Kết luận
Những vấn đề ANPTT trong khu vực
CA-TBD đang làm dấy lên các mối nguy
cơ mới, không chỉ gia tăng về số lượng mà
cả tần suất và tính nguy hiểm của vấn đề.
Với tính chất đa dạng và phức tạp, tính “phi
nhà nước”, tính xuyên quốc gia, không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể tự mình giải
quyết triệt để các vấn đề ANPTT. Nhận
thức này đã thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác đa
phương về ANPTT tại khu vực, việc đối
phó với các thách thức ANPTT trở thành
một trong những ưu tiên hàng đầu trong các
chương trình nghị sự của nhiều thể chế đa
phương ở CA-TBD hiện nay như ASEAN,
APEC,. Tuy nhiên hiệu quả từ những nỗ
lực hợp tác của các thể chế này thời gian qua
vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thời gian tới,
hợp tác về ANPTT tại các cơ chế đa phương
cần phải đi vào thực chất hơn với các sáng
kiến cụ thể, nâng cao mức độ thể chế hóa và
ràng buộc pháp lý, là công cụ để hỗ trợ, thúc
đẩy đối thoại và đạt được sự đồng thuận của
nhiều quốc gia trong khu vực
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương trước những thách thức an ninh phi truyền thống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201812
Hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương
trước những thách thức an ninh phi truyền thống
Lại Thị Thanh Bình(*)
Lương Thị Thu Trang(**)
Tóm tắt: Hiện nay, khu vực châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) đang là một điểm nóng
về các thách thức an ninh phi truyền thống (ANPTT). Các thách thức ANPTT này chỉ có
thể được giải quyết khi các quốc gia cùng có kế ho ạch ứng phó cụ thể, dài hạn, đặc biệt
là thông qua các cơ chế hợp tác đa phương. Bài viết khái quát một số thách thức ANPTT
nổi trội hiện nay tại CA-TBD, tìm hiểu tiến trình hợp tác tại một số thể chế đa phương
trong khu vực trên cơ sở tổng quan một số tài liệu của các tổ chức quốc tế và các nhà
nghiên cứu về vấn đề này.
Từ khóa: An ninh phi truyền thống, Hợp tác đa phương, Khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Abstract: Non-traditional security (NTS) issues which currently challenge the Asia-
Pacifi c region, can only be addressed when the regional countries jointly plan specifi c,
long-term responses, in particular through multilateral cooperation mechanisms. Based
on the literature review by international organizations and researchers, the paper
provides a brief overview of some remarkable non-traditional security issues facing
the Asia-Pacifi c region and examines the cooperation process of several multilateral
institutions in the region.
Keywords: Non-traditional Security, Multilateral Cooperation, Asia-Pacifi c Region
1. Đặt vấn đề(*)(*)(**)(**)
An ninh phi truyền thống là một chủ đề
được bàn đến khá nhiều kể từ sau Chiến tranh
Lạnh, khi mà những vấn đề an ninh truyền
thống như quân sự và chính trị không còn
là mối đe dọa hàng đầu đối với nhiều quốc
(*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Email: thanhbinhlai@yahoo.com.vn
(**) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
gia, khu vực, thay vào đó, những nguy cơ,
thách thức từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, khủng hoảng kinh tế - tài chính, tội
phạm xuyên quốc gia đã trở thành những
nguy cơ mới không chỉ đe dọa an ninh của
các quốc gia mà còn đe dọa sự phát triển
bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi
con người. Mặc dù cho đến nay vẫn chưa
có một khái niệm thống nhất về ANPTT,
nhưng hiểu một cách chung nhất, ANPTT
là những vấn đề ảnh hưởng lớn không chỉ
Hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương 13
đe dọa đến an ninh quốc gia, đến cộng đồng
người trong phạm vi một số nước mà còn đe
dọa đến toàn thể nhân loại. Những vấn đề
đó được thể hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng
nằm ngoài vấn đề quân sự và trong bối cảnh
liên kết quốc tế (Trần Thị Hà, 2015).
