Có thể nhận thấy rằng, câu chuyện
pháp lý về hợp pháp hoá hôn nhân cho những
người đồng giới cũng như vấn đề giải quyết
hệ quả pháp lý hậu hôn nhân đồng giới sẽ
còn kéo dài trong tương lại. Tương tự như
trường hợp của Mỹ, kể từ sau quyết định của
Tòa án Tối cao trong vụ việc Obergefell v.
Hodges17 mở rộng quyền cho các cặp đồng
giới kết hôn trên toàn quốc, cộng đồng
LGBT đã đấu tranh chống phân biệt đối xử
trong việc làm, nhà ở và nhà ở công cộng.
Vào ngày 13/5/2016, Tổng thống Obama đã
cân nhắc về "cuộc chiến nhà vệ sinh", khởi
nguồn từ những tranh cãi giữa các bang về
việc người chuyển giới có quyền sử dụng
phòng tắm với thông báo “Sinh viên có thể
sử dụng phòng tắm theo giới tính tự xác định
của họ”18.
Ngoài ra, một số các vấn đề pháp lý
khác như là quan hệ pháp lý giữa cha mẹ
và con, nuôi con nuôi, cấp dưỡng hay mang
thai hộ đối với các người đồng tính cũng là
những thách thức lớn cho các nhà lập pháp
tại Việt Nam
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hôn nhân đồng tính tại Hoa Kỳ và những gợi mở cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Hôn nhân đồng tính đã trở thành một trong những vấn đề chính
sách xã hội gây tranh cãi nhất trong thời đại chúng ta. Các cuộc
tranh luận về quyền cho cộng đồng người đồng tính (LGBT) đã
diễn ra trong nhiều thập kỷ và gần đây, hôn nhân đồng tính đã trở
thành nội dung dẫn đầu chương trình nghị sự xã hội ở nhiều nước
châu Âu và châu Mỹ. Một trong những nước có sự thay đổi chính
sách đáng chú ý về hôn nhân đồng tính là Hoa Kỳ và các chính
sách của quốc gia này có thể gợi mở các ý tưởng cho việc xây
dựng chính sách về hôn nhân đồng tính tại Việt Nam.
Hồ Minh Thành*
* ThS. GV. Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật, Đại học Huế.
Abstract
“Same-sex marriage” (SSM) has become one of the most
controversial social policy today. While debates on rights for the
Les-Gay-Bisexual-Transgender community (LGBT) have been
going on for decades, SSM has recently risen to the top of the
social agenda in European and American countries. One of the
most noticeable nations of the SSM policy is in the United States
and its policies may be considered as references and suggestions
for development of policy on “same-sex marriage” in Vietnam
in the future.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: hôn nhân, hôn nhân đồng tính,
pháp luật Hoa Kỳ, LGBT, quan hệ dân
sự đồng tính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/01/2019
Biên tập : 17/03/2019
Duyệt bài : 25/03/2019
Article Infomation:
Keywords: marriage, same-sex
marriage, US legislation, LGBT, same-
sex relationships
Article History:
Received : 03 Jan. 2019
Edited : 17 Mar. 2019
Approved : 25 Mar. 2019
HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH TẠI HOA KỲ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Chính sách của các quốc gia nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền kết hôn đối với người đồng tính có sự
khác biệt đáng kể trên toàn cầu. Theo Chiến
dịch Nhân quyền, hôn nhân đồng giới là
hợp pháp ở 20 quốc gia, hợp pháp ở một
số khu vực tài phán ở 2 quốc gia, phạm tội
hình sự ở 75 quốc gia và bị trừng phạt bằng
1 Human Rights Campaign, 2016, International Policies on Same-Sex Marriage, <https://www.infoplease.com/us/gen-
der-sexuality/international-policies-same-sex-marriage>, truy cập ngày 20/12/2018.
