Hợp đồng vô hiệu do lợi thế không công bằng hoặc lợi ích thái quá theo bộ nguyên tắc chung về luật hợp đồng châu Âu
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu do lợi thế không công bằng hoặc
lợi ích thái quá
PECL cũng giống như luật của các
quốc gia trên thế giới, khi quy định về
vấn đề hủy bỏ hợp đồng thì hậu quả
pháp lý của việc hủy bỏ cần được dự liệu
ghi nhận. Khi hợp đồng vô hiệu do lợi
thế không công bằng hoặc lợi ích thái quá
thì hậu quả pháp lý được giải quyết theo
quy định tại Điều 4:115 PECL: “Một trong
hai bên có quyền yêu cầu bồi hoàn những gì
đã cung cấp theo hợp đồng hoặc một phần
của hợp đồng mà bị tuyên bố hủy, với điều
kiện họ đồng thời bồi hoàn những gì họ đã
được nhận theo hợp đồng hoặc một phần của
hợp đồng mà bị tuyên bố hủy. Nếu bồi hoàn
không thể thực hiện bằng hiện vật thì bên bị
bồi hoàn phải trả một khoản tiền hợp lý cho
những gì anh ta đã nhận được”6. Quy định
này được hiểu:
- Các bên chủ thể trong hợp đồng có
quyền yêu cầu bên kia hoàn trả lại những
gì mà họ đã chuyển giao trong quá trình
thực hiện hợp đồng; và đồng thời:
- Họ cũng phải hoàn trả lại những gì
họ đã được nhận theo hợp đồng hoặc một
phần của hợp đồng mà bị tuyên bố hủy.
Việc hoàn trả giữa các bên chủ thể
trong hợp đồng được tiến hành như:
trước hết các bên hoàn trả lại tài sản, hiện
vật theo đúng như tình trạng khi các bên
nhận. Tuy nhiên, Điều 4:115 của PECL
cũng đã dự liệu thêm nếu các bên không
thể hoàn trả bằng hiện vật thì các bên có
thể quy ra tiền để tiến hành việc hoàn trả.
Nghiên cứu quy định về hậu quả
pháp lý khi hợp đồng vô hiệu của PECL
cho thấy một sự tương thích khá lớn với
quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm
2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu, theo đó:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao
dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
.”.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp đồng vô hiệu do lợi thế không công bằng hoặc lợi ích thái quá theo bộ nguyên tắc chung về luật hợp đồng châu Âu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỢI THẾ KHÔNG CÔNG BẰNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
1. Hợp đồng vô hiệu do lợi thế không
công bằng hoặc lợi ích thái quá
Hợp đồng được hình thành dựa trên
kết quả thống nhất ý chí của hai hay
nhiều bên. Mục đích chủ yếu nhất thúc
đẩy các bên giao kết hợp đồng là yếu tố
lợi ích. Do đó, PECL đặc biệt quan tâm
tới vấn đề công bằng và lợi ích giữa các
bên chủ thể. Trường hợp một bên giao
kết hợp đồng do sự bất lợi về lợi thế hoặc
lợi ích giữa bên giao kết hợp đồng là thái
quá, thì hợp đồng có thể bị hủy bỏ do vô
hiệu. Khoản 1 Điều 4:109 PECL quy định
về vấn đề này như sau:
“(1) Một bên có thể hủy bỏ hợp đồng
nếu, tại thời điểm giao kết hợp đồng:
(a) Họ bị phụ thuộc vào hoặc có quan hệ
tín thác với bên kia, đang gặp khó khăn về
kinh tế hoặc có nhu cầu cấp bách, thiếu hiểu
biết, thiếu kinh nghiệm hoặc kỹ năng thương
lượng, và
(b) Bên kia biết hoặc phải biết về điều
này và lợi dụng tình huống của bên thứ nhất
theo cách không công bằng hoặc thu lấy lợi
ích thái quá với hoàn cảnh và mục đích của
hợp đồng”1.