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực
chiếm tới 40% tổng diện tích lãnh thổ và
41% dân số toàn cầu, 61% GDP, 47% tổng
thương mại quốc tế và 48% nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài của thế giới, tập trung
65% nguồn nguyên liệu toàn cầu, có nhiều
tuyến đường giao thông biển quan trọng bậc
nhất thế giới (Đinh Công Tuấn, 2017). Tuy
nhiên, đây là khu vực có sự đa dạng về mặt
địa lý, các quốc gia phát triển không đồng
đều; những mâu thuẫn liên quan đến các
đường biên giới trên đất liền và biển đảo
vẫn tồn tại dai dẳng; những khác biệt về thể
chế chính trị, đa dạng về văn hóa, tôn giáo
và dân tộc; sự cạnh tranh ảnh hưởng của các
nước lớn ngày một căng thẳng; sự gia tăng
của dịch bệnh, khủng bố và các vấn đề môi
trường đã khiến tính ổn định của khu vực
luôn bị đe dọa. CA-TBD đang đối mặt với
những thách thức ANPTT nào? Khu vực
này đã và đang hợp tác ra sao để đối phó với
những thách thức này? Các nội dung trình
bày dưới đây sẽ góp phần giải đáp những
câu hỏi trên.
2. Châu Á - Thái Bình Dương trước một số
thách thức an ninh phi truyền thống
Về biến đổi khí hậu: Trong báo cáo
“Thiên tai Châu Á - Thái Bình Dương”
2017 của Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu
vực CA-TBD (ESCAP) thuộc Liên Hợp
Quốc, CA-TBD là khu vực phải hứng chịu
nhiều thiên tai nhất trên thế giới, hơn gấp
5 lần so với các khu vực khác trên toàn
cầu. Thời gian qua khu vực này liên tục
xảy ra thiên tai như động đất, sóng thần,
bão, lũ, đe dọa cuộc sống người dân
nơi đây. Năm 2016, bão, lũ lụt và nhiệt độ
cao đã khiến 4.987 người thiệt mạng, ảnh
hưởng đến 35 triệu người và gây thiệt hại ít
nhất 77 tỷ USD. Điều đáng nói là các quốc
gia nghèo và thu nhập trung bình thấp ít
có khả năng chuẩn bị và ứng phó với các
mối nguy hiểm về thời tiết, vì vậy số người
tử vong cao gấp 15 lần so với các nước
giàu có hơn trong khu vực. Cũng theo báo
cáo này, trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến năm 2030, 40% tổn thất kinh tế
toàn cầu do thiên tai sẽ xảy ra ở CA-TBD
(ESCAP, 2017).
Theo một báo cáo khác của Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), dự kiến CA-TBD
sẽ hứng chịu các đợt cuồng phong và bão
nhiệt đới với cường độ mạnh hơn khi nhiệt
độ trung bình toàn cầu gia tăng. Các vùng
đất trũng và ven biển trong khu vực sẽ đối
mặt với nguy cơ lũ lụt nhiều hơn. Trong
số 25 thành phố có nguy cơ biến mất khi
nước biển dâng cao 1m thì 19 thành phố
thuộc khu vực CA-TBD, 7 trong số đó là
ở Philippines. Tổn thất do lũ lụt trên toàn
cầu dự kiến tăng từ mức 6 tỷ USD trong
năm 2005 lên tới 52 tỷ USD mỗi năm vào
năm 2050. Hơn nữa, 13 trong số 20 thành
phố có mức gia tăng thiệt hại do lũ lụt hằng
năm cao nhất trong giai đoạn 2005-2050 là
ở CA-TBD. Báo cáo cũng cho thấy biến đổi
khí hậu đe dọa nghiêm trọng hệ sinh thái
biển, mang đến nguy cơ to lớn đối với sức
khỏe con người, thúc đẩy di cư ồ ạt và đe
dọa nặng nề đến an ninh năng lượng của
các quốc gia (ADB, 2017).
Về an ninh lương thực: Tình trạng mất
an ninh lương thực cũng đang là vấn đề
đáng báo động tại CA-TBD.
