Tóm lại, chương trình Hợp tác phát triển
Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng (GMS) tạo ra
động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn khu
vực, trong đó có sáu nước thành viên tham gia.
Đứng trước tình hình hiện nay, Việt Nam và
Campuchia cần tích cực hơn nữa trong quá trình
xây dựng chương trình hành động cụ thể, góp
phần cùng các nước đưa Hợp tác Tiểu vùng trở
thành một điểm đến lý tưởng cho toàn khu vực.
Bên cạnh đó, hai nước cần hợp tác chặt chẽ
nhằm phát huy những thế mạnh sẵn có, đồng
thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực,
cùng nhau và cùng các nước tiểu vùng phát triển
phồn thịnh.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp tác Việt Nam - Campuchia trong tiểu vùng sông Mêkong mở rộng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.3, NO.3 (2013)
47
HỢP TÁC VIỆT NAM - CAMPUCHIA
TRONG TIỂU VÙNG SÔNG MÊKONG MỞ RỘNG
VIETNAM - CAMBODIA COOPERATION IN GREATER MEKONG SUBREGION
Trần Xuân Hiệp
Trường Đại học Duy Tân
TÓM TẮT
Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia có những nét tương đồng về lịch sử, văn hóa và xã hội, đồng thời
cùng là thành viên của nhiều tổ chức khu vực như ASEAN, Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Tổ chức Chiến lược
hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS), Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng
sông Mêkong mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Việt Nam - Campuchia - Lào. Trong đó, Chương trình hợp tác
phát triển Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng (GMS) mà cả hai nước cùng tham gia hiện nay đã và đang mang lại
hiệu quả rất lớn, góp phần đưa lại lợi ích cho mỗi nước cũng như mở rộng mối quan hệ hợp tác của hai quốc gia
với các nước trong khu vực và quốc tế. Khuôn khổ bài viết chỉ đề cập đến một số vấn đề liên quan đến hợp tác
Việt Nam - Campuchia trong GMS và bước đầu đưa ra những kết luận mang tính gợi mở.
Từ khóa: Việt Nam; Campuchia; GMS; quan hệ.
ABSTRACT
Vietnam and Cambodia are two countries having similarities in history, culture and society and are also
members of regional organizations such as ASEAN, ARF, ACMECS, GMS, the Vietnam Development Triangle -
Cambodia - Laos. In particular, the program of Development Cooperation Greater Mekong Subregion (GMS) in
which both countries are now involved are bringing enormous efficiency and benefits of each country as well as
expanding cooperative relationship between two countries with other countries and international. The article
mentions a number of issues relating to Vietnam - Cambodia cooperation in the GMS and initially making
suggestive conclusions.
Keywords: Vietnam; Cambodia; GMS; relationship.
1. Vai trò của GMS trong quá trình hội nhập
và phát triển
Chương trình hợp tác phát triển Tiểu
vùng sông Mêkong mở rộng (GMS) ra đời từ
năm 1992 thông qua sáng kiến của Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB) tính đến nay vừa tròn
20 năm tuổi. Trong khoảng thời gian đó, Hợp tác
Tiểu vùng sông Mêkong từ một tổ chức bao gồm
những nước nằm trong lưu vực sông Mêkong là
Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma
và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) đã từng bước
được mở rộng thêm với việc đưa tỉnh Quảng Tây
của Trung Quốc vào Chương trình hợp tác. Ngay
từ khi mới hình thành, chương trình Hợp tác
Tiểu vùng sông Mêkong đã nhận được sự quan
tâm và ủng hộ của cộng đồng quốc tế và các
quốc gia, vùng lãnh thổ, nhất là thu hút được sự
chú ý của nhiều quốc gia trong khu vực. Chương
trình hợp tác GMS với mục tiêu ưu tiên là thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân
lưu vực sông Mêkong và góp phần hiện thực hóa
định hướng gắn kết các thành viên hướng đến
tương lai với “Tầm nhìn 3C” (Connectivity,
Competitiveness, Community), viết tắt tiếng
Anh của ba chữ: kết nối (Connectivity), cạnh
