Ngoài ra, đối với trường hợp mua
bán nợ của VAMC, tại mẫu hợp đồng mua
bán nợ do VAMC ban hành và yêu cầu các
TCTD thực hiện có quy định, bên bán nợ
có một số quyền và nghĩa vụ sau: (i) Nhận
trái phiếu đặc biệt từ VAMC theo giá mua,
bán nợ đã được thỏa thuận trong hợp
đồng này và được sử dụng trái phiếu đặc
biệt để vay tái cấp vốn của NHNN theo
quy định của NHNN; (ii) Chuyển giao đầy
đủ toàn bộ hồ sơ của khoản nợ và tài sản
bảo đảm của các khoản nợ được mua, bán
theo hợp đồng này cho VAMC; (iii) Trong
vòng 10 ngày, kể từ ngày kí hợp đồng này,
phải thông báo bằng văn bản cho bên nợ,
bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm và
các bên liên quan khác về việc mua, bán
đối với các khoản nợ; (iv) Được đề nghị
mua lại khoản nợ đã bán cho VAMC theo
nguyên tắc thỏa thuận về điều kiện và giá
mua, bán nợ trong trường hợp trái phiếu
đặc biệt chưa đến hạn thanh toán; (v)
Nhận ủy quyền và thực hiện đúng, đầy
đủ các nội dung ủy quyền của VAMC.
Có thể nhận thấy rằng, quy định
về quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ
như hiện nay đã khá chi tiết, rõ ràng. Tuy
nhiên, quan điểm của tác giả cho rằng
quy định này vẫn chưa đầy đủ, chưa thực
sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của bên mua nợ vì còn thiếu quy định về
trách nhiệm của bên bán nợ trong trường
hợp bên bán nợ cung cấp cho bên mua nợ
những thông tin, tài liệu sai lệch về tình
trạng của khoản nợ.
Do vậy, để khắc phục được hạn chế
này, pháp luật cần: Quy định rõ trách
nhiệm của bên bán nợ khi cung cấp thông
tin về khoản nợ không đúng sự thật. Theo
đó, quy định “bên bán nợ phải bồi thường
thiệt hại nếu cung cấp thông tin về khoản nợ
không đúng sự thật mà gây thiệt hại cho bên
mua nợ”.
Việc pháp luật quy định rõ những vấn
đề nêu trên sẽ bảo đảm quyền lợi chính
đáng không chỉ của bên mua nợ và bên
bán nợ mà còn đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng vay, bên bảo đảm
Tóm lại, hoàn thiện pháp luật về hoạt
động mua, bán nợ của TCTD nói chung
và các quy định về hợp đồng mua, bán nợ
của TCTD nói riêng là việc làm hết sức cần
thiết. Bởi lẽ, hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh là khuôn khổ pháp lý hữu ích
để hạn chế tranh chấp phát sinh, bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
chủ thể. Đồng thời, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của hoạt động mua, bán nợ của
TCTD cũng như sự phát triển của loại thị
trường này. Từ đó, góp phần giải quyết
hiệu quả vấn đề nợ xấu, làm tan “cục máu
đông” và khơi thông dòng chảy tín dụng,
đảm bảo sự an toàn vốn của các TCTD,
sự phát triển nhanh và bền vững của nền
kinh tế.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp đồng mua, bán nợ của tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam hiện hành - Một số vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với
nhau, thì những người giữ chúng phải đối
xử với nhau như những người mà ý chí nằm
trong các vật đó(1). Như vậy, các quan hệ tài
sản chỉ được hình thành từ những hành vi
có ý chí của chủ thể. Tuy nhiên, nếu chỉ có
một bên thể hiện ý chí của mình mà không
được bên kia chấp nhận thì cũng không
thể hình thành một quan hệ để qua đó
thực hiện việc chuyển giao tài sản. Chính
vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống
nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao
đổi lợi ích vật chất mới được hình thành.