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201814
Quy mô dân số của CA-TBD đã tăng
gấp ba trong vòng 65 năm qua và dự kiến sẽ
đạt 4,84 tỷ người vào năm 2050. Khu vực
này có 6 trong tổng số 10 quốc gia đông
dân nhất thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Pakistan, Bangladesh và Nhật
Bản, trong đó chỉ riêng Trung Quốc, Ấn
Độ và Indonesia đã chiếm đến 40% tổng
dân số toàn cầu (UNDP, 2016). Theo tính
toán của Chương trình Môi trường Liên
Hợp Quốc, sản lượng lương thực thế giới
vào năm 2050 sẽ phải tăng gấp rưỡi hiện
nay mới đủ nuôi sống số dân trên thế giới
vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tại CA-TBD,
mặc dù dân số tăng lên nhanh chóng nhưng
diện tích đất trồng trọt liên tục bị thu hẹp
tại nhiều quốc gia đã dẫn đến tình trạng sản
lượng lương thực bị sụt giảm trầm trọng.
Tại Trung Quốc, tình trạng sa mạc hóa, đô
thị hóa và phát triển công nghiệp đã lấy mất
5,5% diện tích đất canh tác (khoảng 8 triệu
ha). Tại Hàn Quốc, tổng diện tích các cánh
đồng lúa giảm 4,3% vào năm 2011 khiến
sản lượng lúa gạo nước này giảm xuống
mức thấp nhất trong hơn 30 năm qua. Tại
Nhật Bản, nhiều diện tích đất trồng trọt bị
bỏ hoang, bị ô nhiễm không canh tác được.
Các báo cáo của Liên Hợp Quốc công bố
sau thảm họa động đất, sóng thần tại Nhật
Bản năm 2011 cho thấy, có tới hơn 60.000
ha đất nông nghiệp, tương đương 18% diện
tích đất nông nghiệp ở nước này đã bị phá
hủy (Dẫn theo: Vũ Thị Mai, 2012).
Theo một nghiên cứu của Tổ chức Nông
lương Liên Hợp Quốc (FAO), CA-TBD là
nơi sinh sống của hơn 60% số người đói trên
thế giới. FAO cũng nhấn mạnh, khu vực này
sẽ có khoảng 500 triệu người thường xuyên
bị đói ngay cả khi các nước đạt các mục tiêu
phát triển Thiên niên kỷ về giảm số người
nghèo đói xuống mức tương đương 12% dân
số. Dự báo vào năm 2050, tại CA-TBD, sản
lượng gạo sẽ giảm từ 14 - 20%; sản lượng lúa
mì giảm từ 32 - 44%; sản lượng đậu tương
giảm từ 9 - 18%; sự tổn thất về rau quả sẽ
lên đến 42%. Điều này sẽ đẩy giá lương thực
thực phẩm ngày càng tăng cao, ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống và nền kinh tế của
nhiều quốc gia (FAO, 2015).
Về an ninh năng lượng: CA-TBD có hai
nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới và
đang rất khát năng lượng là Trung Quốc và
Ấn Độ, an ninh năng lượng trở thành vấn
đề có tầm quan trọng sống còn, quyết định
xu thế cạnh tranh hoặc hợp tác giữa các
nước trong lĩnh vực này. Khu vực CA-TBD
tiêu thụ hơn một nửa lượng tiêu thụ năng
lượng của thế giới, trong khi trữ lượng dầu
mỏ chỉ chiếm khoảng 4,27%. Dự bá o khu
vực này phải nhập 44% nhu cầu tiêu thụ
dầu cơ bản trước năm 2035, cao hơn so với
mức 36% hồi năm 2010. Tại Trung Quốc,
quốc gia khát nhiên liệu nhất thế giới, dự
đoán nhu cầu dầu mỏ trong năm 2020 sẽ là
336 triệu tấn, tăng rất nhiều so với 286 triệu
tấn năm 2015, trong đó 60% sẽ phải nhập
khẩu để đủ đáp ứng cho nhu cầu. Nhật Bản
cũng là một trong những nước có nhu cầu
năng lượng cao nhất thế giới, từ lâu đã phụ
thuộc vào các nguồn năng lượng nhập khẩu
để phát triển đất nước. Từ sau thảm họa
động đất, sóng thần năm 2011, nhập khẩu
dầu mỏ của Nhật Bản lại tăng đột biến và
vấn đề đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn
định ngày càng trở nên quan trọng với nước
này (Vũ Thị Mai, 2012).