tranh (Competitiveness) và cộng đồng
(Community). Thông qua kết nối hạ tầng, tạo
thuận lợi tiếp cận nguồn tài nguyên, đất đai,
nhân lực, qua đó gia tăng tính cạnh tranh, thúc
đẩy kinh tế phát triển, tăng cường giao lưu hợp
tác tạo ra không khí hài hòa và bền vững giữa
kinh tế, môi trường và xã hội dựa trên đặc trưng
của mỗi nước.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển
như hiện nay, GMS ngày càng khẳng định được
vai trò, vị trí; một mặt góp phần đẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 3, SỐ 3 (2013)
48
tham gia chương trình hợp tác, mặt khác tạo cơ
sở quan trọng cho các nước hỗ trợ nhau để cùng
khai thác các tiềm năng, thế mạnh to lớn của
dòng sông Mêkong, đồng thời giúp các nước
thành viên hội nhập sâu rộng vào đời sống khu
vực và quốc tế trong thời kỳ mới. Có thể xem xét
vai trò của Chương trình hợp tác phát triển Tiểu
vùng Mêkong mở rộng (GMS) trên mấy điểm
chính:
Thứ nhất, xét về mặt kinh tế, sông
Mêkong dài 4.880km bắt nguồn từ cao nguyên
Tây Tạng đi qua lãnh thổ sáu nước (Trung Quốc,
Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam)
là một trong những dòng sông lớn của thế giới,
nơi đây tập trung nhiều nguồn lợi lớn về các loài
thủy sản với hơn 1.300 loài, có thể cung cấp cho
khoảng 6 triệu cư dân trong vùng. Không chỉ
vậy, nguồn nước do sông Mêkong mang lại hết
sức quý giá phục vụ tưới tiêu cho hàng ngàn
hecta cây trồng, trong đó chủ yếu là cây lúa. Bên
cạnh đó, mỗi năm lượng phù sa do sông Mêkong
mang lại đã bồi thêm cho sự màu mỡ cho những
vùng đất ven sông và thau chua, rửa mặn cho
vùng đất hạ lưu. Đây còn là nơi có lợi thế rất lớn
để phát triển ngành công nghiệp không khói như
du lịch sinh thái, giao thông vận tải bằng đường
sông và đặc biệt là tiềm năng thủy điện dồi dào
đủ cung cấp cho các nước thành viên và xuất
khẩu. Ngoài ra, trong mấy năm trở lại đây, cùng
với nỗ lực của các nước thành viên trong chương
trình hợp tác kết hợp với sự hỗ trợ của các tổ
chức tài chính và các quốc gia như Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB), Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc và nhiều quốc gia khác đã giúp
chương trình hợp tác hoạt động có hiệu quả, đưa
lại nhiều lợi ích cho các bên, biến khu vực này
thành điểm đến đầy hấp dẫn của các nhà đầu tư.
Đặc biệt, GMS ra đời và hoạt động có hiệu quả
sẽ tạo thuận lợi mới cho sự phát triển kinh tế của
các nước thành viên, đồng thời GMS tạo ra sự
tùy thuộc lẫn nhau, đan xen lợi ích kinh tế giữa
các nước trong vùng, nhất là tiến tới cân bằng và
rút ngắn khoảng chênh lệch nền kinh tế giữa các
nước thành viên GMS và cả khu vực ASEAN.
Mặt khác, GMS thúc đẩy khả năng các thành
viên tham gia tích cực trao đổi, chuyển giao
khoa học công nghệ, hỗ trợ khai thác các tiềm
năng mỗi nước và lợi thế so sánh trong vùng.
Đây cũng chính là một trong những yếu tố hàng
đầu hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, góp
phần khẳng định uy tín ngày càng lớn của
chương trình hợp tác GMS.
Thứ hai, vấn đề an ninh chính trị, quốc
phòng trong chương trình hợp tác Tiểu vùng
sông Mêkong (GMS) rất được chú ý, nhất là
trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế hiện
nay. Có thể khẳng định tầm quan trọng của ổn
định nền chính trị, đảm bảo an ninh biên giới,
thực hiện quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa sáu
nước thuộc Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng
ngày càng có ý nghĩa, đặc biệt là tại các khu vực
nghèo nàn, kém phát triển của các nước thuộc
GMS. Bởi lẽ có đảm bảo được an ninh - chính trị
thì việc phát triển kinh tế của mỗi nước nói riêng
và hợp tác kinh tế - xã hội giữa các quốc gia mới
được thông suốt. Vì thế, chương trình hợp tác
Tiểu vùng sông Mêkong không chỉ nhằm đem
lại lợi ích thiết thực cho sự phát triển kinh tế mỗi
nước mà còn đảm bảo vững chắc nền hòa bình,
an ninh tại khu vực và trong toàn bộ tiểu vùng.