1 Các Mác: “Tư bản”, quyển 1, tập I, Nxb Sự thật, Hà
Nội 1973, trang 163
Trên cơ sở học thuyết này, khoản nợ
của tổ chức tín dụng (TCTD) - một loại
hàng hóa đặc biệt cũng được mang ra
để trao đổi thông qua việc mua bán để
từ đó tạo lập nên thị trường mua, bán
nợ. Như vậy, thị trường này được hình
thành dựa trên sự thỏa thuận, thống nhất
ý chí của các bên: Bên bán nợ (TCTD) và
bên mua nợ. Sự thỏa thuận, thống nhất
ý chí của các bên về việc mua bán nợ
của TCTD chính là hợp đồng mua bán
nợ của TCTD. Đây không chỉ là phương
tiện pháp lý tạo điều kiện cho các chủ
thể trao đổi hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu
kinh doanh của mình mà quá trình xác
lập và thực hiện loại hợp đồng này còn
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật Dân sự và Kiểm sát Dân
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
HỢP ĐỒNG MUA, BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH -
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG *
Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tài
chính ngân hàng nói riêng, trong đó có pháp luật về hoạt động mua bán nợ
của tổ chức tín dụng (TCTD) đã từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên trong
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đó vẫn còn bộc lộ những hạn chế,
bất cập, những điểm chưa phù hợp với thực tiễn. Đơn cử là hệ thống pháp luật
về hoạt động mua, bán nợ của TCTD trong đó có các quy định về hợp đồng
mua, bán nợ của TCTD còn bộc lộ những hạn chế nhất định đòi hỏi cần phải
được hoàn thiện.
Từ khóa: Hợp đồng mua, bán nợ, tổ chức tín dụng.
Recently, legal system, in general, and laws of banking and
finance, in particular, including law of debt purchase and sale by credit
institutions have been gradually completed. However, legal documents
have witnessed some entanglements, shortcomings that is not
inconsistent with reality. For instance, legal system on debt purchase
and sale by credit institutions, especially regulations on debt purchase
and sale agreement by credit institutions have met some limitations
requiring to be completed.
Keywords: Debt purchase and sale agreement, credit institutions.
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG
39Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
đóng góp đáng kể vào quá trình xử lý nợ
xấu, góp phần đảm bảo an toàn cho cả hệ
thống ngân hàng.
Chính vì lẽ đó, pháp luật ngân hàng
nói chung và pháp luật về hoạt động
mua, bán nợ của TCTD nói riêng trong
suốt thời gian vừa qua đã không ngừng
được hoàn thiện. Song, bên cạnh những
ưu điểm thì hiện nay quy định của pháp
luật Việt Nam về hợp đồng mua, bán nợ
của TCTD vẫn còn một số vướng mắc,
bất cập cần khắc phục, sửa đổi. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về khái niệm hợp đồng
mua, bán nợ của TCTD
Hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật tài chính ngân hàng
nói riêng, liên quan đến hoạt động mua,
bán nợ của TCTD thì hiện nay chưa có
khái niệm về hợp đồng mua, bán nợ của
TCTD. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, cần
thiết phải có một quy định chung về cách
hiểu đối với loại hợp đồng này vì những
lẽ sau:
Trước tiên, khái niệm về hợp đồng
mua, bán nợ của TCTD là cơ sở ban đầu
để phân biệt được loại hợp đồng này với
hợp đồng mua bán tài sản nói chung. Vì
hợp đồng mua, bán nợ của TCTD mặc dù
là một dạng cụ thể của hợp đồng mua
bán tài sản nhưng vì đối tượng của hợp
đồng mua bán ở đây là một loại hàng hóa
đặc biệt (quyền đòi nợ - quyền tài sản)
cho nên bên cạnh những đặc điểm chung
của hợp đồng mua bán tài sản như: (i) là
hợp đồng song vụ; (ii) là hợp đồng có đền
bù thì hợp đồng mua, bán nợ của TCTD
cũng có những điểm đặc thù về: (i) chủ
thể; (ii) đối tượng; (iii) quyền và nghĩa vụ
của các bên; (iv) cơ sở xác lập hợp đồng
(phát sinh từ các hợp đồng tín dụng).