Trong khu vực CA-TBD, các nước
Đông Nam Á cũng có mức tăng trưởng
nhanh nên luôn đòi hỏi nguồn cung ứng
năng lượng dồi dào để tiếp thêm nhiên liệu
Hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương 15
cho sự tăng trưởng kinh tế. Nếu giá dầu tiếp
tục tăng trong một khoảng thời gian dài sẽ
gây ra những tác động bất lợi đối với các
nền kinh tế ASEAN. Chi tiêu nhập khẩu
năng lượng tăng cao sẽ ảnh hưởng đến sự
ổn định kinh tế vĩ mô của ASEAN, làm
cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ, tỷ giá ngoại
hối mất ổn định và cán cân thanh toán suy
yếu (Nguyễn Thị Thanh Bình, 2014).
Về các loại tội phạm xuyên quốc gia:
Đông Nam Á hiện có 5 nhóm khủng bố
chính, gồm: Al-jamah Islamiyah (JI), Mặt
trận Giải phóng Hồi giáo Moro (Philippines),
Quân đội Kumpulan Mujahidin (Malaysia),
Abu Sayap và Quân đội nhân dân mới
(Philippines). Những nhóm này có thể sẵn
sàng làm chân rết và tạo thuận lợi cho Nhà
nước Hồi giáo tự xưng (IS) dễ dàng tiến
hành hoạt động trong khu vực. Ngoài ra,
trong bối cảnh IS thất thế tại Syria và Iraq,
hàng trăm chiến binh hồi hương tại khu vực
CA-TBD sẽ là lực lượng quan trọng giúp
IS tiếp tục thực hiện các âm mưu của mình.
Việc các tay súng dịch chuyển đến Đông
Nam Á đã trở thành một mối lo ngại an ninh
lớn đối với nhiều quốc gia trong khu vực.
Theo nhiều nghiên cứu, CA-TBD
không chỉ là khu vực tạo ra các cuộc tấn
công mạng nhiều nhất, mà còn là mục tiêu
hàng đầu của các chiến dịch tấn công mạng
so với bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
An ninh mạng là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với các nền kinh tế phát triển như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, New Zealand
và Singapore - những đồng minh và đối
tác thân cận của Mỹ. An ninh mạng cũng
trở thành vấn đề nóng trong quan hệ Mỹ
- Trung ở ba khía cạnh chủ yếu: sự xâm
nhập của Trung Quốc vào mạng lưới của
các công ty nhằm đánh cắp thông tin kinh
doanh và tài sản trí tuệ, sự xâm nhập vào
không gian mạng của Mỹ vì mục đích gián
điệp, và nguy cơ tấn công mạng để phá
hủy cơ sở hạ tầng trong trường hợp xảy ra
khủng hoảng (Nghiêm Tuấn Hùng, 2017).
Ngoài những nguy cơ nổi trội như trên,
CA-TBD còn phải đối mặt với nhiều thách
thức ANPTT khác như: an ninh môi trường,
an ninh kinh tế, dịch bệnh, tình trạng di cư
bất hợp pháp CA-TBD cũng là nơi diễn
biến phức tạp của tình trạng buôn bán ma
túy, cướp biển, buôn bán vũ khí, tình trạng
buôn bán phụ nữ và trẻ em xuyên biên
giới Những thách thức này ảnh hưởng
đến các nước ở những mức độ khác nhau,
do những khác biệt về các đặc điểm địa lý,
kinh tế, chính trị và xã hội của từng quốc gia.
3. Hợp tác trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương nhằm đối phó với các thách
thức an ninh phi truyền thống
Như đã trình bày, do các mối đe dọa
ANPTT mang tính quốc tế sâu sắc, vượt
quá khả năng xử lý của một nước nên để
đối phó với các thách thức này phải dựa
trên cơ sở hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa
nguồn lực của các nước và cả cộng đồng
quốc tế. Trong tiến trình hợp tác đa phương
về ANPTT tại CA-TBD, có hai thể chế
nòng cốt là ASEAN và APEC.
3.1. Hợp tác trong ASEAN
Về hợp tác trong vấn đề biến đổi khí
hậu: Thời gian qua, nhiều thỏa thuận đã
được ký kết nhằm tăng cường hợp tác
nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, tuyên
truyền phổ biến, hỗ trợ công cụ trong hợp
tác ứng phó với biến đổi khí hậu như: Hiệp
ước ASEAN về ô nhiễm không khí 2002;
Tuyên bố chung ASEAN về môi trường
bền vững năm 2007; Tuyên bố Singapore
về biến đổi khí hậu, năng lượng và môi
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201816
trường năm 2007; Tuyên bố chung ASEAN
về biến đổi khí hậu năm 2015;...
