Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự Căn cứ Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XII, Kỳ họp thứ hai thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007; Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XI, Kỳ họp thứ năm thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004; Để thực hiện thống nhất Luật Tương trợ tư pháp, Bộ luật tố tụng dân sự liên ngành Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Toà án nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số nội dung như sau: Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

doc88 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế hoặc bằng loại tiền tương đương. (b). Những biện pháp thích đáng sẽ được áp dụng trên cơ sở luật pháp quốc gia để đảm bảo có được bản dịch đúng, hoặc bản sao in chính xác của tác phẩm. Điều V [ Khả năng lựa chọn về hạn chế quyền dịch: 1. Chế độ qui định theo các Đạo luật 1886 và 1896; 2. Không được chuyển đổi sang chế độ theo Điều II; 3. Thời hạn để xác định khả năng lựa chọn] 1(a). Những nước được quyền tuyên bố tuân thủ những quy định ở Điều II, khi phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này, thay cho tuyên bố đó, có thể: i) ra tuyên bố về quyền dịch theo quy định của Điều 30(2) (a), nếu nước đó tuân thủ điều này ii) ra tuyên bố như đã nói ở câu thứ nhất của Điều 30(2)(b) nếu là một nước không áp dụng điều khoản 30(2)(a), hoặc nước đó không phải là một nước ngoài Liên hiệp. (b). Trong trường hợp một nước không còn được coi là nước đang phát triển theo điều I(1), việc tuyên bố tuân thủ khoản này có hiệu lực cho đến khi hết thời hạn đã quy định ở Điều I(3). (c). Nước nào đã ra tuyên bố tuân thủ khoản này cho dù nước đó có thu hồi tuyên bố này đi chăng nữa sau đó cũng không được tuyên bố tuân thủ Điều II. 2. Tuân thủ quy định ở khoản (3), nước nào đã tuyên bố tuân thủ Điều II thì sau đó không được tuyên bố tuân thủ khoản 1 nữa. 3. Một nước khi không còn được coi là nước đang phát triển theo Điều I(1) chậm nhất là hai năm trước khi chấm dứt thời hạn quy định ở Điều I(3) có thể ra tuyên bố tuân thủ câu đầu của Điều 30(2)(b) cho dù nước đó không phải là một nước thuộc Liên hiệp. Tuyên bố này có hiệu lực ngay khi hết thời hạn quy định theo Điều I(3). Điều VI [ Khả năng áp dụng, hoặc cho phép áp dụng đối với một số qui định của Phụ lục trước khi bị ràng buộc: 1. Tuyên bố; 2. Nộp lưu chiểu và ngày hiệu lực của tuyên bố] 1. Mỗi nước thuộc Liên hiệp, kể từ ngày thông qua Đạo luật này và vào bất kỳ thời gian nào trước đó khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục này, đều có thể tuyên bố: i) Nếu là một nước khi bị ràng buộc bởi các Điều từ 1 đến 21 và Phụ lục, được phép sử dụng những khả năng nêu trong Điều I (1), có thể ra tuyên bố rằng mình sẽ áp dụng những quy định ở Điều II hay Điều III, hoặc là cả hai, cho những tác phẩm có nước gốc là một nước theo quy định ở điểm (ii) dưới đây, với điều kiện nước này chấp nhận áp dụng các Điều khoản này cho những tác phẩm đã nói, hoặc là một nước bị ràng buộc bởi các Điều khoản từ 1 đến 21 và Phụ lục. Tuyên bố nói trên có thể làm theo quy định của Điều V thay cho Điều II; ii) ra tuyên bố rằng mình chấp nhận để các nước đã tuyên bố tuân thủ điểm (i) trên đây hoặc đã thông báo tuân thủ Điều I, áp dụng Phụ lục này cho những tác phẩm xuất xứ từ nước mình. 2. Những tuyên bố tuân thủ khoản (1) phải là một văn bản và phải gửi cho Tổng giám đốc. Tuyên bố đó sẽ có hiệu lực kể từ ngày nộp./. Công ước Berne đã có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004 SOURCE: BANQUYEN.NET Việt Nam với việc gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật Cho đến nay, Việt Nam là một trong rất ít nước trên thế giới còn chưa tham gia bất kỳ điều ước quốc gia đa phương nào về bảo hộ quyền tác giả. Chính vì vậy đã phần nào ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Trong các quan hệ kinh tế song phương, đặc biệt là với Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu, vấn đề tham gia các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả và trước hết là Công ước Berne thường được các nước đối tác đặt ra như một điều kiện đáng chú ý để đơn giản hóa nội dung đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại với Việt Nam.  1. Công ước Berne - một công ước quan trọng nhất về bảo hộ quyền tác giả trên thế giới:  Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và khoa học - kỹ thuật ở các nước châu Âu kể từ thế kỷ 19, trong đó phải kể đến sự phát triển của kỹ nghệ in ấn và phổ biến các tác phẩm cũng như sự gia tăng nhu cầu của công chúng trong việc nâng cao tri thức, qua các ấn phẩm văn học, nghệ thuật, vấn đề bảo hộ pháp lý về quyền tác giả ở những nước này ngày càng trở nên bức xúc, thúc đẩy các nước phải ban hành các đạo luật về quyền tác giả. Liên tục trong vòng 200 năm kể từ thế kỷ thứ 18, nhiều nước châu Âu đã ban hành các đạo luật bảo hộ quyền tác giả như Anh (1710), Pháp (1791 và 1793), Đức, Tây Ban Nha (giữa thế kỷ 19)... Mặc dù các tác phẩm văn học nghệ thuật của các nước châu Âu đã được bảo hộ ở trong nước, nhưng họ ngày càng nhận ra rằng những tác phẩm ở nước họ lại thường xuyên bị sao chép và sử dụng không phép ở nước khác và các tác giả không được hưỏng bất cứ quyền lợi nào. Điều đó đã khiến một số nước tiến hành ký kết các thỏa thuận quốc tế song phương để bảo hộ quyền tác giả cho nhau. Tuy vậy trên thực tế, giải pháp này vẫn chưa tỏ ra thích hợp và toàn diện. ý tưởng về một thỏa thuận quốc tế đa phương nhằm bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi châu Âu đã được hình thành từ đó. Sau một thời gian thương lượng, đàm phán, ngày 9/9/1886 tại Berne, Thụy Sĩ, 10 nước châu Âu đã thông qua thỏa thuận quốc tế đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả : Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được gọi tắt là Công ước Berne. Cùng với Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883, Công ước Berne ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới với vai trò tiên phong của các nước châu Âu, đồng thời cũng là những nước sáng lập ra Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO).  Trong quá trình tồn tại 112 năm ,Công ước Berne đã trải qua 5 lần xem xét điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung cho thích ứng với những tiến bộ của khoa học công nghệ cũng như những đòi hỏi của các nước mới dành được độc lập đang phát triển cần được tiếp cận với các tác phẩm văn hóa, khoa học vì mục tiêu phát triển quốc gia, (năm 1908 tại Berlin, năm 1928 tại Rome, năm 1948 tại Brussels, năm1967 tại Stockholm và năm 1971 tại Paris).  