Vì các dự án phát triển tiểu vùng đang ngày càng
mang lại kết quả tốt đẹp, nhất là nâng cao đời
sống của hàng triệu người dân khu vực ven sông,
tăng cường an sinh xã hội và phát triển nguồn
nhân lực tại chỗ, đưa nền kinh tế toàn vùng đi
lên. Trên cơ sở đó, người dân dọc khu vực sông
Mêkong thêm phấn khởi, tin tưởng và chung
sống cùng nhau, góp phần gìn giữ an ninh, ổn
định chính trị và hợp tác quốc tế.
Thứ ba, về quan hệ quốc tế, GMS đã và
đang thu hút được sự chú ý của rất nhiều quốc
gia và các tổ chức quốc tế. Hiện nay, quá trình
xâm nhập, đầu tư và phối hợp tài trợ nhằm hỗ trợ
trực tiếp cho chương trình hợp tác Tiểu vùng
ngày càng lớn, đi đầu phải kể đến các quốc gia
như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, các tổ
chức như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB),
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Cơ
quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Cụ
thể, trong vòng 10 năm (1997 - 2007), Ngân
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.3, NO.3 (2013)
49
hàng phát triển Châu Á đã hỗ trợ 2,1 tỉ USD tiền
vốn và 3,1 tỉ USD chi phí xây dựng hạ tầng ở
khu vực này. Ngoài viện trợ của Ngân hàng phát
triển châu Á, đóng góp của chính phủ các nước
cũng rất lớn. Chẳng hạn, Chính phủ Trung Quốc
cung cấp cho Lào viện trợ không hoàn lại trị giá
240 triệu NDT để xây dựng 1/3 tuyến đường cao
tốc Côn Minh - Băng Cốc trên lãnh thổ Lào, Hàn
Quốc tài trợ 872.000 USD cho một dự án chống
lũ trong 3 năm từ đầu năm 1999 đến cuối năm
2001 cho 2 nước Việt Nam và Campuchia, kể cả
chống lũ ngắn hạn và dài hạn. Năm 2008, Nhật
Bản quyết định viện trợ không hoàn lại 20 triệu
USD cho năm nước thành viên ASEAN trong
Tiểu vùng Mêkong để xây dựng mạng lưu thông
hành lang Đông - Tây dài 1.450km nối liền bốn
nước Việt Nam - Lào - Campuchia - Mianma và
Hành lang Đông - Tây 2 dài 1000km nối Thái
Lan với Campuchia để nối liền mạch máu kinh
tế nội địa ASEN [1]. Chứng minh cho những
thành công bước đầu của hợp tác GMS là sự tiến
triển rõ rệt của nền kinh tế của cả khu vực, tăng
trưởng bình quân đã vượt mức 6%/năm, tổng
kim ngạch mậu dịch trong vùng tăng 11 lần từ
2,4 tỉ USD năm 1992 tăng lên đến 27 tỉ USD
năm 2004 [2]. Đây chính là những dấu hiệu tích
cực về một tương lai phát triển không ngừng mở
rộng của GMS, không chỉ có ý nghĩa lớn đối với
mỗi quốc gia thành viên mà còn là điểm gắn kết
nhiều quốc gia trên thế giới.
2. Hợp tác Việt Nam - Campuchia trong các
diễn đàn Hội nghị GMS
Hợp tác trong xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội
Việt Nam và Campuchia là hai nước
nằm ở vùng hạ lưu sông Mêkong, do đó lợi ích
cũng như những khó khăn thách thức mà sông
Mêkong mang lại là rất lớn. Trong quá trình hội
nhập và phát triển, cả hai nước đều tích cực tham
gia vào tổ chức GMS với nhiều kỳ vọng về một
chương trình hợp tác “nhiều quốc gia - một điểm
đến”, vì lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi nước và góp phần vào hòa bình, ổn định
trong khu vực.