Tiếp đến, xuất phát từ thực tiễn, mặc
dù hiện nay đã có nhiều cách tiếp cận
khái niệm này từ những cơ sở khác nhau
nhưng lại chưa phản ánh được đặc trưng
quan trọng nhất của quan hệ mua, bán nợ
đó là việc bên bán nợ chuyển giao quyền
sở hữu đối với quyền đòi nợ (quyền tài
sản) cho bên mua nợ.
Chính vì vậy, tác giả đề xuất, kiến
nghị như sau: Cần bổ sung quy định làm
rõ được mục đích, bản chất pháp lý của
hợp đồng mua bán nợ là chuyển quyền sở
hữu đối với quyền đòi nợ (quyền tài sản)
trên cơ sở trao đổi giá trị bằng tiền hoặc
giấy tờ có giá. Theo đó, có thể quy định
như sau: “Hợp đồng mua bán nợ của TCTD
là sự thỏa thuận giữa bên bán nợ (TCTD)
và bên mua nợ, theo đó bên bán nợ (TCTD)
chuyển quyền sở hữu đối với khoản nợ (và
tài sản bảo đảm của khoản nợ nếu có) cho bên
mua nợ, còn bên mua nợ có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán nợ”.
Thứ hai, quy định về những nội
dung chủ yếu trong hợp đồng mua, bán
nợ của TCTD
Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ
của TCTD là tổng hợp những điều khoản
ghi nhận sự thỏa thuận, cam kết của bên
bán nợ và bên mua nợ. Các nội dung
trong hợp đồng mua, bán nợ xác định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các
bên trong hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 13 Thông
tư số 09/2015/TT-NHNN ngày 17 tháng
5 năm 2015 của Ngân hàng Nhà nước
quy định về hoạt động mua, bán nợ của
TCTD, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
(sau đây gọi tắt là Thông tư số 09/2015/
TT-NHNN) thì “Hợp đồng mua, bán nợ
phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
(i) Thời gian kí kết hợp đồng mua, bán nợ;
(ii) Tên, địa chỉ của các bên tham gia kí kết
hợp đồng mua, bán nợ; (iii) Tên, chức danh
người đại diện của các bên tham gia kí kết hợp
đồng mua, bán nợ; (iv) Tên, địa chỉ của bên
HỢP ĐỒNG MUA, BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG...
40 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
nợ và các bên liên quan (nếu có) tới khoản nợ
được mua, bán; (v) Chi tiết khoản nợ mua,
bán: Số tiền vay, thời hạn vay, mục đích, giá
trị ghi sổ của khoản nợ đến thời điểm thực
hiện mua, bán nợ; (vi) Các biện pháp bảo đảm
cho nghĩa vụ thanh toán của bên nợ đối với
khoản nợ được mua, bán (nếu có); (vii) Giá
bán nợ, phương thức thanh toán, thời hạn
thanh toán; (viii) Thời điểm, phương thức và
thủ tục chuyển giao hồ sơ, chứng từ khoản
nợ, bao gồm cả hồ sơ, tài liệu về tài sản bảo
đảm của khoản nợ (nếu có); Thời điểm bên
mua nợ trở thành người thế quyền, nghĩa vụ
đối với khoản nợ của bên bán nợ; (ix) Quyền
và nghĩa vụ của bên bán nợ, bên mua nợ;
(x) Trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp
đồng; (xi) Giải quyết tranh chấp phát sinh”.
Như vậy, so với quy định về hợp
đồng tại khoản 2 Điều 398 Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì quy định tại Điều 13 Thông
tư số 09/2015/TT - NHNN cho thấy pháp
luật đã bộc lộ tính cứng nhắc, chưa thật
sự mềm dẻo, linh hoạt, thể hiện sự tôn
trọng quyền tự do hợp đồng của các bên
khi tham gia vào hoạt động mua, bán nợ
của TCTD.