Theo nội dung văn bản Công ước năm 1971, việc bảo hộ dựa trên hai nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc bảo đảm các quyền tối thiểu. Theo nguyên tắc đối xử quốc gia, tác phẩm của tác giả thuộc một quốc gia thành viên phải được các quốc gia thành viên khác bảo hộ không thấp hơn sự bảo hộ dành cho tác phẩm của tác giả thuộc các quốc gia đó. Còn nguyên tắc bảo đảm quyền tối thiểu lại buộc các quốc gia thành viên phải quy định trong luật pháp của mình mức bảo hộ không được thấp hơn mức độ mà Công ước đã thiết lập.  Theo Công ước, các tác phẩm được bảo hộ một cách tự động, có nghĩa là việc bảo hộ tác phẩm không lệ thuộc vào thủ tục đăng ký, nộp lưu chiểu hay các thủ tục tương tự. Công ước quy định việc bảo hộ được tiến hành là vì lợi ích của bản thân tác giả và những người thừa kế của họ. Riêng đối với tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên có thể quy định người trước hết có quyền đối với tác phẩm loại này là nhà sản xuất, tiếp đó mới là đạo diễn, người viết kịch bản hay những người liên quan khác. Những tác giả được bảo hộ theo Công ước phải là công dân hay người thường trú trên lãnh thổ các nước thành viên hoặc tác giả, tuy không thuộc những người nói trên, nhưng lần đầu tiên có tác phẩm được công bố tại một trong các nước thành viên hay cùng một lúc công bố ở cả hai nước thành viên và không phải là thành viên Công ước.  Các tác phẩm được bảo hộ theo Công ước bao gồm mọi sản phẩm gốc thuộc lĩnh vực khoa học và nghệ thuật được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, mỗi nước thành viên, tùy theo sự lựa chọn, có thể không bảo hộ một số tác phẩm như các văn bản pháp luật và các bản dịch của chúng, văn học nghệ thuật dân gian...  Công ước dành cho tác giả các quyền kinh tế như độc quyền dịch, sao chép dưới bất cứ hình thức nào, theo bất cứ quy trình nào ; quyền trình diễn tác phẩm kịch, nhạc kịch, âm nhạc; quyền phát sóng và truyền đạt tới công chúng ; quyền tạo ra tác phẩm cải biên, chuyển thể... Bên cạnh đó, Công ước cũng thừa nhận sự bảo hộ đối với các quyền tinh thần của tác giả như quyền về danh nghiã tác giả và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, chống lại bất kỳ biểu hiện nhằm bóp méo, phá hoại xuyên tạc hay hành động xúc phạm tới tác phẩm để làm phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả.  Để đảm bảo sự cân bằng thích hợp giữa người nắm quyền tác giả và người sử dụng tác phẩm, Công ước quy định hạn chế một số quyền kinh tế nhất định của tác giả, cho phép sử dụng các tác phẩm mà không cần phải xin phép và trả thù lao cho người nắm quyền tác giả chẳng hạn như trích dẫn và sử dụng tác phẩm dưới hình thức minh họa với mục đích giảng dạy, những ghi chép nhất thời để phát tin... Đặc biệt, nhằm khuyến khích việc tham gia Công ước của những nước mới dành được độc lập đang có những khó khăn trong việc phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội., Công ước còn dành hẳn một phụ lục cho phép các nước đang phát triển trong những điều kiện cụ thể, có thể không cần phải cấp phép đối với trường hợp dịch các tác phẩm nước ngoài để giảng dạy nghiên cứu, học tập, hoặc tái bản và sử dụng tác phẩm nhằm mục đích giáo dục chính quy và không chính quy.  Cho đến nay, trong số các điều ước quốc tế hiện hành về quyền tác giả, Công ước Berne là công ước lâu đời nhất, quan trọng nhất được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới. Tính đến tháng 3 năm 1998, đã có tới 130 nước từ tất cả các châu lục và với tất cả các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Trung Quốc gia nhập Công ước Berne. Tại khu vực châu A' hiện chỉ có một vài nước còn nằm ngoài Công ước như Việt Nam, Lào, Campuchia, CHDCND Triều Tiên và Iran.  Nếu lấy năm 1986 là năm kỷ niệm ngày ra đời Công ước Berne làm mốc thời gian, có thể dễ dàng nhận thấy là trong một trăm năm tồn tại, mới chỉ có 76 nước tham gia Công ước, thì chỉ 12 năm sau, số nước thành viên Công ước đã lên đến 130, tăng 54 nước, bằng gần 42% tổng số nước tham gia. Điều đó một mặt chứng tỏ Công ước Berne ngày càng thể hiện tính ưu việt, hấp dẫn của nó trên thực tế bảo hộ quyền tác giả quốc tế. Mặt khác, cũng cho thấy trong những năm gần đây, ý thức coi trọng quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới ngày càng được nâng cao. Các quốc gia ngày càng nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả trong hệ thống thương mại mới trên thế giới ; thương mại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ được bảo hộ quyền tác giả ngày càng phát triển trên quy mô toàn cầu. Bảo hộ quyền tác giả đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế thế giới. Với ý nghĩa đó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tiếp nhận toàn bộ các Điều từ 1 đến 21, kể cả Phụ lục, trừ Điều 6 bis của Công ước Berne làm cơ sở cho chế độ bảo hộ quyền tác giả trong "Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ " ("Hiệp định TRIPS). Vì vậy, trên thực tế số nước áp dụng các chuẩn mực của Công ước Berne đã lên đến gần 160 nước (130 nước thành viên Công ước và khoảng 30 nước không phải là thành viên Công ước, nhưng là thành viên của WTO).  2. Những lợi ích chủ yếu khi tham gia Công ước:  Động lực mạnh mẽ thúc đẩy các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào Công ước Berne là những lợi ích hiển nhiên do chính Công ước mang lại. WIPO đã tổng kết kinh nghiệm thực tế của hơn 110 năm áp dụng, phát triển Công ước và đã rút ra kết luận chung là quyết định gia nhập Công ước Berne của một nước là một hành động vì lợi ích của chính nước đó.  Lợi ích chủ yếu đối với quốc gia nhập Công ước Berne là các tác phẩm của tác giả quốc gia đó tự động được bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên khác. Từ đó, các tác giả có thể được hưởng những lợi ích kinh tế tại các thị trường rộng lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước. Mặt khác, việc gia nhập Công ước Berne có thể sẽ làm cho vị thế cạnh tranh của các tác giả tại thị trường nội địa tăng lên, bởi vì các tác phẩm của tác giả nước ngoài chỉ có thể được đưa vào thị trường các quốc gia thành viên khi được họ cho phép; mặt khác cũng không thể duy trì được lâu trên thị trường các tác phẩm nước ngoài với giá thấp hơn giá nội địa bởi những đòi hỏi của việc ủy quyền phân phối tác phẩm không cho phép như vậy. Đây có thể được xem như là một yếu tố quan trọng đối với việc khuyến khích sáng tạo và phát triển cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp quyền tác giả trong nền kinh tế thị trường của các quốc gia thành viên.  