Trước hết, hợp tác Việt Nam - Campuchia
phải kể đến trong GMS, đó là việc liên kết đa
phương và song phương trong các dự án phát
triển các hành lang kinh tế, nhất là ba hành lang
kinh tế lớn hiện nay: Hành lang kinh tế Đông -
Tây (EWEC), Hành lang kinh tế Bắc - Nam
(NSEC) và Hành lang kinh tế phía Nam (SEC).
Mỗi hành lang kinh tế giữ một vai trò, vị trí
riêng song đều tác động rất lớn đến sự phát triển
kinh tế của mỗi nước cũng như tăng cường gắn
kết giữa các quốc gia trong khu vực. Việt Nam
và Campuchia là hai nước được hưởng lợi rất
lớn từ các dự án có quy mô lớn của các hành
lang kinh tế, nhất là nối liền huyết mạch các con
đường kinh tế, dân sinh, quốc phòng giữa hai
nước với các nước trong tiểu vùng. Cụ thể, Việt
Nam và Campuchia đã tích cực phối hợp tham
gia cùng Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Myanmar
xây dựng các tuyến đường giao thông, cụ thể đó
là các trục quốc lộ 78 của Campuchia và 18B, 16
của Lào qua các quốc lộ 14, 19, 24, 49 của Việt
Nam nối toàn bộ khu vực này với cảng biển của
Việt Nam, trong đó có quốc lộ 14B, nối từ quốc
lộ 14 ra cảng Tiên Sa, Đà Nẵng (Việt Nam),
trùng với đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 19 xuất
phát từ biên giới Campuchia - Việt Nam dài
247km mà hiện đang là trục đường tốt nhất từ
Tây Nguyên ra các cảng biển miền Trung [3].
Ngoài ra, hai nước còn tích cực hợp tác với các
nước khác để xây dựng các trục đường chính nối
liền khu vực, như các trục quốc lộ 7 của
Campuchia và 13 của Lào nối khu vực này với
Phnompenh và Viêng Chăn, dự án phát triển
đường bộ và đường sắt nối liền Thái Lan -
Campuchia - Việt Nam, đồng thời mở rộng và
xây dựng các con đường như quốc lộ 78 nối với
quốc lộ 19 ra cảng Quy Nhơn; quốc lộ 25 ra
cảng Vũng Rô; quốc lộ 18B nối với quốc lộ 40,
đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 14B, quốc lộ 24 ra
cảng Đà Nẵng và Dung Quất. Như vậy, việc nối
liền các trục đường chính ra các cảng biển của
Việt Nam đã thực sự tạo ra thuận lợi lớn để các
nước đẩy mạnh giao lưu trao đổi và xuất khẩu
hàng hóa sang các nước thành viên cũng như các
nước ngoài khu vực thông qua các cảng biển
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 3, SỐ 3 (2013)
50
miền Trung Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam
và Campuchia cũng đầu tư xây dựng và nâng
cấp các khu kinh tế cửa khẩu như Khu kinh tế
cửa khẩu Bờ Y – Ngọc Hồi, cửa khẩu Đức Cơ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh hàng
hóa giữa hai nước, khai thác hiệu quả các tiềm
năng thương mại, du lịch, phát triển các khu
công nghiệp, dịch vụ, giải trí nhằm nâng cao đời
sống nhân dân vùng bên giới và bảo vệ an ninh
chính trị khu vực. Đặc biệt, việc xây dựng các
trục giao thông lớn như trên cũng góp phần thúc