Cơ chế hợp tác chính trong khuôn
khổ ASEAN về vấn đề này là Hội nghị
Bộ trưởng ASEAN về Quản lý thiên tai
(AMMDM) trực thuộc Hội đồng Cộng
đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC)
họp 2 năm/lần. Ngoài ra, ASEAN đã xây
dựng một loạt các cơ chế có trách nhiệm
phục vụ và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng
bao gồm: Ủy ban ASEAN về Quản lý Thảm
họa (ACDM); Chương trình Khu vực
ASEAN về Quản lý Thảm họa (ARPDM);
Hiệp định ASEAN về Quản lý Thảm họa
và Ứng phó khẩn cấp (AADMER) có hiệu
lực vào tháng 12/2009.
Với vấn đề an ninh lương thực: Để
đạt mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực
lâu dài trong khu vực ASEAN, năm 2009,
các quốc gia thành viên ASEAN đã thông
qua “Khung An ninh lương thực tổng hợp
ASEAN” (AIFS) và “Kế hoạch hành động
chiến lược về an ninh lương thực” (SPA-
FS) nhằm đưa ra các hướng dẫn để giải
quyết các vấn đề về an ninh lương thực
trong khu vực. Mục tiêu của AIFS và SPA-
FS là đảm bảo an ninh lương thực bền vững
và cải thiện sinh kế cho người nông dân.
Ngoài ra, ASEAN còn thiết lập Sáng
kiến ASEAN về biến đổi khí hậu (ACCI);
Thỏa thuận khung đa ngành về biến đổi khí
hậu trong ASEAN (AFCC): Nông nghiệp và
Lâm nghiệp hướng tới an ninh lương thực.
Đối với vấn đề an ninh năng lượng:
Ngay từ năm 1986, ASEAN đã ký Hiệp định
Hợp tác năng lượng ASEAN, trong đó kêu
gọi các nước thành viên hỗ trợ nhau bằng
cách ưu tiên cung cấp năng lượng đáp ứng
nhu cầu của từng quốc gia trong những hoàn
cảnh đặc biệt, ưu tiên hàng đầu cho việc mua
lại hàng xuất khẩu từ các nước thành viên,
đặc biệt là lương thực và năng lượng.
Chương trình hành động ASEAN về
hợp tác năng lượng (APAEC) giai đoạn
2010-2015 đã được Hội nghị Bộ trưởng
Năng lượng ASEAN lần thứ 27 thông qua
ngày 27/7/2009 tại Myanmar. APAEC gồm
7 nội dung: lưới điện ASEAN, đường ống
gas xuyên ASEAN, than và công nghệ sạch,
bảo tồn và sử dụng hiệu quả năng lượng,
năng lượng tái tạo, chính sách và kế hoạch
năng lượng khu vực, năng lượng hạt nhân
dân sự. Chủ đề của APAEC 2016-2020
cũng đã được xác định là “Tăng cường kết
nối năng lượng và hội nhập thị trường trong
ASEAN nhằm đạt được an ninh, tiếp cận,
khả năng chi trả và bền vững năng lượng
cho tất cả mọi người”, hỗ trợ việc hiện thực
hóa Dự án lưới điện ASEAN (APG).
Về vấn đề đối phó với khủng bố quốc
tế và tội phạm xuyên quốc gia: Năm 1997,
ASEAN đã thiết lập cơ chế Hội nghị cấp Bộ
trưởng về hợp tác đối phó với các nguy cơ
từ tội phạm xuyên quốc gia. Cho đến nay,
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Tội phạm
xuyên quốc gia (AMMTC) vẫn đóng vai trò
là cơ chế bao trùm của ASEAN trong lĩnh
vực này. Giúp việc trực tiếp cho AMMTC
là Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN về
Tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC).