Xét về lợi ích kinh tế vĩ mô, không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế hay xã hội của một quốc gia, một khi đã gia nhập Công ước Berne thì quốc gia đó trở thành một bộ phận của hệ thống bảo hộ quốc tế về quyền tác giả đối với các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong hệ thống thương mại quốc tế. Đây là một điều hết sức quan trọng đối với quá trình giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin, công nghệ và các sản phẩm công nghiệp giải trí. Hơn thế nữa, các chuẩn mực thực chất của Công ước Berne được ghi nhận trong Hiệp định TRIPS với tư cách là những chuẩn mực cần thiết tối thiểu cho việc bảo hộ tài sản trí tuệ sẽ đóng một vai trò thiết yếu để các quốc gia có thể đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng thông qua việc trao đổi hàng hóa dịch vụ với nước ngoài. Những cam kết quan trọng do hội viên của Liên hiệp Berne đưa ra về việc sẽ áp dụng những biện pháp chính trị cần thiết để bảo hộ quyền và lợi ích của tác giả nước ngoài cũng có thể là những điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự thành công của hợp tác quốc tế, kể cả việc thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế khác ngoài lĩnh vực sở hữu trí tuệ.  3. Những đòi hỏi gia nhập Công ước Berne đối với Việt Nam:  Xuất phát từ những nguyên nhân lịch sử, trong một thời gian dài, các tác phẩm do tác giả Việt Nam sáng tạo không được xem xét đúng mức như những tài sản thuộc sở hữu trí tuệ. Đúng ra mà nói thì trong thời gian đó, tác giả rất ít được quan tâm đến những lợi ích tinh thần và kinh tế. Ngược lại, bản thân tác giả cũng không có những đòi hỏi gì hơn là làm sao cốt để các tác phẩm của họ được công bố, phổ biến trước công chúng càng nhiều càng tốt. Sáng tác của tác giả càng được phổ biến rộng rãi, càng được nhiều người sử dụng thì đó chính là phần thưởng cao quý dành cho họ. Cái chung đặt trên cái riêng là hiện tượng bao trùm suốt một thời của chế độ tập trung bao cấp trước đây và cũng đã được thể hiện tương đối rõ ràng trên phương diện pháp lý về bảo hộ quyền tác gỉa trong thời gian đó. Khái niệm về quyền tác giả lúc bấy giờ chỉ bó hẹp trong phạm vi nhuận bút; người sáng tạo ra tác phẩm không biết mình có quyền và nghĩa vụ gì, còn các tổ chức sử dụng tác phẩm phần đông lại dành cho mình toàn quyền sử dụng tác phẩm mà không cần để ý đến quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả. Suy cho cùng, đấy chính là hậu quả của sự thiếu hụt trong nhận thức về sở hữu trí tuệ được biểu hiện thông qua nội dung các quy định pháp luật về quyền tác giả từng tồn tại trong suốt 41 năm kể từ khi thành lập Nhà nước Dân chủ Nhân dân cho tới ngày 14 tháng 11 năm 1986, tức là ngày Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 142/HĐBT quy định về quyền tác giả, mở đầu cho quá trình đổi mới tư duy về quyền tác giả ở nước ta. Mười năm sau đó, Pháp lệnh quyền tác giả được ban hành để rồi lại bị hủy bỏ bởi sự ra đời của Bộ luật dân sự, trong đó dành hẳn một chương của Phần VI cho các quy định về quyền tác giả.  Có thể thấy chỉ trong vòng 10 năm sau khi Đảng và Nhà nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, chế định pháp lý về quyền tác giả liên tiếp được củng cố và hoàn thiện. So sánh với những quy định của các nước trong khu vực thì chế độ pháp lý về quyền tác giả của Việt Nam cũng có thể đạt được trình độ tương ứng. Tuy vậy, khách quan mà nói thì chuẩn mực bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam cũng mới chỉ dừng lại ở trình độ của những nước châu Âu cuối thế kỷ 19, tức là mới chỉ bảo hộ về mặt pháp lý đối với các tác phẩm của các tác giả tại Việt Nam, còn vẫn "mở cửa" để các tác phẩm của nước ngoài được "tự do" đưa vào sử dụng ở Việt Nam, cũng như tác phẩm của tác giả Việt Nam được "tự do" đưa ra và sử dụng ở nước ngoài mà không cần xin phép và trả tiền. Theo cách suy diễn thông thường thì quan hệ hiện hữu giữa Việt Nam và nước ngoài về bảo hộ quyền tác giả đang ở thế cân bằng, thế nhưng nếu xét dưới giác độ kinh tế, thì những lợi ích mà Việt Nam được hưởng do việc sử dụng không trả tiền tác phẩm nước ngoài cao gấp nhiều lần so với Việt Nam bị mất, bởi vì các tác phẩm của Việt Nam dường như rất ít khi bị người nước ngoài đánh cắp bản quyền. Chỉ tính riêng trên lĩnh vực phần mềm máy tính, đã có tới 98 đến 99% chương trình phần mềm của Mỹ hiện đang sử dụng ở Việt Nam đã bị sao chép và sử dụng mà không xin phép, không trả tiền. Do vậy, đối với Mỹ, vấn đề đầu tiên được đặt ra trong tiến trình bình thường hóa quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam là hai nước cần phải thiết lập quan hệ quyền tác giả thông qua việc ký kết một Hiệp định song phương. Mỹ chỉ muốn làm ăn lâu dài với Việt Nam trên cơ sở quyền tác giả của người Mỹ được bảo đảm tại Việt Nam. Mặc dù biết rằng việc thiết lập quan hệ quyền tác giả với Mỹ thì Việt Nam sẽ bị mất nhiều lợi ích kinh tế do việc tự do sử dụng tác phẩm của họ, nhưng xuất phát từ lợi ích lâu dài của quốc gia, vào ngày 27/6/1997, trên cơ sở đề nghị của phía Mỹ, Chính phủ Việt Nam đã chấp thuận cùng Chính phủ Mỹ ký Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả. Ngày 23/12/1998, thông qua việc trao đổi công hàm tại Washington, hai bên tuyên bố Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Hiệp định quyền tác giả Việt - Mỹ đã mở ra một bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một giải pháp cụ thể xuất phát từ quan hệ song phương. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang phải chịu những sức ép nặng nề phát sinh từ các điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo những chuẩn mực quốc tế trên quy mô toàn cầu được đặt ra như một điều kiện không thể thiếu. Khách quan mà nói thì việc tham gia Công ước Berne là một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.  