Do đó, cần sửa đổi quy định về
những nội dung chủ yếu trong hợp đồng
mua, bán nợ của TCTD. Theo hướng, sửa
quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số
09/2015/TT-NHNN như sau: “Hợp đồng
mua, bán nợ của TCTD có thể có các nội dung
sau đây:”. Quy định theo hướng này sẽ
thể hiện được tính chất mềm dẻo, sự linh
hoạt cũng như thái độ tôn trọng quyền tự
do hợp đồng của các bên khi tham gia vào
hoạt động mua, bán nợ của TCTD.
Thứ ba, quy định về quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng mua, bán
nợ của TCTD
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng mua bán nợ của TCTD được
xác định bởi chính hợp đồng đã giao kết.
Việc định rõ quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng là điều vô cùng quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện hợp đồng, giảm thiểu những tranh
chấp có thể phát sinh. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy không thể tiên liệu được hết
các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên
trong hợp đồng mua, bán nợ của TCTD
mà tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
các bên sẽ thỏa thuận xác lập các quyền và
nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy định
của pháp luật.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ
Sau khi mua quyền đòi nợ, bên mua
nợ của TCTD trở thành chủ nợ được kế
thừa đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của bên
bán nợ đối với khoản nợ đã mua; quyền
và nghĩa vụ đối với các bên tham gia bảo
đảm khoản nợ (nếu có). Theo quy định
tại Điều 16 Thông tư 09/2015/TT-NHNN
Bên mua nợ có các quyền: (i) Yêu cầu bên
bán nợ cung cấp thông tin về khoản nợ
được mua, bán (bao gồm cả thông tin liên
quan đến hình thành, quản lý khoản nợ);
(ii) Kế thừa đầy đủ các quyền của bên bán
nợ đối với khoản nợ theo thỏa thuận, phù
hợp với quy định của pháp luật; (iii) Yêu
cầu bên bán nợ chuyển giao hồ sơ và hoàn
tất các thủ tục để chuyển giao đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ của bên bán nợ, phù hợp
với thỏa thuận của các bên tại hợp đồng
mua, bán nợ và quy định của pháp luật;
(iv)Yêu cầu bên bán nợ thực hiện đúng,
đầy đủ các nghĩa vụ cam kết theo thỏa
thuận; (v) Các quyền khác theo thỏa thuận
và quy định của pháp luật.
Bên cạnh các quyền, bên mua nợ có
các nghĩa vụ sau: (i) Thanh toán đầy đủ,
đúng hạn cho bên bán nợ theo hợp đồng
mua bán nợ; (ii) Thanh toán các chi phí (kể
cả chi phí môi giới nếu có) phát sinh trong
quá trình mua, bán nợ theo thỏa thuận;
(iii) Kế thừa đầy đủ các nghĩa vụ của bên
bán nợ đối với khoản nợ theo thỏa thuận,
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG
41Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phù hợp với quy định của pháp luật; (iv)
Thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
khác theo thỏa thuận và quy định của
pháp luật.
Đối với trường hợp Công ty Quản
lý tài sản Việt Nam (Vietnam Asset
Management Company –VAMC) là bên
mua nợ, tại khoản 1 Điều 19 Thông tư số
19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của
Ngân hàng nhà nước quy định về mua,
bán và xử lý nợ xấu của Công ty quản lý
tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC) quy định Công ty quản lý tài sản
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng mua, bán nợ trong các trường
hợp: (i) Có bằng chứng về việc khoản nợ
xấu đã mua không đáp ứng đầy đủ các
điều kiện quy định của pháp luật; (ii)
TCTD bán nợ vi phạm quy định của pháp
luật. Ngoài ra, tại mẫu hợp đồng mua
bán nợ do VAMC ban hành và yêu cầu
các TCTD thực hiện có quy định rõ hơn
một số quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ
như: (i) Yêu cầu TCTD thông báo cho Bên
nợ và các bên liên quan của các khoản nợ
bằng văn bản về việc mua, bán nợ này; (ii)
Thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý, thu hồi
nợ. Nhận chính tài sản bảo đảm để thay
thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên
bảo đảm theo quy định của pháp luật; (iii)
Được ủy quyền cho TCTD thực hiện xử lý
nợ sau khi đã mua nợ của TCTD(1).