cái chết ở 10 quốc gia1. Trong khi các cuộc
tranh luận về quyền của người đồng tính đã
diễn ra trong nhiều thập kỷ, chỉ mới gần đây,
hôn nhân đồng tính (HNĐT) mới vươn lên
dẫn đầu chương trình nghị sự xã hội ở nhiều
nước châu Âu và châu Mỹ. Tại Hoa Kỳ, bên
cạnh sự thay đổi chính sách về thừa nhận
hôn nhân đồng giới, Toà án tối cao Hoa Kỳ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 10(386) T5/2019
ra phán quyết rằng, quyền kết hôn của các
cặp đồng giới sẽ được bảo vệ trên toàn bộ
50 bang của nước này từ năm 2015. Phán
quyết này đã được sự hưởng ứng và ủng hộ
của dư luận xã hội. Báo cáo của Trung tâm
nghiên cứu Pew 2017a cho thấy, sự ủng hộ
cho HNĐT đã tăng từ 35% trong năm 2001
lên 62% trong năm 20172.
1. Khái quát về hôn nhân đồng tính theo
pháp luật Hoa Kỳ
1.1 Cặp đôi đồng giới đầu tiên kết hôn hợp
pháp trong lịch sử Hoa Kỳ
Ngày 18/05/1970, hai người đàn ông
là Jack Baker và Micheal McConell đã nộp
đơn cho Thư ký Toà án Gerald R. Nelson tại
Hạt Hennepin để yêu cầu đăng ký kết hôn
(ĐKKH). Tuy nhiên Thư ký Toà án này đã
từ chối đơn vì hai người yêu cầu ĐKKH có
cùng giới tình. Không đồng tình với quyết
định đó, cặp đôi này đã khởi kiện với lập
luận, pháp luật vào thời điểm hiện tại không
hề có quy định cấm kết hôn đồng giới và
họ hoàn toàn đủ điều kiện để đăng ký kết
hôn theo quy định tại Điều 1, 4, 8 và 9 Hiến
pháp Mỹ. Tuy nhiên, nỗ lực của họ thất bại,
kể cả sau khi đã đệ đơn kháng cáo lên toà
án cấp cao3. Sau đó, Baker và McConnell
đã nộp đơn ĐKKH lại, lần này là tại Hạt
Blue Earth và họ đã thành công trong việc
xin giấy phép kết hôn ngay trước khi Tòa án
Minnesota tạm dừng giấy phép kết hôn đối
với các cặp đồng giới4. Cặp đôi này, do đó,
được xem như là "cặp đôi đồng giới đầu tiên
kết hôn hợp pháp trong lịch sử"5. Đây có thể
được xem như là một sự may mắn khi quyết
định cấm KHĐT năm 1972 "không hồi tố
đối trường hợp của Baker và McConnell" vì
hai người đã có được giấy ĐKKH và đã kết
hôn "đủ sáu tuần" trước đó.
2 Trung tâm Nghiên cứu Pew, n 1.
3 Baker v.Nelson, 291 Minn. 310, 191 N.W.2d 185 (1971).
4 Anon., "Minnesota Statutes Annotated", West Publishing Co. (June 1969), c. 517.01 – Marriage a civil contract.
"Marriage, so far as its validity in law is concerned, is a civil contract, to which the consent of the parties, capable in
law of contracting, is essential.
5 David E.Newton, Same-sex marriage, Second Edition, Contemporary World Issues, 2016, trang 6.
Năm 1977, Luật của bang Colorado
được thông qua với quy định rằng, hôn nhân
là một mối quan hệ xuất phát từ một người
nam và một người nữ. Và cho đến năm 1980,
hơn một nửa số bang tại Mỹ thông qua quy
định rằng, kết hôn phải được xuất phát từ hai
thực thể khác giới. Một thập kỷ sau, con số
này là 40 trong số 50 bang và đến năm 1945
là 45 trên 50 bang tại Mỹ. Năm 1996, Quốc
hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Bảo vệ hôn
nhân (Defense of Marriage Act - DOMA)
và được Tổng thống Clinton ký thành luật.
DOMA cho phép mỗi tiểu bang lựa chọn có
công nhận một liên minh đồng giới ở một
tiểu bang khác hay không.
Kể từ khi DOMA được thông qua, hầu
hết mọi tiểu bang đã tận dụng cơ hội bằng
cách ban hành luật hoặc sửa đổi Hiến pháp
của bang mình để tuyên bố hôn nhân đồng
giới là không hợp lệ, ngay cả đối với các cặp
vợ chồng kết hôn ở một bang khác mà tại
bang đó, cuộc hôn nhân đã được cấp phép.