Thực trạng bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy, quyền tác giả nói chung và đặc biệt là tác giả nước ngoài bị xâm phạm ở mức độ cao. Xuất phát từ đặc thù của Việt Nam là Nhà nước độc quyền về in ấn, xuất bản, phát thanh và truyền hình..., vì vậy, có hiện tượng các cơ quan, tổ chức kinh doanh Nhà nước có thẩm quyền trên lĩnh vực này xâm phạm quyền tác giả của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, sao chép và phổ biến các bản sao tác phẩm nước ngoài để sử dụng trong nước. Tiếp đó, một số cá nhân, tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm tư nhân lại tiến hành nhân bản những bản sao của các cơ quan, tổ chức kinh doanh nói trên để bán hoặc sử dụng chúng vào mục đích thương mại. Ngoài ra còn phải kể đến tình trạng nhiều tác phẩm nước ngoài được nhập lậu vào Việt Nam để rồi lại được các cá nhân, tổ chức kinh doanh tư nhân nhân bản và phổ biến trên quy mô thương mại với giá rất thấp, cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm của Nhà nước và lấn át các tác phẩm của tác giả trong nước.  Như trên đã nêu, việc tự do sử dụng các tác phẩm nước ngoài ở Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho Việt Nam là một điều không thể phủ nhận được. Xét về khía cạnh kinh tế thì việc sử dụng không xin phép và không trả tiền tác giả đã tạo ra nhiều lợi nhuận cho những tổ chức, cá nhân sản xuất và kinh doanh văn hóa phẩm, bởi các đối tượng này giảm được rất nhiều chi phí đầu vào. Còn xét về khía cạnh văn hóa nghệ thuật và khoa học - công nghệ thì việc tự do khai thác các tác phẩm nước ngoài cũng đã góp phần đa dạng hóa các loại hình văn hóa phẩm, kể cả về hình thức lẫn nội dung, nâng cao đời sống tinh thần trong nhân dân. Do giá bán các tác phẩm nước ngoài được sao chép ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các bản sao chính thức của nước ngoài, nhiều người dân bình thường vẫn có thể mua được để nghiên cứu và thưởng thức. Phải thừa nhận rằng trong thời gian qua, nếu không có hiện tượng vi phạm quyền tác giả nước ngoài một cách "tích cực", thì trình độ dân trí khó có thể đạt được như hiện nay.  Chính xuất phát từ những mối lợi cụ thể do việc tự do sử dụng tác phẩm nước ngoài mang lại mà về mặt nhận thức, hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau trong việc xem xét vấn đề Việt Nam có nên ký kết hay tham gia các điều ước quốc tế song phương và đa phương về bảo hộ quyền tác giả hay không. Nhiều người chưa muốn Việt Nam ký kết hoặc tham gia bất kỳ một điều ước quốc tế nào về lĩnh vực quyền tác giả. Lý giải về vấn đề này, những người đó cho rằng bất kỳ một điều ước quốc tế nào về bảo hộ quyền tác giả mà Việt Nam ký kết hay gia nhập cũng đều làm cho Việt Nam bị thiệt hại cả về kinh tế lẫn văn hóa, và khoa học, công nghệ. Họ còn khuyến nghị là Việt Nam nên học tập một số nước ở châu A' như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan trong những năm 70, 80, cần tiếp tục duy trì chế độ pháp lý hiện trạng để tranh thủ khai thác không mất tiền "chất xám" của nước ngoài nhằm phát triển quốc gia.  Bên cạnh đó cũng có nhiều người, trong đó có cả các quan chức của Nhà nước, giới nghệ sĩ sáng tác văn học, nghệ thuật và đông đảo các tầng lớp nhân dân, mặc dù vẫn thừa nhận những điều lợi kể trên, nhưng lại không ủng hộ ý kiến tiếp tục duy trì tình trạng quyền tác giả như hiện nay. Những người này đều cho rằng, đã đến lúc Việt Nam không nên tiếp tục đi ngược lại xu thế phát triển quốc tế ; Việt Nam không thể phát triển mà không có sự liên hệ gắn bó với cộng đồng quốc tế. Giờ đây, những lợi ích do việc sử dụng một cách tự do quyền tác giả đưa lại chỉ mang tính tạm thời, dựa trên lối chơi bất bình đẳng, xa lạ với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Hơn nữa, lối chơi này không phải không gây ra những hậu quả xấu đối với Việt Nam. Điều trước tiên cần phải kể đến là việc tự do sử dụng tác phẩm của nước ngoài sẽ tạo thành một thói quen xấu trên quy mô toàn xã hội : thói quen không tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu của người khác, trái với những nguyên tắc pháp lý cơ bản, với đạo đức và lối sống truyền thống của Việt Nam từ xưa đến nay. Có thể nói, đây chính là mối hiểm họa to lớn đang hàng ngày hàng giờ ngăn cản Việt Nam trên bước đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong thế kỷ 21. Thứ hai, vì người sử dụng tác phẩm nước ngoài để kinh doanh không phải xin phép và trả tiền cho tác giả, nên họ có thể đơn thuần chỉ chạy theo lợi nhuận mà không lựa chọn tác phẩm cho phù hợp với điều kiện, lối sống, phong tục tập quán của Việt Nam, thậm chí còn góp phần tuyên truyền những loại văn hóa phẩm thiếu lành mạnh hoặc làm phương hại đến lợi ích quốc gia. Hơn nữa, họ không chịu ràng buộc với các điều kiện bảo đảm uy tín cho tác giả nên có thể đưa ra những bảo sao kém chất lượng, gây thiệt hại cho tác giả và cho người tiêu dùng. Việc sử dụng tràn lan các tác phẩm nước ngoài ở Việt Nam đang dẫn đến nguy cơ làm hạn chế, thậm chí có thể làm thui chột hoạt động sáng tạo ở Việt Nam ; tạo cơ hội cho việc hình thành thói xấu sính ngoại, coi thường hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và khoa học của người Việt Nam.  Qua những phân tích trên đây, có thể thấy vấn đề gia nhập Công ước Berne mặc dù có thể tạo ra những khó khăn trước mắt về kinh tế cho Việt Nam, nhưng đó lại là một yêu cầu quan trọng góp phần thúc đẩy vấn đề thực thi bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam ; đẩy mạnh hoạt động sáng tạo của người dân Việt Nam nhằm phát huy nội lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước nhà ; tạo điều kiện cho những người sáng tác phổ biến các tác phẩm của Việt Nam ở nhiều nước trên thế giới. Từ đó, nâng cao thêm mức thu nhập của họ như là một yếu tố kích thích vật chất cần thiết, tiếp tục thúc đẩy phát triển năng lực sáng tạo trong cơ chế thị trường xuyên quốc gia về sở hữu trí tuệ.  