạo nên sự bất bình đẳng
giữa các hội, dẫn đến cách hiểu là có những
hội “đặc biệt” hơn các hội khác. Nếu như
quyền con người là bình đẳng giữa các thành
viên trong gia đình nhân loại thì giữa các
hội, nhóm cũng vậy, vì thực chất, hội là là
do các cá nhân liên kết mà thành. Đồng thời,
Dự thảo nên bổ sung quy định về sự bình
đẳng giữa các hội, để tránh tình trạng độc
quyền. Ví dụ, không thể viện dẫn lý do đã
có Hội Phụ nữ hoạt động ở địa phương này
rồi mà ngăn cản sự thành lập của Hội phụ
nữ khác13.
Việc Dự thảo quy định Nhà nước sẽ cấp
ngân sách cho một số hiệp hội là không nên,
sẽ gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa các
hiệp hội.
Thứ hai, về chủ thể của quyền lập hội,
nên mở rộng chủ thể của quyền này là mọi
người thay vì chỉ là công dân Việt Nam như
theo Dự thảo hiện nay. Điều 22 khoản 1
ICCPR đã ghi nhận: “Mọi người có quyền
tự do lập hội với những người khác, kể cả
quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo
vệ lợi ích của mình”. Việc quy định chủ thể
là công dân Việt Nam sẽ hạn chế quyền lập
hội của những công dân nước ngoài khi họ
có nguyện vọng chính đáng như tham gia
các tổ chức tình nguyện được thành lập tại
Việt Nam.
Thứ ba, nên bỏ quy định tại Điều 12 về
Nội dung chủ yếu của điều lệ hội. Quy định
này là không cần thiết, vì cũng giống như
một dạng hợp đồng, ban sáng lập và các
thành viên của hội có quyền tự đưa ra các
nội dung chủ yếu trong điều lệ, miễn là
không vi phạm các quy định và nguyên tắc
chung theo pháp luật.
Thứ tư, về quy định tại khoản 2 Điều 7
Dự thảo, hội buộc phải có trụ sở tại Việt
Nam. Điều này là hoàn toàn không cần thiết,
vì nếu buộc phải thỏa mãn điều kiện này, sẽ
có không ít các tổ chức XHDS quan trọng
như tổ chức phi chính phủ, quỹ, viện, trung
tâm độc lập14 không thể được coi là một
hội, cho dù các tổ chức trên hoạt động như
một hội, vì họ không có trụ sở tại Việt Nam.
Thứ năm, thành lập hội được coi là một
những nội dung chính của quyền lập hội -
một quyền con người cơ bản. Do vậy, thủ
tục đăng ký cần rõ ràng, đơn giản, cụ thể.
Một khi có đầy đủ tiêu chí theo quy định của
pháp luật thì ban sáng lập chỉ cần chứng
minh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và cơ quan này phải có nghĩa vụ ra quyết
định công nhận sự thành lập của hội thay vì
quyết định cho phép thành lập hội.
Thứ sáu, thêm quy định về giới hạn
quyền. Theo pháp luật của một số quốc gia,
quyền lập hội không phải là một quyền tuyệt
đối nên nó có thể bị giới hạn trong các
trường hợp vì an ninh quốc gia, lợi ích cộng
đồng v.v.. Khoản 2 Điều 22 ICCPR đã quy
định như sau: “Việc thực hiện quyền này
không bị hạn chế, trừ những hạn chế do
pháp luật quy định và là cần thiết trong một
xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia,
an toàn và trật tự công cộng và để bảo vệ sức
khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các
quyền và tự do của người khác. Điều này
không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế
hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối
với những người làm việc trong các lực
lượng vũ trang và cảnh sát”. Việc quy định
những trường hợp quyền lập hội có thể bị
hạn chế không chỉ thể hiện tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 mà còn tránh được khả
năng quyền này bị hạn chế một cách bừa bãi
bởi các chủ thể công quyền.
Thứ bảy, thúc đẩy cơ chế tự chịu trách
nhiệm và tự giám sát hoạt động của hội
thông qua cấu trúc quản trị nội bộ bằng cách
quy định rõ ràng các hội sẽ phải có cơ chế
quản trị nội bộ minh bạch, có trách nhiệm
giải trình rõ ràng với cơ quan cấp phép hoạt
động, với công chúng, các nhà tài trợ và các
thành viên của hội để bảo đảm hoạt động
minh bạch của hội và giảm tải gánh nặng lên
cơ quan nhà nước.
Thứ tám, nên bỏ quy định tại Điều 10
Dự thảo về Ban vận động thành lập hội.
Điều này không cần thiết phải quy định vì
nó sẽ làm cho việc thành lập hội phải đăng
ký đến hai lần
14 Trương Hồng Quang, Cần xem lại khái niệm “hội” khi xây dựng Luật về Hội, nguồn:
xem-lai-khai-niem-hoi-khi-xay-dung-luat-ve-hoi.
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoi_trong_xa_hoi_dan_su_va_du_thao_ve_hoi_o_viet_nam.pdf