Vì DOMA và luật pháp của các bang
không thừa nhận hôn nhân đồng giới và
nội dung này chưa được tòa án kiểm tra
tính hợp hiến, nên việc dựa vào luật pháp
để giải quyết vấn đề HNĐT là vấn đề gây
tranh cãi vào thời điểm bấy giờ. Do đó, năm
2002, một văn bản nhằm mục đích sửa đổi
Hiến pháp được đề xuất với tên gọi là Sửa
đổi Hôn nhân liên bang (Federal Marriage
Amendment - FMA) đã được trình ra trước
Quốc hội. Việc sửa đổi sẽ định nghĩa hôn
nhân là sự kết hợp của một người đàn ông và
một người phụ nữ và có thể được sử dụng để
phủ quyết sự bảo vệ của các tiểu bang hoặc
địa phương đối với các cặp đồng giới và con
cái của họ. Để trở thành một phần của Hiến
pháp Hoa Kỳ, FMA cần phải được hai phần
ba Quốc hội phê chuẩn và sau đó được phê
chuẩn bởi ba phần tư các cơ quan lập pháp
tiểu bang.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 10(386) T5/2019
1.2 Lược sử thời gian cho việc thay đổi
chính sách hôn nhân đồng giới tại Hoa Kỳ
Kể từ khi chính phủ liên bang im lặng
về chủ đề này, HNĐT luôn là vấn đề gây
tranh cãi gay gắt ở Hoa Kỳ. Trong vài thập
kỷ qua, các quyền và đặc quyền được mở
rộng cho cộng đồng LGBT đã tăng lên đáng
kể. Tuy nhiên, nhiều tiểu bang vẫn cứng rắn
trong việc mở rộng quyền bình đẳng cho
các cặp đồng tính theo luật. Năm 2015, Tòa
án Tối cao Hoa Kỳ phán quyết rằng, quyền
kết hôn phải được mở rộng cho các cặp
đồng tính. Phán quyết đã thay đổi đáng kể
bối cảnh của luật hôn nhân đồng giới trên
cả nước. Tuy nhiên, trước khi đi đến phán
quyết này, các bang được trao quyền quyết
định liệu hôn nhân đồng giới có được phép
trong phạm vi ranh giới của bang hay không.
Điều này làm cho pháp luật điều chỉnh hôn
nhân giữa những người cùng giới tính trở
nên phức tạp trong một thời gian dài.
1.3 Hệ quả pháp lý đằng sau sự thay đổi
các chế định của pháp luật Hoa Kỳ
a. Mức độ được bảo vệ theo từng
chế định
Trước khi các bang công nhận hôn
nhân đồng tính (same-sex marriage) - hôn
nhân hợp pháp giữa những người cùng giới
tính6 - một số chế định đã được các bang
lựa chọn nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa
những người đồng tính. Có thể kể đến các
chế định kết hợp dân sự (civil union) và sống
chung như vợ chồng (Domestic partner).
Kết hợp dân sự7 là một chế định được
tạo ra để mở rộng quyền cho các cặp đồng
giới. Những quyền này chỉ được công nhận
ở tiểu bang mà cặp vợ chồng cư trú8. Bên
cạnh đó, sống chung như vợ chồng9 cũng là
một chế định được tạo ra để mở rộng quyền
6 Nt
7 https://www.uslegalforms.com/familylaw/new-couple/domestic-partnership.htm, truy cập ngày 20/12/2018.
8 New Jersey (từ năm 2006) và New Hampshire (từ năm 2007) cho phép các kết hợp dân sự. Vermont ban hành vào năm
2000. https://www.uslegalforms.com/familylaw/new-couple/domestic-partnership.htm, truy cập ngày 20/12/2018.
9 Luật pháp toàn tiểu bang ở Hawaii, Maine, Oregon, Washington và luật toàn quận ở Quận Columbia trao một số quyền
vợ chồng nhất định cho các cặp đồng giới.