đẩy quá trình phát triển của các mạng lưới
đường nông thôn, đường dân sinh nối liền các
trung tâm kinh tế, văn hóa trong vùng Tam giác
phát triển; hình thành cầu nối giữa hành lang
kinh tế phía Nam với hành lang kinh tế Đông -
Tây. Đồng thời, để phối hợp hiệu quả trong các
dự án, Việt Nam và Campuchia đã phối hợp và
tham gia nhiều Nhóm công tác Tiểu vùng được
thành lập như Nhóm công tác Đầu tư Tiểu vùng,
Nhóm công tác về nông nghiệp, về Phát triển
nguồn nhân lực, về Môi trường, về Du lịch, về
Thuận lợi hóa Thương mại Tiểu vùng, Diễn đàn
Viễn thông Tiểu khu vực, Diễn đàn giao thông
vận tải Tiểu khu vực. Đây là những Nhóm công
tác mang tính chuyên biệt mà các nước thành
viên đều tham gia, thông qua đó, Việt Nam và
Campuchia đã trao đổi hỗ trợ thúc đẩy các dự án
liên quan đến Tiểu vùng. Đặc biệt là khuyến
khích đầu tư, hoạt động của Diễn đàn doanh
nghiệp GMS (GMS-BF), cải thiện hệ thống viễn
thông cung cấp dịch vụ kết nối, thúc đẩy doanh
nghiệp tư nhân vào đầu tư kinh doanh trong tiểu
vùng. Bên cạnh đó, để hiện thực hóa Hành lang
kinh tế trong GMS, Việt Nam và Campuchia đã
chủ động tham gia vào các dự án vận tải và
thuận lợi hóa thương mại qua biên giới. Cụ thể,
hai bên đã tham gia vào các dự án trọng điểm
như Hiệp định vận tải xuyên biên giới GMS, xây
dựng Chiến lược hoạt động về Thuận lợi hóa
thương mại và đầu tư, Hiệp định Liên chính phủ
về trao đổi năng lượng khu vực những hoạt
động này không chỉ mang lại nhiều lợi ích thiết
thực cho các nước tiểu vùng mà còn đẩy mạnh
quá trình kết nối tiểu khu vực và liên khu vực.
Vì vậy, mặc dù hành lang kinh tế Đông - Tây
không chạy qua lãnh thổ Campuchia song nước
này lại được hưởng lợi rất nhiều từ các dự án
phát triển Hành lang kinh tế Đông - Tây và thúc
đẩy quan hệ giao lưu Việt Nam - Campuchia với
các nước trong khu vực.
Hợp tác trong bảo vệ và phát triển bền
vững môi trường sinh thái
Việt Nam và Campuchia là hai nước
nằm ở vùng hạ lưu, những lợi ích sông Mêkong
mang lại là rất lớn song khó khăn thách thức do
ảnh hưởng của dòng chảy không hề nhỏ, vì vậy
cả hai nước cần phải có những cơ chế hợp tác đa
phương lẫn song phương để phát huy lợi thế
đồng thời hạn chế những tiêu cực do thiên nhiên
mang lại. Hiện nay, với những biến đổi phức tạp
của khí hậu toàn cầu, tình trạng dòng chảy của
sông Mêkong diến biến ngày càng thất thường,
hạn hán và lũ lụt xảy ra thường xuyên và nghiêm
trọng hơn so với các năm trước đó. Mặt khác, sự
gia tăng các hoạt động khai thác trên lưu vực
sông Mêkong của cư dân vùng ven đã làm cho
tình hình nguồn nước thêm phức tạp, nhất là việc
sử dụng và tận dụng nguồn tài nguyên của các
quốc gia vùng thượng nguồn như Trung Quốc,
Lào, Myanmar, Thái Lan đã gây ra nhiều hậu
quả xấu, ảnh hưởng không nhỏ đến các nước
nằm ở khu vực hạ lưu là Việt Nam và
Campuchia.