Theo quy định được trích dẫn ở trên,
hợp đồng có thể bị hủy bỏ vì lý do lợi thế
không công bằng hoặc do lợi ích thái quá
mà một bên trong hợp đồng đạt được khi
1 Article 4:109: Excessive Benefit or Unfair Advantage
“(1) A party may avoid a contract if, at the time of the
conclusion of the contract:
(a) it was dependent on or had a relationship of trust with
the other party, was in economic distress or had urgent
needs, was improvident, ignorant, inexperienced or lacking
in bargaining skill, and
(b) the other party knew or ought to have known of this
and, given the circumstances and purpose of the contract,
took advantage of the first party’s situation in a way
which was grossly unfair or took an excessive benefit.
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỢI THẾ KHÔNG CÔNG BẰNG HOẶC LỢI ÍCH
THÁI QUÁ THEO BỘ NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ LUẬT HỢP ĐỒNG CHÂU ÂU
LÊ THỊ GIANG*
* Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
Dựa trên sự ghi nhận của Bộ nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng châu Âu
(“The Principles on European Contract Law” - gọi tắt là “PECL”), bài viết
phân tích các quy định của pháp luật, đánh giá sự hợp lý và những điểm còn
tồn tại liên quan đến pháp luật về hợp đồng vô hiệu do lợi thế không công
bằng hoặc lợi ích thái quá. Đồng thời, bài viết có sự so sánh, kết nối với quy
định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Từ khóa: Hợp đồng vô hiệu, lợi thế không công bằng, lợi ích thái quá, Bộ
nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng châu Âu.
Based on the recognization of The Principles on European Contract
Law (PECL), the article analyzes legal regulations, assesses suitability and
inadequacies related to law on invalid contracts due to unfair advantage or
excessive benefits; at the same time, compares and connects to Vietnamese legal
provisions on this matter.
Keywords: Invalid contracts, unfair advantage, excessive benefits, The
Principles on European Contract Law.
49Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
LÊ THỊ GIANG
thỏa mãn hai điều kiện sau:
Một là, bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng
đã bị lệ thuộc vào đối tác của mình khi
giao kết hợp đồng. Điều này dẫn tới sự
không công bằng về lợi thế giữa các bên
khi giao kết hợp đồng. Đây là nguyên
nhân dẫn tới bên bị lệ thuộc không thể
giao kết hợp đồng theo đúng với mong
muốn đích thực của họ. Các nguyên nhân
dẫn tới lợi thế không công bằng giữa các
chủ thể giao kết hợp đồng được PECL liệt
kê tương đối rộng và phong phú như do
một bên đang gặp khó khăn về tài chính,
do thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm
hoặc kỹ năng thương lượng...
Hai là, ngoài điều kiện về tình trạng
lệ thuộc của một bên chủ thể đối với bên
kia thì bên chiếm ưu thế khi giao kết hợp
đồng biết hoặc cần phải biết về sự tồn tại
của lợi thế không công bằng đó. Chính vì
biết về điều này nên họ đã lợi dụng tình
huống đối tác gặp phải để chiếm ưu thế
và thu lợi ích một cách thái quá từ đối
tác của họ. Đây là quy định phù hợp và
chặt chẽ. Bởi nếu bên chiếm ưu thế hoàn
toàn không biết hoặc pháp luật không
buộc họ phải biết về sự yếu thế, tình
trạng lệ thuộc của bên kia nên họ giao kết
hợp đồng với tâm thế công bằng, không
nhằm thu lợi một cách thái quá từ đối tác
thì không có cơ sở để bên bị lệ thuộc yêu
cầu hủy bỏ hợp đồng.
Khi một bên không có lợi thế công
bằng với bên kia muốn thực hiện quyền
hủy bỏ hợp đồng thì họ cần phải phải
chứng minh được đầy đủ cả hai yếu tố
trên. Nếu thiếu một trong hai yếu tố thì
hợp đồng không thể bị hủy bỏ theo yêu
cầu của một bên căn cứ vào khoản 1 Điều
4:109. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 4:109
PECL cũng đã xác định rất rõ tình trạng
bất công bằng giữa các bên chủ thể giao
kết hợp đồng phải được xác định tại “thời
điểm giao kết hợp đồng”. Điều này được
hiểu, nếu lợi thế không công bằng giữa
các bên đã tồn tại trước thời điểm giao
kết hợp đồng nhưng đã chấm dứt khi các
bên giao kết hợp đồng hoặc chỉ xuất hiện
sau khi các bên đã giao kết hợp đồng thì
hợp đồng không thể bị hủy bỏ theo yêu
cầu của bên đã chịu sự bất công.