Qua hàng loạt chủ trương, chính sách và các biện pháp quản lý Nhà nước được triển khai trong một vài năm gần đây đã cho thấy, xu thế ủng hộ việc tham gia Công ước Berne ở Việt Nam đang ngày một gia tăng. Trước tiên là việc Việt Nam và Mỹ ký kết Hiệp định về quyền tác giả. Đây có thể được coi là một bước đột phá về mặt nhận thức của Nhà nước ta trên lĩnh vực này, mở ra một giai đoạn mới trong tiến trình hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền tác giả vốn được coi là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu tài sản trí tuệ, loại tài sản vô hình đang ngày càng chiếm tỷ lệ áp đảo trong giá trị của hàng hóa. Tiếp đến là việc Bộ Văn hóa Thông tin, thực hiện chủ trương của Thủ tướng Chính phủ trong năm 1998, đã nghiên cứu, đề xuất vấn đề gia nhập Công ước Berne trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định. Thực tế cho thấy, các cơ quan Nhà nước quan trọng liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Hải quan... đã hoàn toàn tán thành chủ trương gia nhập Công ước Berne. Điều này chứng tỏ thực sự đã có những chuyển biến quyết định về mặt nhận thức, tư tưởng ở cấp độ Chính phủ đối với vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong bối cảnh hội nhập quốc tế hướng tới thế kỷ 21. Bên cạnh đó, qua các cuộc hội thảo về vấn đề bảo hộ quyền tác giả do Bộ Văn hóa Thông tin tổ chức đã cho thấy, nhiều lãnh đạo, cán bộ và nhân viên làm việc trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh văn hóa phẩm cũng đã lên tiếng ủng hộ chủ trương tham gia Công ước Berne của Việt Nam vì lợi ích lâu dài và tương lai bền vững của Việt Nam, cũng như bày tỏ quyết tâm sẵn sàng đối phó với những khó khăn sẽ nảy sinh khi Việt Nam gia nhập Công ước này.  Để chuẩn bị cho việc tham gia Công ước Berne, Bộ Văn hóa - Thông tin đang xây dựng và đệ trình lên Chính phủ một kế hoạch sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về quyền tác giả cho phù hợp với thực tiễn để thi hành Công ước một cách có hiệu quả. Dự thảo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay cũng đã có những sửa đổi thích ứng, tách tội xâm phạm quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế trong Bộ luật hiện hành thành các tội riêng biệt với nhứng tội danh cụ thể, tương ứng với những hình phạt khác nhau, kể cả phạt tù, nhằm ngăn ngừa tình trạng vi phạm quyền tác giả ở mức độ cao như hiện nay. Đồng thời, Bộ Văn hóa Thông tin cũng đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực văn hóa, trong đó có cả những hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả nhằm tăng cường thêm một bước công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này.  Mặt khác, các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng đang tiến hành kế hoạch sắp xếp lại những cơ sở sản xuất, kinh doanh văn hóa phẩm quốc doanh và tư nhân để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động và bảo đảm kiểm soát chặt chẽ hơn tình hình tuân thủ pháp luật về quyền tác giả của các cơ sở đó. Thực hiện Chỉ thị 04 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cùng phối hợp với các cơ quan chức năng cũng sẽ tiến hành tổ chức các lớp tập huấn về quyền tác giả cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ của tòa án nhân dân các cấp, nhằm nâng cao năng lực xét xử các vụ án xâm phạm quyền tác giả có nhân tố nước ngoài.  Một điều cần nhấn mạnh là, việc tham gia Công ước Berne không thể giải quyết được ngay một lúc tất cả các vấn đề về bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam, mà mới chỉ là một bước đi thích hợp ban đầu trong tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa nước nhà vào thế kỷ 21. Mọi vấn đề dường như đã được đặt ra và đang ở tư thế sẵn sàng khởi động một khi Chính phủ quyết định thông qua Tờ trình của Bộ Văn hóa Thông tin về việc tham gia Công ước Berne vào đầu năm 1999./ CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Một số điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ có thể kể đến: Hiệp định TRIPS; hiệp ước về luật nhãn hiệu (TLT); hiệp ước về chứng nhận phát minh, sáng chế (PLT); hiệp ước về hợp tác bằng phát minh, sáng chế (PCT); nghị định thư MANRID về hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá quốc tế; hiệp ước BUDAPEST...... Việc bảo hộ chặt chẽ quyền sở hữu trí tuệ (IPR) trên thế giới có ý nghĩa sống còn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả mọi quốc gia trong tương lai. Vì các điều ước quốc tế về IPR tạo ra cơ sở pháp lý và quy định chung nên những văn bản này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ chặt chẽ sở hữu trí tuệ, và nhờ vậy sẽ thúc đẩy việc mở rộng kinh tế toàn cầu và phát triển những công nghệ mới. Tuy nhiên, mãi đến khi vòng đàm phán Uruguay của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) sáng lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và ký kết Hiệp định thương mại về Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS) năm 1994 thì cộng đồng quốc tế mới có một nguồn thống nhất về các chuẩn mực và nghĩa vụ vể quyền sở hữu trí tuệ. Tầm quan trọng của Hiệp định TRIPS được thể hiện ở ba điểm: 1. Đây là hiệp định duy nhất đầu tiên thực sự mang tính quốc tế đã đưa ra các chuẩn mực tối thiểu về bảo hộ nhiều hình thức của sở hữu trí tuệ;2. Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ có những quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự, hình sự và bảo vệ biên giới; và 3. Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, TRIPS đặt nền tảng cho một hạ tầng cơ sở vững chắc và hiện đại trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ cho cộng đồng quốc tế. 1.TRIPS Hiệp định TRIPS có hiệu lực vào năm 1995 trong khuôn khổ Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. TRIPS đã tổng hợp và xây dựng trên cơ sở các hiệp định quan trọng và mới nhất về sở hữu trí tuệ do Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thực thi với Công ước Paris về Bảo hộ Tài sản Công nghiệp và Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật – những hiệp định có từ những năm 1880. Hiệp định TRIPS có vị thế độc nhất trong số các điều ước quốc tế về IPR bởi lẽ việc trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc tham gia “trọn gói” các hiệp ước. Nói cách khác, các quốc gia thành viên của WTO không được phép lựa chọn các hiệp ước mà phải tuân thủ tất cả các hiệp ước đa phương của WTO, bao gồm cả TRIPS. Hiệp định TRIPS áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế đối với các quốc gia thành viên về sở hữu trí tuệ, trong đó có quy chế đối xử quốc gia và quy chế tối huệ quốc. TRIPS cũng đề ra các chuẩn mực tối thiểu về mức độ, phạm vi và việc sử dụng bảy hình thức sở hữu trí tuệ - quyền tác giả, nhãn hiệu, xuất xứ địa lý, thiết kế công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, thiết kế bố trí mạch điện tử tích hợp và thông tin mật (bí mật thương mại). TRIPS cũng nêu cụ thể những hạn chế và ngoại lệ có thể chấp nhận nhằm hài hòa lợi ích sở hữu trí tuệ với lợi ích trong những lĩnh vực khác, chẳng hạn như sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế. (Toàn văn Hiệp định TRIPS cũng như phần giải thích các điều khoản của hiệp định có tại trang web của WTO Theo Hiệp định TRIPS, các nước phát triển hoàn toàn thực thi hiệp định này vào ngày 1/1/1996. Các