10 Equality Florida Action, truy cập ngày 20/12/2018.
cho các cặp vợ chồng chưa kết hôn, bao gồm
(nhưng không nhất thiết giới hạn ở) các cặp
đồng giới. “Quan hệ sống chung như vợ
chồng” thường được quy định bởi pháp luật
các tiểu bang với những hạn chế về quyền
hơn so với chế định “kết hợp dân sự”. Ví
dụ, ở New Jersey, một kết hợp dân sự tạo ra
nhiều trách nhiệm chung hơn về các khoản
nợ đồng thời cũng mang lại nhiều quyền lợi
hơn đối với tài sản khác. Trong khía cạnh
này, Sở Thuế vụ không công nhận HNĐT
hoặc “kết hợp dân sự cùng giới”. Điều này
có nghĩa là cặp vợ chồng không đủ điều kiện
để nhận các lợi ích liên bang dựa trên hôn
nhân hoặc nộp tờ khai thuế liên bang. Ví
dụ khác là, trong một vụ việc liên quan đến
quyền thăm bệnh của vợ chồng, năm 2007 cô
Lisa Pond đã chết tại Bệnh viện Jackson sau
khi bị phình động mạch não trong chuyến
đi nghỉ cùng với Janice Langbehn, đối tác
nữ của cô trên quãng đường từ Washington
đến Florida. Khi Lisa đang hấp hối tại bệnh
viện, một nhân viên xã hội của bệnh viện đã
từ chối cho Janice vào phòng bệnh của Lisa.
Janice nghe người này đã nói rằng Florida
là "một tiểu bang chống đồng tính". Janice
kiện ra tòa và một tòa án quận ở Miami,
Florida đã bác bỏ vụ kiện của Janice. Tòa
án cho rằng luật pháp Florida không yêu cầu
bệnh viện cho phép bạn tình đồng giới đến
thăm, ngay cả khi có giấy ủy quyền y tế hợp
lệ. Đây là thực tế mà hầu hết các cặp đồng
giới ở Hoa Kỳ phải đối mặt và nó trái ngược
hoàn toàn với cách mà các cặp vợ chồng
khác giới được đối xử ở mọi nơi10.
Việc công nhận HNĐT đã mang lại
quyền lợi cho các cặp đôi này một cách đầy
đủ hơn so với các chế định “kết hợp dân sự”
hay “sống chung như vợ chồng”. Nói một
cách khác, chỉ hôn nhân mới mang lại lợi
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 10(386) T5/2019
ích và sự bảo vệ một cách trọn vẹn trong
phạm vi toàn liên bang. HNĐT là cuộc hôn
nhân được công nhận hợp pháp giữa hai
vợ chồng cùng giới tính. Kể từ khi có phán
quyết của Tòa án Tối cao tại Obergefell, các
cặp vợ chồng đồng tính có các quyền và lợi
ích tương tự như các cặp vợ chồng khác giới
kết hôn hợp pháp khác, bao gồm giảm thuế,
quyền ra quyết định y tế khẩn cấp, tiếp cận
luật quan hệ trong nước, lợi ích vợ chồng
(bao gồm cả bồi thường cho người lao động),
quyền thừa kế và đặc quyền chứng thực của
người phối ngẫu11. Theo Văn phòng Kế toán
Tổng hợp của Chính phủ Liên bang (GAO),
tổng cộng sẽ có hơn 1.100 quyền lợi và
những bảo vệ khác được trao cho công dân
Hoa Kỳ sau khi kết hôn hợp pháp. Các lĩnh
vực được bảo vệ bao gồm lợi ích an sinh xã
hội, quyền lợi của cựu chiến binh, bảo hiểm
y tế, trợ cấp y tế, quyền thăm bệnh, thuế bất
động sản, tiết kiệm hưu trí, lương hưu, nghỉ
phép cũng với gia đình cũng như là nhập
cư12. Đây cũng là một trong những sự khác
biệt căn bản về mặt lợi ích của HNĐT sau
khi được chấp nhận ở cấp liên bang13.