Để hạn chế những vấn đề trên, Việt Nam
và Campuchia đã và đang làm hết sức mình
nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình,
đặc biệt là tăng cường cơ chế hợp tác với các
nước trong GMS song song với việc thúc đẩy
quan hệ song phương trong giải quyết vấn đề
liên quan. Ngay từ năm 1992, Việt Nam và
Campuchia đã tích cực ủng hộ sáng kiến về một
khu vực chung và trở thành thành viên đầy đủ
của chương trình hợp tác Tiểu vùng sông
Mêkong mở rộng (GMS) do Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) cùng các nước Trung Quốc,
Myanmar, Lào, Thái Lan sáng lập. Hiện nay,
Việt Nam và Campuchia cũng đang tham gia
tích cực tham gia vào Ủy hội sông Mêkong
(MRC), đóng góp ý kiến và tham gia hiện thực
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.3, NO.3 (2013)
51
hóa Hiệp định Mêkong ký năm 1995 giữa các
nước thành viên Việt Nam, Lào, Campuchia và
Thái Lan. Thông qua Hiệp định này, hai nước đã
có những hành động cụ thể, vừa tham gia xây
dựng chương trình, các dự án mang tính liên
vùng, liên quốc gia, đẩy mạnh hợp tác đảm bảo
các quy tác ứng xử thân thiện với môi trường,
các quy chế bảo vệ dòng chảy và chất lượng
dòng chảy. Đặc biệt, là các nước ở vùng hạ lưu
Mêkong, do đó Việt Nam và Campuchia luôn
chủ động phối hợp bàn bạc với các nước vùng
thượng nguồn, nhất là với Trung Quốc,
Myanmar để cùng chia sẻ, gắn kết các chương
trình, dự án trong Kế hoạch Phát triển lưu vực
sông Mêkong, thúc đẩy liên kết hành động của
chương trình GMS với các hoạt động của MRC,
kêu gọi Trung Quốc và Myanmar tham gia MRC
với tư cách là thành viên đầy đủ. Để phối hợp tốt
hơn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, Việt
Nam và Campuchia cũng khẳng định quyết tâm
thực hiện chương trình Môi trường trọng điểm
của GMS (CEP), thông qua việc tham gia tích
cực vào hoạt động của Trung tâm Hoạt động môi
trường GMS, Chương trình sử dụng nước
(WUP), Kế hoạch Phát triển lưu vực (BDP),
Chương trình Môi trường (EP), Chương trình
Quản lý và Giảm nhẹ lũ lụt (FMMP). Có thể
khẳng định, thông qua những chương trình hành
động cụ thể nêu trên, Việt Nam và Campuchia
đã cùng các nước thành viên có thể chia sẻ việc
khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường sinh thái thực sự hài hòa, bền vững
của Tiểu vùng cũng như toàn khu vực. Ngoài ra,
hai nước còn tích cực tham gia các diễn đàn đa
phương khác như ASEAN, ACMECS, ARF,
Tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia trong mỗi diễn đàn này đều có
những nội dung liên quan đến công tác bảo tồn
và phát huy những lợi ích của sông Mêkong,
đồng thời thảo luận các biện pháp nhằm hạn chế
tối đa những tiêu cực, nhất là việc khai thác
không có quy hoạch (xây dựng hàng chục đập
thủy điện) ở vùng thượng lưu của các quốc gia
đầu nguồn.
Riêng về hợp tác song phương, Việt
Nam và Campuchia đã và đang triển khai nhiều
chương trình để cùng nhau khai thác và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên ở vùng hạ lưu sông
Mêkong. Hàng năm, Ủy ban hỗn hợp liên chính
phủ hai nước đã có hàng trăm cuộc họp, trao đổi
về các lĩnh vực hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học và công nghệ, trong đó có nhiều chương
trình hợp tác liên quan đến lĩnh vực tài nguyên
nước và các tài nguyên liên quan như nông - lâm
- ngư nghiệp, giao thông vận tải, thủy lợi, thủy
điệnChẳng hạn, Việt Nam đã giúp Campuchia
lập quy hoạch phát triển thủy điện phần hạ lưu
sông Sê San, Srêpôk thuộc Campuchia, tổ chức
các cuộc hội thảo trao đổi tác động của việc xây
dựng đập thủy điện đến môi trường sinh thái khu
vực. Cũng trong khuôn khổ hợp tác giữa hai
Chính phủ, nhiều phân ban đã được thành lập
như Tiểu ban điều tiết nước sông Sê San,
Srêpôk, Nhóm chuyên viên hỗn hợp soạn thảo
Quy chế sử dụng nước biên giới, Nhóm chuyên
viên soạn thảo Nghị định thư thực hiện Hiệp
định vận tải thủy Việt Nam - Campuchia; những
cơ chế hợp tác song phương này đi vào hoạt
động đã góp phần tích cực tham mưu cho hai
Chính phủ trong việc hoạch định chính sách bảo
vệ và phát triển nguồn lợi của dòng sông
Mêkong. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn, Ủy ban
Mêkong quốc gia hai nước cũng đã ký Biên bản
ghi nhớ về tăng cường hợp tác trong công tác
quản lý và sử dụng nước trong lưu vực sông
Mêkong và đang tiến hành thực hiện các chương
trình đã thỏa thuận.