Khi hợp đồng được giao kết do lợi
thế không công bằng hoặc một bên đã
thu lợi thái quá từ phía bên kia thì cách
thức giải quyết như sau:
(i) Dựa vào yêu cầu của một bên bị
lệ thuộc, Tòa án có thể điều chỉnh hợp
đồng phù hợp với những gì có thể đã
được thỏa thuận theo nguyên tắc thiện
chí và công bằng. Theo quy định này,
Tòa án sẽ không ngay lập tức hủy bỏ
hợp đồng đã được giao kết mà có quyền
điều chỉnh hợp đồng. Bản chất của việc
điều chỉnh hợp đồng của Tòa án chính
là sự sửa đổi, bổ sung hợp đồng. PECL
cũng đã đặt ra nguyên tắc điều chỉnh
hợp đồng của Tòa án là “điều chỉnh hợp
đồng phù hợp với những gì có thể đã được
thỏa thuận theo nguyên tắc thiện chí và công
bằng”. Liên quan đến quyền điều chỉnh
hợp đồng của Tòa án, một số ý kiến nhận
định quyền này đã khiến cho Tòa án xâm
phạm sâu vào ý chí của các bên chủ thể
giao kết hợp đồng, đi ngược lại nguyên
tắc thỏa thuận giữa các bên chủ thể trong
hợp đồng. Tuy vậy, mục đích quan trọng
nhất PECL khi thừa nhận quyền điều
chỉnh hợp đồng của Tòa án là hạn chế
thấp nhất trường hợp tuyên hủy bỏ hợp
đồng mà vẫn bảo đảm được sự cần bằng
về lợi ích giữa các bên chủ thể;
(ii) Dựa vào yêu cầu của chính bên
được lợi trong hợp đồng mà Tòa án có
thể điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên,
50
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỢI THẾ KHÔNG CÔNG BẰNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
cách thức này chỉ có thể thực hiện với
điều kiện bên được lợi phải đưa ra thông
báo ngay sau khi nhận được thông báo
của bên bất lợi về việc hủy hợp đồng và
trước khi bên bị bất lợi hành động dựa
trên thông báo đó2.
Có thể hiểu trường hợp này cụ thể
như sau: Bên bị bất lợi một cách thái quá
khi giao kết hợp đồng đã gửi thông báo
cho bên được lợi biết về việc họ sẽ thực
hiện quyền được hủy hợp đồng theo quy
định của pháp luật. Vì không mong muốn
hợp đồng bị hủy bỏ nên bên được lợi
đã thông báo cho phía bên kia về mong
muốn tiếp tục hợp đồng của họ. Thông
báo này phải được đưa ra trước khi bên
bị bất lợi thực hiện quyền hủy hợp đồng
theo thông báo trước đó họ đã gửi cho
bên thu lợi thái quá. Nếu bên được lợi
thông báo sau khi bên bị bất lợi thực hiện
quyền hủy bỏ hợp đồng thì thông báo
này không có giá trị. Sau đó, chính bên
được lợi thái quá trong hợp đồng sẽ yêu
cầu Tòa án có thẩm quyền tiến hành điều
chỉnh hợp đồng để bảo đảm sự cân bằng
lợi thế giữa các bên.
Quy định về chủ thể có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết khi hợp đồng được
giao kết bởi các bên chủ thể có lợi thế
không công bằng đã thể hiện tầm nhìn
bao quát, toàn diện của các nhà lập pháp,
đặc biệt khi PECL thừa nhận chính bên
có được lợi ích thái quá yêu cầu Tòa án
2 Article 4:109: Excessive Benefit or Unfair Advantage
(2) Upon the request of the party entitled to avoidance, a
court may if it is appropriate adapt the contract in order to
bring it into accordance with what might have been agreed
had the requirements of good faith and fair dealing been
followed.
(3) A court may similarly adapt the contract upon
the request of a party receiving notice of avoidance for
excessive benefit or unfair advantage, provided that this
party informs the party who gave the notice promptly after
receiving it and before that party has acted in reliance on it”.