Tham gia hợp tác trong lĩnh vực này
còn có Hội nghị Tổ chức Cảnh sát các nước
ASEAN (ASEANPOL), Hội nghị Các quan
chức cao cấp ASEAN về Ma túy (ASOD),
Hội nghị Tổng Lãnh sự các nước ASEAN
(DGICM) và Hội nghị Quan chức cao cấp
ASEAN về tư pháp (ASLOM). Các cơ chế
này đã và đang phát huy hiệu quả tương
đối tích cực trong nỗ lực đối phó với các tổ
chức khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia
Hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương 17
trong khu vực, góp phần duy trì hòa bình và
an ninh ổn định tại Đông Nam Á.
Ngoài ra còn phải kể đến các thể chế do
ASEAN giữ vai trò điều phối như ASEAN
với Trung Quốc (ASEAN+1); ASEAN
với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
(ASEAN+3); Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF); Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS);
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN (ADMM) và mở rộng (ADMM+).
Những thể chế này đã và đang thể hiện
trách nhiệm của mình đối với các vấn đề an
ninh nói chung và ANPTT nói riêng trong
khu vực Đông Nam Á.
3.2. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC)
Hiện nay, APEC có các nhóm chuyên
gia/nhóm công tác chuyên về từng vấn đề
ANPTT cụ thể.
Nhóm chuyên gia về biển (MEG) phụ
trách các vấn đề liên quan đến phát triển
hàng hải và an ninh hàng hải, gồm cả an
truyền thống và phi truyền thống. Trong
nhóm này còn có Tiểu ban chuyên gia về
an ninh biển (MSESG).
Về vấn đề ứng phó với biến đổi
khí hậu: APEC có Trung tâm Khí hậu
APEC (APCC), được thành lập tại Hội nghị
Lãnh đạo cấp cao APEC tháng 11/2005.
Các hội nghị chuyên đề về biến đổi khí hậu
ở CA-TBD được APCC tổ chức mỗi năm
một lần, đến nay đã được 12 kỳ.
Về vấn đề an ninh lương thực: Tổ chức
đại diện cho các vấn đề an ninh lương thực
APEC là Hiệp hội Chính sách an ninh lương
thực (PPFS), được thành lập năm 2011 với
mục đích tăng cường hợp tác công - tư nhằm
giải quyết các vấn đề an ninh lương thực
trong khu vực. Năm 2017, APEC đã tổ chức
Tuần lễ An ninh lương thực ở Việt Nam, với
các mục tiêu: Hợp tác để xây dựng và phát
triển nông nghiệp bền vững và thông minh,
thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm
an ninh lương thực; Hợp tác trong chuyển
giao khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến
và nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học
trong nông nghiệp; Thúc đẩy hợp tác về
an ninh dinh dưỡng, an toàn thực phẩm và
kiểm soát thất thoát lương thực.
Về vấn đề an ninh năng lượng: APEC có
Tổ Công tác năng lượng (EWG) và Hội nghị
Bộ trưởng Năng lượng (EMM). EWG được
thành lập năm 1990 nhằm tối đa hóa sự đóng
góp của ngành năng lượng vào phát triển
kinh tế khu vực và phúc lợi xã hội, đồng thời
giảm thiểu các tác động môi trường của việc
cung cấp và sử dụng năng lượng. Ngoài các
cuộc họp của EWG và EMM (mỗi năm họp
2 lần, đề cập đến tất cả các lĩnh vực ưu tiên
của ngành đã được Hội nghị cấp cao và Hội
nghị Bộ trưởng thông qua) còn có các cuộc
họp chuyên sâu như: Nhóm chuyên gia về
Phân tích và dữ liệu năng lượng (EGEDA);
Nhóm chuyên gia về Năng lượng hóa thạch
sạch (EGCFE); Nhóm chuyên gia về Bảo
tồn và hiệu quả năng lượng (EGEE&C);
Nhóm chuyên gia về Công nghệ năng lượng
mới và tái tạo (EGNRET); Nhóm chuyên
gia về Khoáng sản, khai thác và phát triển
năng lượng (GEMEED).
Ngoài việc hợp tác trong một số vấn
đề ANPTT nổi bật trên, các nhà lãnh đạo
APEC đã thành lập Nhóm công tác APEC
về ứng phó với tình trạng khẩn cấp (EPWG)
vào năm 2010. Hiện nay, EPWF tiếp tục
đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ các
nước thành viên chuẩn bị và ứng phó tốt
hơn với các tình huống khẩn cấp và các sự
cố thiên tai thảm họa thông qua việc giúp
giảm nguy cơ thiên tai và xây dựng năng
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201818
lực phục hồi cho các doanh nghiệp và cả
cộng đồng.