Bên cạnh đó, Hiệp định về hợp tác khoa
học kỹ thuật nông lâm ngư nghiệp đã được Việt
Nam và Campuchia ký kết vào tháng 8/2000
nhằm tăng cường trao đổi kinh nghiệm và hợp
tác trên tất cả các lĩnh vực liên quan. Đặc biệt
Hiệp định nhấn mạnh việc phối hợp bảo vệ rừng
và môi trường, sinh thái vùng biên, ngăn chặn
tình trạng khai thác và xuất nhập khẩu gỗ trái
phép, quy hoạch và cùng nhau sử dụng bền vững
nguồn lợi thủy sản, khuyến khích hợp tác phát
triển nông nghiệp, nông thôn giữa các địa
phương sát biên giới. Ngoài ra, hai bên tích cực
phối hợp khảo sát đánh giá nhằm quản lý và sử
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC TẬP 3, SỐ 3 (2013)
52
dụng nguồn nước trên sông suối biên giới giữa
hai nước. Đây là những hoạt động cụ thể trên
tinh thần hữu nghị, tin tưởng hướng tới mục tiêu
phát triển xanh và bền vũng của hai quốc gia
nằm ở cuối vùng hạ lưu Mêkong trong điều kiện
khó khăn của biến đổi khí hậu toàn cầu.
3. Một vài nhận xét
Thứ nhất, chương trình Hợp tác phát
triển Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng (GMS)
đã và đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ
và phát huy được lợi thế so sánh giữa các thành
viên tham gia. Việt Nam và Campuchia cũng
đang hợp tác chặt chẽ với nhau, cùng nhau triển
khai các chương trình, dự án trong khuôn khổ
Hợp tác Tiểu vùng, đồng thời hai nước cũng tích
cực hợp tác với các quốc gia thành viên nhằm
triển khai có hiệu quả các chương trình đã thảo
thuận. Tuy nhiên, những hợp tác này xem ra vẫn
còn nhiều hạn chế nhất định, nguyên nhân của
vấn đề là do nguồn kinh phí còn rất hạn hẹp
không cho phép triển khai nhiều chương trình
cùng một lúc, bên cạnh đó nhiều cơ chế chính
sách của các bên chưa thực sự đồng bộ thống
nhất, hiệu quả mang lại chưa cao.
Thứ hai, hợp tác Việt Nam - Campuchia
trong Tiểu vùng Mêkong mở rộng không chỉ là
mối quan hệ song phương giữa hai nước mà còn
thực thi mở rộng quan hệ với các nước thành
viên, cũng như với các quốc gia và tổ chức quốc
tế khác. GMS trước hết mang lại lợi ích thiết
thân cho mỗi nước, trong đó Việt Nam và
Campuchia là những nước nằm ở vùng hạ lưu
sông, do đó việc hợp tác này còn mang tính hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình xây dựng
cơ sở hạ tầng, khai thác tiềm năng của sông
Mêkong. Đồng thời, hợp tác chặt chẽ thống nhất
đưa ra những ý kiến thiết thực nhằm bảo vệ môi
trường sinh thái, phản đối những chương trình
dự án của các quốc gia vùng thượng lưu như vậy
xây hàng chục đập thủy điện gây ra tình trạng
biến đổi dòng chảy mà các nước vùng hạ lưu
như Việt Nam và Campuchia phải hứng chịu,
nhất là lũ lụt và hạn hạn ngày càng thường
xuyên phức tạp.
Thứ ba, thông qua chương trình Hợp tác
phát triển Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng,
Việt Nam và Campuchia đã và đang từng bước
hội nhập sâu hơn vào đời sống khu vực và quốc
tế. Có thể khẳng định, GMS không chỉ thúc đẩy
hợp tác song phương giữa hai quốc gia mà còn
góp phần đẩy mạnh giao lưu hợp tác giữa Việt
Nam - Campuchia với các nước, các tổ chức và
vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Đặc biệt, thông
qua GMS, Việt Nam và Campuchia đang có
nhiều thuận lợi trong việc hợp tác với các nước
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN,
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), với các
dự án, thỏa thuận cấp cao nhằm đầu tư, hỗ trợ
phát triển các khu vực kém phát triển của hai
nước, tăng cường phát triển Tam giác phát triển
Việt Nam - Lào - Campuchia.