điều chỉnh hợp đồng để nhằm cân bằng
lại lợi ích giữa các bên. Đây cũng là quy
định nhằm giảm thiểu, hạn chế số lượng
các hợp đồng bị hủy bỏ vì lợi thế không
công bằng hoặc lợi ích thái quá – điều mà
không có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển
của các giao dịch dân sự và không có lợi
với nền kinh tế của các quốc gia.
Điều khoản không công bằng là vấn
đề được chú trọng quy định trong PECL
và được sự quan tâm, phân tích của nhiều
công trình khoa học. Trong một tài liệu
đã đưa ra phân tích tương đối dễ hiểu về
vấn đề này như sau:
Mỗi khi bạn mua một sản phẩm hoặc
dịch vụ từ một thương nhân chuyên
nghiệp, bạn sẽ tham gia một hợp đồng -
cho dù đó là đăng ký thành viên phòng
tập thể dục, đặt mua lốp xe hơi trực tuyến,
nhận thế chấp cho ngôi nhà của bạn hoặc
thậm chí chỉ mua hàng tuần của bạn từ
siêu thị. Theo luật của EU, các điều khoản
hợp đồng tiêu chuẩn được sử dụng bởi
các thương nhân phải công bằng. Điều
này không thay đổi nếu chúng được gọi là
“điều khoản và điều kiện” hoặc là một phần
của hợp đồng chi tiết mà bạn thực sự phải
ký. Hợp đồng không được phép tạo ra sự
mất cân bằng giữa các quyền và nghĩa vụ
của bạn với tư cách là người tiêu dùng và
các quyền và nghĩa vụ của người bán và
nhà cung cấp. Điều khoản hợp đồng phải
được soạn thảo bằng ngôn ngữ đơn giản,
dễ hiểu. Bất kỳ sự mơ hồ sẽ được giải thích
có lợi cho bạn. Điều khoản không công
bằng ngoài yêu cầu chung về “niềm tin/
uy tín” và “cân bằng”, các quy tắc của EU
có một danh sách các điều khoản cụ thể
có thể bị đánh giá không công bằng. Nếu
các điều khoản cụ thể trong hợp đồng
là không công bằng, chúng không ràng
buộc với bạn và các bên giao dịch có thể
51Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
LÊ THỊ GIANG
không dựa vào chúng. Dưới đây là một số
tình huống trong đó các điều khoản hợp
đồng có thể bị đánh giá không công bằng
theo quy định của EU: 1. Trách nhiệm khi
người tiêu dùng chết hoặc bị thương; 2.
Bồi thường nếu một thương nhân không
giao hàng; 3. Điều khoản ra ngoài có lợi
cho thương nhân; 4. Bồi thường một phía
cho việc hủy bỏ; 5. Bồi thường quá mức; 6.
Hủy bỏ một phía; 7. Hủy bỏ trong thông
báo ngắn; 8. Tự động gia hạn hợp đồng
thời hạn cố định; 9. Điều khoản ẩn; 10.
Thay đổi một phía đối với hợp đồng; 11.
Thay đổi một phía đối với sản phẩm hoặc
dịch vụ; 12. Biến động giá; 13. Giải thích
một chiều của hợp đồng; 14. Không tôn
trọng tuyên bố của nhân viên giao dịch; 15.
Tuân thủ một chiều nghĩa vụ; 16. Chuyển
giao hợp đồng cho các thương nhân khác
trong điều kiện ít thuận lợi hơn; 17. Quyền
hạn chế đối với hành động pháp lý... Nếu
bạn tìm thấy điều khoản không công bằng
trong hợp đồng của bạn thì điều khoản
này không có hiệu lực pháp lý hoặc ràng
buộc đối với người tiêu dùng. Các nước
EU phải đảm bảo rằng người tiêu dùng
biết cách thực hiện các quyền này theo
luật quốc gia và phải có các thủ tục theo
đó doanh nghiệp có thể bị ngăn chặn sử
dụng các điều khoản không công bằng.
Trên toàn EU, các cơ quan chức năng quốc
gia có trách nhiệm thực thi các quy tắc bảo
vệ người tiêu dùng của EU. Nếu bạn cảm
thấy một bên giao dịch cụ thể liên tục vi
phạm các quy tắc này, bao gồm ở cấp độ
xuyên biên giới, bạn nên báo cáo trường
hợp của mình cho họ3.