b. Xung đột pháp luật giữa các tiểu
bang trong giai đoạn 1997 - 2005
Bên cạnh việc làm gia tăng các quyền
và lợi ích hợp pháp cho các cặp đôi đồng
tính, phán quyết của Toà án Tối cao Mỹ
cũng giải quyết được vấn đề xung đột pháp
luật phức tạp tại đây trong giai đoạn 1997-
2005. Sau khi Hawaii trở thành tiểu bang đầu
tiên công nhận mối quan hệ dân sự giữa hai
người đồng tính (1997) đến trước khi Toà án
tối cao Hợp chúng quốc Hoa Kỳ bắt buộc
các bang phải cho phép những người đồng
giới kết hôn, luật pháp của các tiểu bang tạo
nên một sự xung đột pháp luật nặng nề. Điều
này tạo ra sự khác biệt về tình trạng pháp
lý của các cặp đồng tính, từ quyền kết hôn
11 https://family.findlaw.com/marriage/same-sex-marriage-civil-unions-and-domestic-partnerships.html truy cập ngày
20/12/2018.
12 Marriage: same-sex and opposite-sex: Legal and economic benefits of marriage.
truy cập ngày 20/12/2018.
13 https://www.uslegalforms.com/familylaw/new-couple/domestic-partnership.htmtruy cập ngày 20/12/2018.
đầy đủ ở một số bang cho đến việc từ chối
hoàn toàn bất kỳ sự công nhận nào ở hầu hết
những người khác.
Do sự khác biệt trong quy định của
pháp luật giữa các tiểu bang, một hành động
đơn thuần như di chuyển qua biên giới của
một tiểu bang trong lãnh thổ Mỹ cũng có thể
gây ra hệ quả pháp lý khác biệt cho các cặp
đồng tính. Ngay cả trong một ngày du hành
xuyên nước Mỹ, hai công dân đồng tính có
thể trải qua các tình trạng pháp lý thay đổi
một cách đáng ngạc nhiên. Theo đó, họ có
thể được xem là đang trong tình trạng kết
hôn hợp pháp ở một tiểu bang, nhưng chỉ còn
là cấp đối tác trong một bang khác hay được
coi là những người lạ hoàn toàn tại bang thứ
ba. Chính vì vậy, những cặp đồng tính này
luôn luôn phải nhận thức được những nguy
cơ pháp lý và sự bảo vệ từ các văn phòng
luật sư để giúp họ tự bảo vệ mình, bao gồm
hiểu biết về những rủi ro của việc đi lại giữa
các tiểu bang không tôn trọng các mối quan
hệ gia đình này.
2. Những gợi mở cho Việt Nam
Từ thực trạng pháp lý về HNĐT tại
Hoa Kỳ, chúng tôi nhận thấy có một số gợi
mở cho việc xây dựng chính sách, pháp luật
về quyền kết hôn của người đồng giới tại
Việt Nam:
Thứ nhất, với các trường hợp HNĐT,
chúng ta có thể cấp một giấy chứng nhận
về mối quan hệ dân sự, với hệ quả pháp lý
như hợp đồng tiền hôn nhân của pháp luật
các nước (civil union). Như đã phân tích,
ở Hoa Kỳ, nhiều cặp đồng giới đã thiết lập
mối quan hệ lâu dài trước khi có quyền kết
hôn dân sự. Tác động và lợi ích có thể có của
việc công nhận hôn nhân và hôn nhân đối
với các cặp vợ chồng lâu dài đã được kiểm
tra qua một nghiên cứu bằng cách sử dụng
dữ liệu từ một mẫu của các thành viên cặp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 10(386) T5/2019
vợ chồng: 307 trong một cuộc hôn nhân dân
sự và 50 không có tình trạng quan hệ pháp
lý. Nghiên cứu được báo cáo được thực hiện
trước khi công nhận kết hôn ở tất cả các
tiểu bang của Hoa Kỳ và kiểm tra mối liên
hệ của tình trạng hôn nhân và sống trong
tình trạng công nhận hôn nhân dân sự của
các cặp đồng giới với bản báo cáo về LGB
dương tính và âm tính (đồng tính nữ, đồng
tính nam và lưỡng tính) bản sắc, hỗ trợ xã
hội và phân biệt đối xử hàng ngày. Các phân
tích hồi quy Dyadic cho thấy những người
tham gia vào một cuộc hôn nhân dân sự đã
báo cáo mức độ trung tâm nhận dạng LGB
cao hơn và sự hỗ trợ từ đối tác. Sống trong
một tiểu bang được công nhận hôn nhân dân
sự có liên quan đến việc che giấu danh tính
LGB ở mức độ thấp hơn, một quá trình ít
khó khăn hơn để chấp nhận một danh tính
LGB khác, và ít cảnh giác và cô lập hơn. Kết
quả được thảo luận về lợi ích của các mối
quan hệ lâu dài và tác động của bối cảnh lịch
sử xã hội và chính sách hôn nhân đối với các
mối quan hệ đồng giới14.