Thứ tư, hội nhập khu vực và quan hệ
quốc tế là xu thế chung của tất cả các quốc gia
và vùng lãnh thổ, tuy nhiên bên cạnh những
thuận lợi do xu thế này mang lại thì cũng có
những phức tạp khó lường. Một thực tế cần thấy
là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn tại
khu vực ngày càng tăng đã khiến cho tình hình
trở nên phức tạp, hiện nay Nhật Bản đang mở
rộng sự ảnh hưởng theo hướng Đông - Tây,
trong khi Trung Quốc xây dựng chiến lược gia
tăng lợi ích theo chiều Bắc – Nam, đó là chưa kể
đến sự tranh giành ảnh hưởng của Mỹ, phương
Tây và một số quốc gia khác tại đây cũng làm
cho quan hệ quốc tế trong khu vực chứa đựng
những yếu tố khó lường.
Riêng về chương trình hợp tác phát triển
Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng, lợi thế mang
lại là rất lớn cho cả khu vực và hai nước, tuy
nhiên Việt Nam và Campuchia cần có những
chiến lược hợp tác chặt chẽ, đề ra những phương
án hữu hiệu để tham gia có hiệu quả trong từng
chương trình, dự án cụ thể của tiểu vùng. Một
mặt, phát huy tối đa lợi thế so sánh của mỗi
nước, hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời thống nhất
nguyên tắc chia sẻ, giúp đỡ nhau trong toàn bộ
quá trình triển khai thực hiện các công việc. Trên
cơ sở tôn trọng lợi ích các quốc gia thành viên,
Việt Nam và Campuchia cũng cần tích cực hoạt
UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.3, NO.3 (2013)
53
động nhằm củng cố thế mạnh của mình, đồng
thời kêu gọi và yêu cầu các quốc gia thành viên
tôn trọng lợi ích của các nước thuộc vùng hạ lưu,
tránh diễn tiến xấu của việc xây dựng hàng chục
đập thủy điện trên vùng thượng nguồn gây ra
hiện tượng biến đổi dòng chảy, lũ lụt và hạn hạn
kéo dài, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, đời
sống nhân dân, trực tiếp nhất là cư dân vùng ven
sông hai nước Việt Nam và Campuchia.
Tóm lại, chương trình Hợp tác phát triển
Tiểu vùng sông Mêkong mở rộng (GMS) tạo ra
động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn khu
vực, trong đó có sáu nước thành viên tham gia.
Đứng trước tình hình hiện nay, Việt Nam và
Campuchia cần tích cực hơn nữa trong quá trình
xây dựng chương trình hành động cụ thể, góp
phần cùng các nước đưa Hợp tác Tiểu vùng trở
thành một điểm đến lý tưởng cho toàn khu vực.
Bên cạnh đó, hai nước cần hợp tác chặt chẽ
nhằm phát huy những thế mạnh sẵn có, đồng
thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực,
cùng nhau và cùng các nước tiểu vùng phát triển
phồn thịnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tăng cường hợp tác Tiểu vùng Mê công, Báo nhân dân ngày 15/1/2008.
[2] TTXVN, Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công, TLTKĐB 18/12/2007.
[3] Phạm Đức Thành (2008), Campuchia với hành lang kinh tế Đông - Tây, T/c NCĐNA số 11.
[4] Nguyễn Ngọc Sơn (2009), Phát triển Hành lang kinh tế ở Việt Nam trong khuôn khổ Tiểu vùng
sông Mêkong, Tạp chí Kinh tế Thế giới, số 11 (451)
[5] TTXVN, Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan cam kết thực hiện kế hoạch phát triển bền vững
sông Mê Công, TLTG, ngày 23/7/2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hop_tac_viet_nam_campuchia_trong_tieu_vung_song_mekong_mo_ro.pdf