quốc gia đang phát triển và những thành viên đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường được phép lùi ngày thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIPS đến 1/1/2000. Các nước kém phát triển được phép bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ của mình vào ngày 1/1/2006, và có khả năng được kéo dài thời kỳ chuyển giao nếu có yêu cầu. Các quốc gia đang phát triển chưa có quy định bảo hộ bằng phát minh sáng chế đối với một số lĩnh vực công nghệ nhất định tính đến thời điểm xin gia nhập thì được phép kéo dài thêm năm năm nữa, tức là đến ngày 1/1/2005, để ban hành quy định bảo hộ như vậy. Tại Hội nghị Bộ trưởng Thương mại của WTO tại Doha năm 2001, các quốc gia kém phát triển đã được gia hạn thêm 10 năm để thực thi các quy định về bảo hộ bằng phát minh sáng chế và “bí mật thương mại” trong khuôn khổ của TRIPS vì những quy định này có liên quan đến dược phẩm. Tuy nhiên, do Hiệp định TRIPS đã trải qua 10 năm nên không thể bao hàm được một số diễn biến mới, như các vấn đề về Internet và tác quyền kỹ thuật số, công nghệ sinh học tiên tiến, và quá trình nhất thể hóa những chuẩn mực toàn cầu về luật pháp hoặc thông lệ. Hiệp định này mới chỉ đặt nền tảng cho việc bảo hộ IPR ở mức tối thiểu chứ chưa phải tối đa. Kể từ khi ký kết Hiệp định TRIPS, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới đã giải quyết nhiều vấn đề tác quyền kỹ thuật số trong các hiệp định về Internet, cụ thể Hiệp định Quyền tác giả của WIPO (WCT) và Hiệp định về Biểu diễn và Ghi âm của WIPO (WPPT). Dưới đây là phần tóm lược một số hiệp định khác của WIPO bổ sung cho Hiệp định TRIPS, đề cập đến những phát triển công nghệ mới. 2.HIỆP ƯỚC VỀ LUẬT NHÃN HIỆU Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT), được thông qua ngày 27/10/1994, đã có hiệu lực ngày 1/8/1996. Tính đến ngày 1/7/2005, 33 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, đã tham gia hiệp định. TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra. TLT dành cho nhãn hiệu dịch vụ - dấu hiệu nhận biết đặc thù của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để phân biệt với hàng hóa - quy chế “bình đẳng” với nhãn hiệu. Trước đây, nhiều nước dành quy chế pháp lý khác nhau cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. TLT đã yêu cầu các quốc gia thành viên đăng ký nhãn hiệu dịch vụ và dành quy chế pháp lý tương tự như nhãn hiệu hàng hóa. Theo quan điểm của những người sở hữu nhãn hiệu, TLT đã tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho quá trình chuẩn bị và lập hồ sơ xin đăng ký. Hiệp định này đã đơn giản hóa quy trình gia hạn sau khi đăng ký, thu âm, đổi tên và địa chỉ và quyền hạn của người được ủy quyền. Các quốc gia tham gia TLT có nghĩa vụ cho phép đăng ký đa chủng loại, giúp chủ sở hữu nhãn hiệu xin đăng ký một lần cho nhiều chủng loại hàng hóa và dịch vụ. Một khía cạnh quan trọng khác của TLT cũng đem lại lợi ích cho chủ sở hữu nhãn hiệu là cấm các cơ quan cấp phép của các quốc gia thành viên yêu cầu xác thực các hồ sơ và chữ ký đối với các đơn thư xin đăng ký nhãn hiệu. Nhiều quốc gia yêu cầu bất kỳ chữ ký nào nộp kèm trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu cũng cần phải công chứng hoặc phải được hợp pháp hóa phù hợp với luật pháp của quốc gia đó. Theo quy định của TLT, trong hầu hết mọi trường hợp, không cần phải tuân thủ các thủ tục này nữa. Khía cạnh này cho phép người chủ sở hữu nhãn hiệu hoàn tất và nộp hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Một lợi thế nữa của TLT là việc hài hòa thời hạn đăng kí nhãn hiệu ban đầu và gia hạn giữa các quốc gia thành viên: TLT quy định thời hạn đăng ký ban đầu là 10 năm, và có thêm 10 năm gia hạn. Các đặc điểm chính khác của TLT còn bao gồm việc giới thiệu hệ thống ứng dụng đăng ký mục đích sử dụng (có bằng chứng chứng tỏ các nhãn hiệu này đã sử dụng trước khi đăng ký); hợp lý hóa thủ tục gia hạn; giảm thiểu những yêu cầu hoàn tất ngày nộp đơn đăng ký và đơn giản hóa thủ tục thay đổi tên và sở hữu hồ sơ và đăng ký nhãn hiệu. Nói tóm lại, TLT nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại quốc tế: Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ đang tìm kiếm thị trường ở các quốc gia khác. Hiện tại, Ủy ban Thường trực về Nhãn hiệu, Thiết kế công nghiệp và Ký hiệu địa lý WIPO (SCT) đang đàm phán các đề xuất sửa đổi TLT. Ủy ban này kiến nghị Đại hội đồng WIPO tổ chức một hội nghị ngoại giao từ ngày 13-31/3/2006 để xem xét việc thông qua TLT sửa đổi. 3. HIỆP ƯỚC VỀ LUẬT CHỨNG NHẬN PHÁT MINH, SÁNG CHẾ Hiệp ước về Luật Chứng nhận Phát minh, Sáng chế (PLT) do WIPO thông qua vào tháng 6 năm 2000 đã có hiệu lực ngày 28/4/2005. PLT là kết quả của nhiều năm tiến hành đàm phán đa phương về hài hòa hệ thống chứng nhận phát minh sáng chế trên thế giới. PLT đã hài hòa một số thủ tục đăng ký bằng phát minh sáng chế nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ những thủ tục và nguy cơ bị mất quyền sở hữu. PLT không hài hòa nội dung luật chứng nhận phát minh, sáng chế - tức là luật của mỗi quốc gia quy định các điều kiện bắt buộc để có thể nhận được bằng phát minh, sáng chế ở quốc gia đó. Tuy nhiên, WIPO đang tiến hành thương thảo nhằm hài hòa nội dung luật chứng nhận phát minh, sáng chế. PLT tạo điều kiện cho những người nộp đơn đăng ký bằng phát minh và chủ sở hữu bằng phát minh được cấp và duy trì bằng phát minh, sáng chế khắp nơi trên thế giới thông qua việc đơn giản hóa và – ở một mức độ rộng rãi – hợp nhất các yêu cầu của quốc gia và quốc tế gắn liền với việc đăng ký và cấp bằng phát minh sáng chế. PLT: * đơn giản hóa và giảm thiểu các yêu cầu đăng ký cấp bằng phát minh, sáng chế để hẹn ngày lập hồ sơ; * giới hạn những yêu cầu về mặt hình thức mà các bên ký kết có thể đưa ra; * nới lỏng những yêu cầu về mặt trình bày đối với nhiều vấn đề mang tính hình thức; * nới lỏng những giới hạn về thời gian mà Văn phòng Tác quyền của một quốc gia có thể đưa ra và phục hồi quyền khi một người xin đăng ký hoặc sở hữu đã không tuân thủ quy định về giới hạn thời gian và việc không tuân thủ đó đã có hậu quả trực tiếp là gây ra mất các quyền lợi; và * quy định việc hiệu chỉnh hoặc bổ sung các yêu cầu ưu tiên và phục hồi quyền ưu tiên. 4. HỆ THỐNG HIỆP ƯỚC HỢP TÁC VỀ BẰNG PHÁT MINH SÁNG CHẾ Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế (PCT) đã bắt đầu manh nha từ năm 1966 khi Ban Điều hành Công ước Paris về Bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ kêu gọi nghiên cứu tìm cách giảm bớt những gánh nặng có liên quan tới việc lập hồ sơ và được cấp bằng cho cùng một phát minh sáng chế ở các quốc gia khác nhau đối với những người đăng ký và cơ quan cấp bằng phát minh sáng chế. Kết quả là Hiệp định PTC của WIPO đã được ký kết tại Washington, D.C. năm 1970 và có hiệu lực năm 1978. Hiệp định đã được sửa đổi năm 1979, 1984, 2001 và 2004. Tính đến ngày 15/9/2005 đã có 128 bên tham gia ký kết PCT. Nhờ đơn giản hóa quá trình lập hồ sơ đăng ký bằng phát minh sáng chế nên PCT đã giúp những nhà phát minh được bảo hộ bằng phát minh của họ trên toàn thế giới. Hiệp định này cũng khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân tìm cách bảo hộ bằng phát minh sáng chế của họ ở nước ngoài. Theo hiệp định này, các công dân của một quốc gia tham gia ký kết chỉ cần lập một hồ sơ đăng ký cấp bằng phát minh duy nhất - thường được gọi là hồ sơ “quốc tế” – và gửi tới Cơ quan cấp bằng phát minh của nước họ hoặc tới WIPO với tư cách là cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Như vậy, đơn xin cấp bằng phát minh sáng chế của họ sẽ tự động được gửi tới tất cả 127 quốc gia tham gia PCT. Hiệp định cho phép những người nộp đơn có thời gian dài hơn – 30 tháng – để cam kết trang trải mọi chi phí dịch thuật, lệ phí hồ sơ trong nước và thực thi ở tất cả mọi quốc gia nơi họ muốn được bảo hộ. Nhờ cho phép người nộp đơn có nhiều thời gian và thông tin hơn để đánh giá thế mạnh trong bằng phát minh sáng chế tương lai của họ và quyết định kế hoạch tiếp thị của mình, thời hạn 30 tháng giúp các ứng viên lựa chọn tốt hơn những quốc gia nơi họ muốn nộp hồ sơ. Đây là một bước tiến quan trọng so với thời hạn ưu tiên 12 tháng đã được quy định trong Công ước Paris đối với những người nộp đơn xin cấp bằng phát minh sáng chế. Trong khuôn khổ PCT, WIPO đã ấn hành “áp dụng tính quốc tế” cùng với hướng dẫn về việc công nhận phát minh sáng chế. Việc hướng dẫn như vậy có nghĩa là tiến hành nghiên cứu sơ bộ và/hoặc kiểm tra thông qua một “cơ quan quốc tế” - một trong 11 cơ quan cấp bằng phát minh sáng chế hiện đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về nhân lực và các yêu cầu xử lý hồ sơ khác được WIPO ủy quyền. Việc chỉ dẫn như vậy giúp người nộp đơn quyết định xem có nên tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp bằng phát minh, sáng chế tới các cơ quan cấp bằng phát minh, sáng chế ở trong nước hay trong khu vực hay không. Các cơ quan cấp bằng phát minh cũng được hưởng lợi từ quá trình chỉ dẫn này khi quyết định có nên cấp bằng phát minh sáng chế quốc gia hay khu vực dựa theo hồ sơ đăng ký trong khuôn khổ của PCT hay không. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã xác định những văn bản liên quan cần thiết giúp các cơ quan cấp bằng phát minh, sáng chế đảm bảo nguồn lực trong quá trình điều tra và nâng cao chất lượng kiểm tra của họ. 5. NGHỊ ĐỊNH THƯ MADRID VỀ HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ CÁC NHÃN HIỆU QUỐC TẾ Nghị định thư liên quan tới Hiệp định Madrid về đăng ký các nhãn hiệu quốc tế - Nghị định thư Madrid - đã được thông qua tại thủ đô Tây Ban Nha ngày 27/6/1989, và có hiệu lực ngày 1/12/1995. Nghị định thư này là một trong hai hiệp định tạo nên hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế Madrid. Hiệp định đầu tiên - Hiệp định Madrid 1891 - đã quy định đăng ký nhãn hiệu ở một số quốc gia thông qua việc đăng ký nhãn hiệu quốc tế với WIPO tại Geneva. Nghị định thư Madrid đã ra đời vì một số quốc gia gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện Hiệp định Madrid. Điều đó được coi là cải thiện hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế. Do đó, ngày càng nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu đang sử dụng Nghị định thư Madrid mỗi năm để bảo hộ nhãn hiệu của họ ở nước ngoài. Tính đến ngày 15/9/2005, đã có 66 quốc gia ký kết Nghị định thư Madrid. Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không phải là hiệp định điều chỉnh về mặt nội dung. Nghị định thư giúp những người sở hữu nhãn hiệu - các cá nhân và doanh nghiệp - bảo vệ được nhãn hiệu của họ một cách hiệu quả cùng một lúc ở nhiều quốc gia thông qua việc lập hồ sơ xin cấp bằng phát minh sáng chế tới một cơ quan duy nhất với một ngôn ngữ, một khoản chi phí và một loại tiền tệ. Hơn nữa, không cần phải lập hồ sơ qua trung gian. Đơn xin cấp bằng phát minh, sáng chế có thể được lập bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc Tây Ban Nha. Việc nộp hồ sơ đăng ký mang tính quốc tế cũng có hiệu quả tương tự như hồ sơ đăng ký nhãn hiệu ở trong nước như đã được người nộp hồ sơ lựa chọn. Khi cơ quan bảo hộ nhãn hiệu ở một quốc gia được lựa chọn đồng ý bảo hộ thì nhãn hiệu đó sẽ được bảo hộ trong toàn hệ thống tương tự như cơ quan này đã đăng ký. Nghị định thư Madrid cũng đơn giản hóa việc quản lý nhãn hiệu bởi lẽ một thủ tục đơn giản sẽ giúp Cục Quốc tế của WIPO cập nhật được những thay đổi sau này về sở hữu, hoặc tên, hoặc địa chỉ của người sở hữu nhãn hiệu. Trước khi nghị định thư được ban hành, các yêu cầu hành chính phức tạp đối với việc chuyển giao tài sản bình thường của doanh nghiệp đã gây khó khăn cho những người sở hữu thực hiện việc chuyển nhượng hợp pháp các nhãn hiệu của họ trên thế giới. Nghị định thư đã cho phép người sở hữu đăng ký trên phạm vi quốc tế chỉ bằng một hồ sơ duy nhất, trả tiền một lần trước khi chuyển nhượng một nhãn hiệu ở tất cả mọi quốc gia tham gia ký kết. Việc gia hạn đăng ký cũng chỉ có duy nhất một thủ tục đơn giản. Việc đăng ký trên phạm vi quốc tế có thời hạn 10 năm và thời gian gia hạn mới là 10 năm. Những người sở hữu nhãn hiệu có thể lựa chọn thêm một số quốc gia nữa nếu họ quyết định tìm cách bảo hộ ở nhiều quốc gia thành viên hơn hoặc nếu có thêm nhiều quốc gia mới gia nhập nghị định thư. Nếu việc đăng ký cơ bản - hoặc việc đăng ký làm cơ sở cho đăng ký quốc tế - bị hủy vì bất kỳ lý do gì trong năm năm đầu tiên thì công ước Madrid sẽ tạo điều kiện cho người đăng ký quốc tế chuyển việc đăng ký đó thành một loạt các hồ sơ đăng ký ở các quốc gia tham gia ký kết như đã lựa chọn. Các đơn đăng ký này sẽ giữ nguyên ngày ưu tiên như đã nêu trong hồ sơ đăng ký quốc tế ban đầu ở mỗi nước. Người sở hữu cũng bảo lưu quyền ở mỗi quốc gia thành viên, ngay cả khi không thực hiện được đăng ký quốc tế. 6. HỆ THỐNG KÝ GỬI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP QUỐC TẾ LA HAY