Thứ hai, Hiến pháp Việt Nam năm
2013 quy định “nam, nữ có quyền kết
hôn.” Như vậy, có thể thấy rằng, Hiến pháp
2013 chỉ quy định về quyền kết hôn chứ
không định nghĩa về quyền kết hôn. Quy
định về quyền kết hôn của “nam, nữ” không
ảnh hưởng hay ngăn cản quyền kết hôn của
người đồng tính. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 lại có quy định “Kết
hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau theo quy định của Luật này
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”15.
Quy định này có thể được xem là một trở
ngại trong việc luật hoá quyền kết hôn của
những người đồng tính tại Việt Nam trong
tương lai.
14 Riggle, Ellen D. B., Impact of Civil Marriage Recognition for Long-Term Same-Sex Couples, Sexuality Research &
Social Policy: A Journal of the NSRC, Vol 14(2), Jun, 2017. pp. 223-232.
15 Khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014
16 Điều 36 Hiến pháp 2013
17 576 U.S. (2015).
18 The American Gay Rights Movement: A Timeline, <https://www.infoplease.com/us/gender-issues/ameri-
can-gay-rights-movement-timeline>, truy cập ngày 20/12/2018.
Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013
cũng có quy định về nguyên tắc “một vợ
một chồng”16. Tuy nhiên, nguyên tắc có được
hiểu trên tinh thần pháp luật Việt Nam chỉ
công nhận tình trạng pháp lý là “đơn hôn”,
với nội hàm là “không ai được kết hôn với
người khác khi đang ở trong tình trạng hôn
nhân”. Do đó, hôn nhân giữa hai người cùng
giới tính mà đáp ứng được được nguyên tắc
này cũng nên được xem là hợp hiến.
Nói tóm lại, Hiến pháp Việt Nam
không ban hành bất kỳ một lý thuyết nào về
hôn nhân. Chính vì vậy chúng ta có thể tự
do mở rộng đối tượng được kết hôn bao gồm
các cặp đồng giới.
*
Có thể nhận thấy rằng, câu chuyện
pháp lý về hợp pháp hoá hôn nhân cho những
người đồng giới cũng như vấn đề giải quyết
hệ quả pháp lý hậu hôn nhân đồng giới sẽ
còn kéo dài trong tương lại. Tương tự như
trường hợp của Mỹ, kể từ sau quyết định của
Tòa án Tối cao trong vụ việc Obergefell v.
Hodges17 mở rộng quyền cho các cặp đồng
giới kết hôn trên toàn quốc, cộng đồng
LGBT đã đấu tranh chống phân biệt đối xử
trong việc làm, nhà ở và nhà ở công cộng.
Vào ngày 13/5/2016, Tổng thống Obama đã
cân nhắc về "cuộc chiến nhà vệ sinh", khởi
nguồn từ những tranh cãi giữa các bang về
việc người chuyển giới có quyền sử dụng
phòng tắm với thông báo “Sinh viên có thể
sử dụng phòng tắm theo giới tính tự xác định
của họ”18.
Ngoài ra, một số các vấn đề pháp lý
khác như là quan hệ pháp lý giữa cha mẹ
và con, nuôi con nuôi, cấp dưỡng hay mang
thai hộ đối với các người đồng tính cũng là
những thách thức lớn cho các nhà lập pháp
tại Việt Nam
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 10(386) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hon_nhan_dong_tinh_tai_hoa_ky_va_nhung_goi_mo_cho_viet_nam.pdf