Từ những quy định của pháp luật
nêu trên, có thể nói so với các văn bản
pháp luật trước đây thì hiện nay quyền
và nghĩa vụ của bên mua nợ đã được quy
định khá chi tiết và cụ thể, theo xu hướng
đảm bảo cao hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của bên mua nợ. Đặc biệt là việc thừa
1 Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam
(2013), Quyết định số 16/QĐ-HĐTV ngày 24/9/2013
của Hội đồng thành viên về Ban hành Quy chế mua,
bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của
các TCTD Việt Nam, Hà Nội
nhận quyền yêu cầu của bên mua nợ đối
với bên bán nợ trong việc cung cấp thông
tin về khoản nợ. Đây là việc làm hết sức
cần thiết để các nhà đầu tư đưa ra quyết
định đầu tư của mình. Tuy nhiên, tác giả
cho rằng quy định của pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của bên mua nợ vẫn còn có sự
bất cập, đó là chưa có quy định cụ thể về
phạm vi của quyền yêu cầu. Có nghĩa là
bên mua nợ có quyền yêu cầu bên bán nợ
cung cấp mọi thông tin, tài liệu liên quan
đến khoản nợ hay chỉ giới hạn trong một
số loại thông tin, tài liệu.
Do vậy, tác giả có đề xuất, kiến nghị
như sau: Cần quy định rõ ràng phạm vi
của quyền yêu cầu cung cấp thông tin của
bên mua nợ và nghĩa vụ cung cấp thông
tin của bên bán nợ. Theo đó, quy định
“bên mua nợ có quyền yêu cầu bên bán nợ
cung cấp mọi thông tin, tài liệu liên quan đến
khoản nợ”.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ
Bên bán nợ có quyền và nghĩa vụ theo
quy định tại Điều 17 Thông tư 09/2015/TT-
NHNN. Theo đó, bên bán nợ có quyền:
(i) Yêu cầu bên mua nợ thanh toán theo
thỏa thuận; (ii) Yêu cầu bên mua nợ phải
thực hiện theo đúng các nghĩa vụ cam kết;
(iii) Các quyền khác theo thỏa thuận và
theo quy định của pháp luật. Đồng thời
bên bán nợ cũng có những nghĩa vụ sau:
(i) Thông báo bằng văn bản cho bên nợ
và các bên liên quan những nội dung của
việc bán nợ chậm nhất 5 ngày làm việc
kể từ ngày các bên ký kết hợp đồng mua,
bán nợ hoặc sửa đổi, bổ sung hợp đồng
mua, bán nợ. Trường hợp pháp luật có
quy định khác hoặc theo thỏa thuận giữa
bên bán nợ và bên nợ hoặc trong trường
hợp cần thiết, bên bán nợ thông báo bằng
văn bản việc bán nợ cho bên nợ trước khi
kí kết hợp đồng mua, bán nợ; (ii) Cung
cấp các thông tin liên quan đến khoản nợ
được bán theo yêu cầu của bên mua nợ,
HỢP ĐỒNG MUA, BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG...