Nhìn chung, trong thời gian qua, nhiều
diễn đàn đa phương trong khu vực CA-
TBD đã dành sự quan tâm lớn đến các vấn
đề ANPTT và xem vấn đề này là nội dung
quan trọng trong chương trình nghị sự của
mình. Mặc dù có sự hợp tác mạnh mẽ cả
về chiều rộng và chiều sâu như vậy, nhưng
theo nhiều nhà nghiên cứu, hiệu quả hợp tác
vẫn còn nhiều hạn chế do một số khó khăn:
thứ nhất là sự không nhất quán về khái
niệm ANPTT giữa các nước, mỗi quốc gia
do theo đuổi những lợi ích riêng của mình
mà thúc đẩy những hình thức hợp tác đối
phó với thách thức ANPTT khác nhau, đôi
khi dẫn tới xung đột lợi ích và từ đó cản trở
tiến trình hợp tác chung; thứ hai là sự thiếu
thiện chí chính trị, khả năng tổ chức hạn chế
và thiếu các cơ sở pháp lý, hầu hết các nỗ
lực hợp tác đa phương về ANPTT trong khu
vực mới chỉ tập trung vào việc thiết lập cơ
chế mềm, ra tuyên bố, tổ chức đối thoại...
mà còn ít đi vào tăng cường thi hành luật và
hợp tác pháp lý; thứ ba là sự gia tăng ý thức
về chủ quyền quốc gia của nhiều nước trong
khu vực, các quốc gia hầu hết đặt chủ quyền
và lợi ích quốc gia lên trên hết nên việc hợp
tác có nhiều hạn chế; và thứ tư là sự trỗi
dậy mạnh mẽ và hành xử quyết đoán của
một vài quốc gia trong khu vực, tiêu biểu là
Trung Quốc (Nguyễn Quang Thuấn, 2015).
4. Kết luận
Những vấn đề ANPTT trong khu vực
CA-TBD đang làm dấy lên các mối nguy
cơ mới, không chỉ gia tăng về số lượng mà
cả tần suất và tính nguy hiểm của vấn đề.
Với tính chất đa dạng và phức tạp, tính “phi
nhà nước”, tính xuyên quốc gia, không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể tự mình giải
quyết triệt để các vấn đề ANPTT. Nhận
thức này đã thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác đa
phương về ANPTT tại khu vực, việc đối
phó với các thách thức ANPTT trở thành
một trong những ưu tiên hàng đầu trong các
chương trình nghị sự của nhiều thể chế đa
phương ở CA-TBD hiện nay như ASEAN,
APEC,... Tuy nhiên hiệu quả từ những nỗ
lực hợp tác của các thể chế này thời gian qua
vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thời gian tới,
hợp tác về ANPTT tại các cơ chế đa phương
cần phải đi vào thực chất hơn với các sáng
kiến cụ thể, nâng cao mức độ thể chế hóa và
ràng buộc pháp lý, là công cụ để hỗ trợ, thúc
đẩy đối thoại và đạt được sự đồng thuận của
nhiều quốc gia trong khu vực
Tài liệu tham khảo
1. ADB (2017), A Region at Risk The
Human Dimemsions of Climate
Change in ASIA and The Pacifi c,
https://www.adb.org/sites/default/
files/publication/325251/region-risk-
climate-change.pdf
2. Phạm Thị Thanh Bình (2014), Tăng
trưởng kinh tế với an ninh năng lượng
và vấn đề an ninh năng lượng của
Việt Nam,
org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/
2014/25789/Tang-truong-kinh-te-voi-
an-ninh-nang-luong-va-van-de.aspx
3. ESCAP (2017), Asia-Pacifi c Disaster
Report 2017, fi le:///Users/apple8/
Desktop/0_Disaster%20Report%20
2017%20High%20res.pdf
4. FAO (2015), Regional Overview of
Food in Security Asia and the Pacifi c,
(xem tiếp trang 26)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_tac_khu_vuc_chau_a_thai_binh_duong_truoc_nhung_thach_thu.pdf