3 “Unfair contract terms”, đăng trên: https://europa.
eu/youreurope/citizens/consumers/unfair-treat-
ment/unfair-contract-terms/index_en.htm, ngày
truy cập: 15/1/2019;
Ngoài ra, trong PECL còn quy định
riêng về điều khoản không công bằng
và không được đàm phán trực tiếp
(Điều 4:110):
Một bên có thể hủy một điều khoản
không được thương lượng trực tiếp, trái
với nguyên tắc thiện chí và công bằng,
nếu điều khoản này gây ra sự mất cân
bằng đáng kể về quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng gây tổn hại cho bên đó,
có tính đến bản chất của việc thực hiện
nghĩa vụ theo hợp đồng, tất cả các điều
khoản khác và hoàn cảnh vào thời điểm
hợp đồng được giao kết. Điều này không
áp dụng với:
- Điều khoản xác định đối tượng
chính của hợp đồng, với điều kiện là
điều khoản này được thể hiện bằng ngôn
ngữ rõ ràng và dễ hiểu;
- Điều khoản quy định đầy đủ giá trị
nghĩa vụ của một bên so với giá trị nghĩa
vụ của bên kia4.
Đối với pháp luật Việt Nam, các quy
định về giao dịch dân sự vô hiệu được
ghi nhận tại Chương VIII Bộ luật dân sự
4 Article 4:110: Unfair Terms not Individually
Negotiated
“(1) A party may avoid a term which has not been
individually negotiated if, contrary to the require-
ments of good faith and fair dealing, it causes a
significant imbalance in the parties’ rights and
obligations arising under the contract to the
detriment of that party, taking into account the nature
of the performance to be rendered under the contract,
all the other terms of the contract and the circum-
stances at the time the contract was concluded.
(2) This Article does not apply to:
(a) a term which defines the main subject matter
of the contract, provided the term is in plain and
intelligible language; or to
(b) the adequacy in value of one party’s obligations
compared to the value of the obligations of the other
party”.
52
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỢI THẾ KHÔNG CÔNG BẰNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
năm 2015. Theo đó, các trường hợp giao
dịch dân sự vô hiệu đang được quy định
bao gồm: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội (Điều 123); giao dịch dân sự vô hiệu
do giả tạo (Điều 124); giao dịch dân sự
vô hiệu do người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125); giao
dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều
126); giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127); giao
dịch dân sự vô hiệu do người xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình (Điều 128); Giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về
hình thức (Điều 129). Theo sự liệt kê này,
trường hợp hợp đồng vô hiệu do lợi thế
không công bằng hoặc lợi ích thái quá
chưa được dự liệu ghi nhận trong pháp
luật nước ta. Đây cũng là một lỗ hổng
của Bộ luật dân sự năm 2015 cần được
nghiên cứu và khắc phục.
Mặc dù trong Chương VIII Bộ luật
dân sự năm 2015 chưa ghi nhận về trường
hợp hợp đồng vô hiệu do lợi thế không
công bằng hoặc lợi ích thái quá nhưng
trong văn bản này cũng có một vấn đề
được đánh giá có nhiều điểm tương
đồng với quy định tại Điều 4:109 PECL,
cụ thể là quy định về thực hiện hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản được ghi
nhận tại Điều 420. Theo đó, hoàn cảnh
thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện
sau đây: (a) Sự thay đổi hoàn cảnh do
nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi
giao kết hợp đồng; (b) Tại thời điểm giao
kết hợp đồng, các bên không thể lường
trước được về sự thay đổi hoàn cảnh; (c)
Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như
các bên biết trước thì hợp đồng đã không
được giao kết hoặc được giao kết nhưng
với nội dung hoàn toàn khác; d) Việc tiếp
tục thực hiện hợp đồng mà không có sự
thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho một bên; (đ) Bên có
lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết trong khả năng cho phép,
phù hợp với tính chất của hợp đồng mà
không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ
ảnh hưởng đến lợi ích. Trong trường hợp
hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích
bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia
đàm phán lại hợp đồng trong một thời
hạn hợp lý. Trường hợp các bên không thể
thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng
trong một thời hạn hợp lý, một trong các
bên có thể yêu cầu Tòa án: (i) Chấm dứt
hợp đồng tại một thời điểm xác định hoặc
(ii) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn
cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được
quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong
trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ
gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí
để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
Mặc dù Điều 4:109 PECL được đánh giá
có nhiều nét tương đồng với Điều 420 Bộ
luật dân sự năm 2015 của nước ta như:
một bên thu lợi thái quá còn phía bên kia
bị thiệt hại nghiêm trọng và cách thức
giải quyết cũng giống nhau là Tòa án có
quyền điều chỉnh hợp đồng hoặc hủy bỏ
hợp đồng theo yêu cầu của chủ thể trong
hợp đồng nếu các bên không thỏa thuận
sửa đổi được. Tuy nhiên, vấn đề hủy bỏ
hợp đồng do lợi thế không công bằng
hoặc lợi ích thái quá khác hoàn toàn bản
chất với trường hợp hủy bỏ hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Sự khác biệt
53Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
LÊ THỊ GIANG
thể hiện ở yếu tố sau:
- Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu
do lợi thế không công bằng hoặc thu lợi
thái quá của một bên thì ngay tại thời điểm
giao kết hợp đồng đã tồn tại tình trạng lệ
thuộc hoặc quan hệ tín thác của một bên
chủ thể đối với bên kia. Đây là lý do họ
đã giao kết hợp đồng mà không được thể
hiện theo đúng ý chí của họ. Điều này dẫn
tới kết quả họ bị thiệt hại nghiêm trọng
còn bên kia thu lợi một cách thái quá. Còn
đối với trường hợp thực hiện hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản (Điều 420
Bộ luật dân sự năm 2015) thì:
- Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các
bên hoàn toàn công bằng về lợi thế. Kết
quả hình thành hợp đồng là do hai bên
tự nguyện giao kết. Do đó, không tồn tại
trình trạng lệ thuộc, yếu thế của một bên
chủ thể giao kết hợp đồng đối với bên
kia tại thời điểm giao kết. Tuy nhiên, sau
đó có sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên
nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết
hợp đồng mà các bên không lường trước
được và dẫn tới sự thiệt hại nghiêm trọng
của một bên thì họ có quyền yêu cầu Tòa
án điều chỉnh hoặc chấm dứt hợp đồng.
2. Thông báo hủy bỏ hợp đồng trong
trường hợp hợp đồng vô hiệu do lợi thế
không công bằng hoặc lợi ích thái quá
Bên cạnh việc quy định về các trường
hợp hủy bỏ hợp đồng, PECL còn đưa ra
quy định về vấn đề thông báo hủy hợp
đồng tại Điều 4:112 và Điều 4:113. Hai
quy định này áp dụng cho mọi trường
hợp thông báo hủy bỏ hợp đồng trong
đó bao gồm trường hợp bên bị lệ thuộc
thông báo hủy bỏ hợp đồng cho bên đã
thu lợi thái quá từ hợp đồng.
Điều 4:112 PECL đã quy định rất rõ:
“Việc hủy hợp đồng phải được thông báo đến
bên kia”5. Như vậy, khi một bên thực hiện
quyền hủy bỏ hợp đồng của mình do bị
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay do họ bị bất
công khi giao kết hợp đồng... thì cần phải
thông báo cho phía đối tác. Nếu một bên
thực hiện việc hủy hợp đồng mà không
thực hiện nghĩa vụ thông báo thì họ đã vi
phạm nghĩa vụ do luật định của mình đối
với bên kia và họ phải chịu trách nhiệm
cho sự vi phạm đó. Điều 4:112 PECL không
đặt ra yêu cầu bắt buộc về hình thức thực
hiện thông báo nên về nguyên tắc, bên có
quyền hủy bỏ hợp đồng khi hợp đồng vô
hiệu do lợi thế không công bằng hoặc lợi
ích thái quá có thể thông báo bằng lời nói,
văn bản hoặc phương thức khác.
Một điểm sáng trong PECL liên quan
đến nghĩa vụ thông báo khi hủy bỏ hợp
đồng là PECL đã đưa ra giới hạn thời
gian thông báo. Cụ thể, Điều 4:113 quy
định: “Thông báo hủy hợp đồng phải được
đưa ra trong khoảng thời gian hợp lý, với
sự cân nhắc đến hoàn cảnh, sau khi bên hủy
hợp đồng biết hoặc phải biết các tình tiết liên
quan hoặc có khả năng tự do hành động”.