42 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật
và không trái với các thỏa thuận tại hợp
đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã
kí kết; (iii) Chuyển giao đầy đủ, đúng hạn
nguyên trạng hồ sơ khoản nợ theo thỏa
thuận cho bên mua nợ; (iv) Chuyển giao
nguyên trạng quyền, nghĩa vụ đối với
khoản nợ được bán bao gồm cả quyền,
nghĩa vụ đối với biện pháp bảo đảm của
khoản nợ, bảo hiểm của khoản nợ (nếu có)
cho bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán
nợ và quy định của pháp luật; (v) Thanh
toán các chi phí (kể cả phí môi giới nếu
có) phát sinh trong quá trình mua, bán nợ
theo thỏa thuận; (vi) Thực hiện đúng và
đầy đủ các nghĩa vụ khác theo thỏa thuận
và quy định pháp luật.
Ngoài ra, đối với trường hợp mua
bán nợ của VAMC, tại mẫu hợp đồng mua
bán nợ do VAMC ban hành và yêu cầu các
TCTD thực hiện có quy định, bên bán nợ
có một số quyền và nghĩa vụ sau: (i) Nhận
trái phiếu đặc biệt từ VAMC theo giá mua,
bán nợ đã được thỏa thuận trong hợp
đồng này và được sử dụng trái phiếu đặc
biệt để vay tái cấp vốn của NHNN theo
quy định của NHNN; (ii) Chuyển giao đầy
đủ toàn bộ hồ sơ của khoản nợ và tài sản
bảo đảm của các khoản nợ được mua, bán
theo hợp đồng này cho VAMC; (iii) Trong
vòng 10 ngày, kể từ ngày kí hợp đồng này,
phải thông báo bằng văn bản cho bên nợ,
bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm và
các bên liên quan khác về việc mua, bán
đối với các khoản nợ; (iv) Được đề nghị
mua lại khoản nợ đã bán cho VAMC theo
nguyên tắc thỏa thuận về điều kiện và giá
mua, bán nợ trong trường hợp trái phiếu
đặc biệt chưa đến hạn thanh toán; (v)
Nhận ủy quyền và thực hiện đúng, đầy
đủ các nội dung ủy quyền của VAMC.
Có thể nhận thấy rằng, quy định
về quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ
như hiện nay đã khá chi tiết, rõ ràng. Tuy
nhiên, quan điểm của tác giả cho rằng
quy định này vẫn chưa đầy đủ, chưa thực
sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của bên mua nợ vì còn thiếu quy định về
trách nhiệm của bên bán nợ trong trường
hợp bên bán nợ cung cấp cho bên mua nợ
những thông tin, tài liệu sai lệch về tình
trạng của khoản nợ.
Do vậy, để khắc phục được hạn chế
này, pháp luật cần: Quy định rõ trách
nhiệm của bên bán nợ khi cung cấp thông
tin về khoản nợ không đúng sự thật. Theo
đó, quy định “bên bán nợ phải bồi thường
thiệt hại nếu cung cấp thông tin về khoản nợ
không đúng sự thật mà gây thiệt hại cho bên
mua nợ”.
Việc pháp luật quy định rõ những vấn
đề nêu trên sẽ bảo đảm quyền lợi chính
đáng không chỉ của bên mua nợ và bên
bán nợ mà còn đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng vay, bên bảo đảm
Tóm lại, hoàn thiện pháp luật về hoạt
động mua, bán nợ của TCTD nói chung
và các quy định về hợp đồng mua, bán nợ
của TCTD nói riêng là việc làm hết sức cần
thiết. Bởi lẽ, hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh là khuôn khổ pháp lý hữu ích
để hạn chế tranh chấp phát sinh, bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
chủ thể. Đồng thời, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của hoạt động mua, bán nợ của
TCTD cũng như sự phát triển của loại thị
trường này. Từ đó, góp phần giải quyết
hiệu quả vấn đề nợ xấu, làm tan “cục máu
đông” và khơi thông dòng chảy tín dụng,
đảm bảo sự an toàn vốn của các TCTD,
sự phát triển nhanh và bền vững của nền
kinh tế./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_dong_mua_ban_no_cua_to_chuc_tin_dung_theo_phap_luat_viet.pdf