Để nâng cao trách nhiệm cho bên có
quyền hủy bỏ hợp đồng thì PECL đã đặt
ra yêu cầu bên có quyền hủy bỏ hợp đồng
phải thông báo về việc hủy bỏ trong một
thời gian hợp lý. Đây là cách thức quy
định “định tính” hợp lý bởi luật không
thể định lượng một thời gian thông báo
cố định trong mọi trường hợp. Trường
hợp giữa các bên có tranh chấp liên quan
đến thời gian thông báo của bên có quyền
hủy bỏ hợp đồng thì Tòa án là chủ thể
có thẩm quyền xác định như thế nào là
thời gian hợp lý để tiến hành việt thông
5 Article 4:112: Notice of Avoidance: “Avoidance
must be by notice to the other party”.
54
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO LỢI THẾ KHÔNG CÔNG BẰNG...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
báo hủy bỏ hợp đồng. Mặc dù như đánh
giá của tác giả, quy định tại Điều 4:113
của PECL là hợp lý nhưng chưa ghi nhận
triệt để trách nhiệm của bên có quyền
hủy bỏ hợp đồng khi thông đưa ra thông
báo hủy bỏ cho đối tác trong khoảng thời
gian hợp lý.
3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu do lợi thế không công bằng hoặc
lợi ích thái quá
PECL cũng giống như luật của các
quốc gia trên thế giới, khi quy định về
vấn đề hủy bỏ hợp đồng thì hậu quả
pháp lý của việc hủy bỏ cần được dự liệu
ghi nhận. Khi hợp đồng vô hiệu do lợi
thế không công bằng hoặc lợi ích thái quá
thì hậu quả pháp lý được giải quyết theo
quy định tại Điều 4:115 PECL: “Một trong
hai bên có quyền yêu cầu bồi hoàn những gì
đã cung cấp theo hợp đồng hoặc một phần
của hợp đồng mà bị tuyên bố hủy, với điều
kiện họ đồng thời bồi hoàn những gì họ đã
được nhận theo hợp đồng hoặc một phần của
hợp đồng mà bị tuyên bố hủy. Nếu bồi hoàn
không thể thực hiện bằng hiện vật thì bên bị
bồi hoàn phải trả một khoản tiền hợp lý cho
những gì anh ta đã nhận được”6. Quy định
này được hiểu:
- Các bên chủ thể trong hợp đồng có
quyền yêu cầu bên kia hoàn trả lại những
gì mà họ đã chuyển giao trong quá trình
thực hiện hợp đồng; và đồng thời:
- Họ cũng phải hoàn trả lại những gì
họ đã được nhận theo hợp đồng hoặc một
phần của hợp đồng mà bị tuyên bố hủy.
6 Article 4:115: Effect of Avoidance: “On avoidance
either party may claim restitution of whatever it has
supplied under the contract, provided it makes concur-
rent restitution of whatever it has received. If restitution
cannot be made in kind for any reason, a reasonable sum
must be paid for what has been received”.
Việc hoàn trả giữa các bên chủ thể
trong hợp đồng được tiến hành như:
trước hết các bên hoàn trả lại tài sản, hiện
vật theo đúng như tình trạng khi các bên
nhận. Tuy nhiên, Điều 4:115 của PECL
cũng đã dự liệu thêm nếu các bên không
thể hoàn trả bằng hiện vật thì các bên có
thể quy ra tiền để tiến hành việc hoàn trả.
Nghiên cứu quy định về hậu quả
pháp lý khi hợp đồng vô hiệu của PECL
cho thấy một sự tương thích khá lớn với
quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm
2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu, theo đó:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao
dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
....”.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2015 , khi hợp đồng dân sự bị
vô hiệu thì các bên cũng phải hoàn trả lại
cho nhau những gì đã nhận. Nếu không
trả được bằng hiện vật thì phương thức
trả thay thế bằng số tiền tương đương
với hiện vật sẽ được áp dụng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng Châu Âu;
2. Bộ luật dân sự năm 2015;
3. https://europa.eu/youreurope/citizens/consum-
ers/unfair-treatment/unfair-contract-terms/in-
dex_en.htm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_dong_vo_hieu_do_loi_the_khong_cong_bang_hoac_loi_ich_tha.pdf