Hệ thống La Hay là hệ thống đăng ký quốc tế, cho phép chủ sở hữu bảo hộ các thiết kế công nghiệp của họ với thủ tục và chi phí thấp nhất. Chỉ cần một hồ sơ đăng ký quốc tế được nộp cho Cục Quốc tế của WIPO đã có thể thay thế một loạt các hồ sơ trước đây ở một số quốc gia và/hoặc các tổ chức liên chính phủ tham gia hệ thống La Hay. Việc quản lý đăng ký quốc tế cũng trở nên dễ dàng hơn trong hệ thống này. Ví dụ, chỉ cần một thủ tục là có thể thay đổi tên hoặc địa chỉ của chủ sở hữu, hoặc thay đổi sở hữu đối với một số hoặc tất cả các bên tham gia ký kết đã được lựa chọn. Tính đến ngày 26/4/2005, Hệ thống La Hay đã có 42 bên tham gia ký kết. 7. HIỆP ƯỚC BUDAPEST VỀ CÔNG NHẬN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI KÝ GỬI VI SINH VẬT NHẰM HOÀN TẤT THỦ TỤC BẰNG PHÁT MINH SÁNG CHẾ Hiệp định Budapest về công nhận quốc tế đối với việc ký gửi vi sinh vật nhằm hoàn tất thủ tục bằng phát minh sáng chế đã được ký kết ngày 28/4/1977 và được sửa đổi ngày 26/9/1980. Hiệp định Budapest loại bỏ việc ký gửi vi sinh vật ở mỗi quốc gia nơi người ta đăng ký bảo hộ bằng phát minh sáng chế. Theo hiệp định này, việc ký gửi một vi sinh vật tại “một cơ quan ký gửi trên phạm vi thế giới” đáp ứng các yêu cầu về ký gửi trong luật về bằng phát minh sáng chế của tất cả các thành viên tham gia hiệp định. “Cơ quan ký gửi trên phạm vi thế giới” có khả năng lưu giữ vật liệu sinh học và đã đề ra các thủ tục đảm bảo việc tuân thủ Hiệp định Budapest. Những thủ tục như vậy bao gồm các yêu cầu giữ nguyên phần ký gửi trong suốt thời gian có hiệu lực của bằng phát minh sáng chế, và các mẫu phẩm sẽ chỉ được chuyển đến những người hoặc chủ thể được phép tiếp nhận. Việc thành lập một “cơ quan ký gửi trên phạm vi thế giới” đem lại nhiều thuận lợi cho cả người nộp đơn đăng ký bằng phát minh lẫn quốc gia tham gia ký kết. Những người nộp đơn đăng ký được hưởng lợi vì yêu cầu ký gửi ở nhiều quốc gia nơi họ tìm kiếm sự bảo hộ đã giảm đi rất nhiều. Vì việc ký gửi duy nhất ở bất kỳ “một cơ quan ký gửi trên phạm vi thế giới” nào cũng sẽ đảm bảo yêu cầu bảo mật ở tất cả mọi quốc gia thành viên nên chi phí mà người đăng ký bằng phát minh phải trả sẽ thấp hơn rất nhiều. Sử dụng một cơ quan duy nhất làm nơi ký gửi sẽ tăng cường độ an toàn của ký gửi và tạo cơ chế phân bổ ký gửi. Các quốc gia tham gia ký kết được hưởng lợi vì họ có thể dựa vào các tiêu chuẩn thống nhất của hiệp định để đảm bảo việc ký gửi hiệu quả. Họ không cần phải tự xây dựng một cơ quan ký gửi “được công nhận” để đáp ứng các yêu cầu bảo mật bằng phát minh sáng chế quốc gia. Tính đến tháng 5 năm 2005, đã có 60 cơ quan cấp bằng phát minh sáng chế tuân thủ các điều kiện của Hiệp định Budapest và có 35 “cơ quan ký gửi” ở 22 quốc gia khác nhau. 8. CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO HỘ CÁC GIỐNG CÂY MỚI Công ước quốc tế về bảo hộ các giống cây mới (UPOV) đã thiết lập một hệ thống tài sản trí tuệ đã được quốc tế công nhận nhằm bảo vệ các giống cây mới. Công ước UPOV khuyến khích và dành phần thưởng cho những người nhân giống cây mới một cách khéo léo và sáng tạo. Bất cứ ai đưa ra giống cây mới có thể kháng bệnh, kháng hạn, kháng rét hoặc đơn giản đẹp hơn về mặt thẩm mỹ cũng đều là một nhà phát minh tương tự như ai đó đã cải thiện máy móc của xe hơi hoặc tìm ra loại thuốc mới. Sự khác biệt duy nhất là những người nhân giống cây làm việc với những sinh thể chứ không phải các chất vô tri vô giác. Quá trình tạo ra một loại cây mới thường rất lâu và tốn kém. Tuy nhiên, việc tái tạo lại một giống cây đã có lại có thể nhanh và tương đối dễ dàng. Do đó, hệ thống bảo hộ tài sản trí tuệ hữu hiệu cần phải khuyến khích cho những đổi mới, sáng tạo bằng cách cho phép các nhà đầu tư hoàn vốn đầu tư và đồng thời truyền bá những kiến thức về phát minh đó cho những người khác để họ có thể hoàn thiện tốt hơn. Hệ thống UPOV đề ra ba nguyên tắc pháp lý cơ bản về bảo hộ nhằm khuyến khích những người nhân giống tăng cường óc sáng tạo của họ bằng cách trao cho họ độc quyền sở hữu phát minh về loại cây của họ trong khi vẫn khuyến khích tìm ra các loài cây mới.Trong khuôn khổ hệ thống UPOV thiết lập năm 1991 – một trong những hiệp định được ký kết gần đây nhất – những đặc quyền dành cho nhà phát minh (thường được gọi là “quyền của nhà gây giống ”) đòi hỏi một bên khác ngoài chủ sở hữu các đặc quyền đó được ủy quyền: * tạo ra hoặc tái tạo một sản phẩm đã được bảo hộ; * sử dụng sản phẩm đó để nhân rộng, và * bán hoặc tiếp thị, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc dự trữ sản phẩm đã được bảo hộ. Để hưởng độc quyền, người gây giống phải phát minh ra một loại cây mới hoàn toàn mới, đặc thù, thống nhất và ổn định. Tuy nhiên, theo Công ước UPOV, một người nhân giống cây nhìn chung không cần có ủy quyền từ những người nhân giống cây khác khi sử dụng các giống cây đã được bảo hộ để tiến hành các hoạt động không vì mục đích thương mại hoặc thí nghiệm nhằm tìm ra các loại cây mới. Công ước UPOV cũng cho phép mỗi quốc gia thành viên hạn chế độc quyền của người nhân giống đối với bất kỳ một loại cây nào có thể cho phép người nông dân sử dụng một phần thu hoạch của họ để trồng trên mảnh đất của họ sau này. Tuy nhiên, những hạn chế như vậy cần phải nằm trong giới hạn cho phép và cần phải bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người nhân giống. Các quốc gia thành viên tổ chức hội nghị của Hội đồng chấp hành – cơ quan thường trực của công ước - hai năm một lần. Các cơ quan khác của UPOV bao gồm Ủy ban Hiệp thương, Ủy ban Hành chính và Pháp luật, Ủy ban Kỹ thuật, gồm nhiều nhóm làm việc kỹ thuật (TWP) trong các lĩnh vực khác nhau của ngành nông nghiệp. TWP họp định kỳ để chia sẻ và thảo luận những nhận xét và tiến bộ đạt được trong các lĩnh vực của nông nghiệp. Điều này giúp họ chuẩn hóa các tiêu chuẩn kiểm tra ở các quốc gia thành viên. Các cuộc họp của TWP đem lại lợi ích cho những người nhân giống vì các tiêu chuẩn càng thống nhất thì càng tăng cường tính nhất quán trong quá trình lập hồ sơ đăng ký ở nhiều quốc gia khác nhau. Tính đến ngày 29/6/2005, đã có 59 quốc gia tham gia Công ước UPOV. Dự kiến trong vài năm tới sẽ có thêm nhiều quốc gia tham gia ký kết UPOV KẾT LUẬN: Trong kỷ nguyên thông tin, với tốc độ tiến bộ công nghệ ngày càng nhanh thì chỉ thực thi Hiệp định TRIPS không thôi vẫn chưa đủ tạo lập một hệ thống sở hữu trí tuệ vững chắc. Cho dù tới thời điểm này TRIPS là hiệp định đầu tiên quy định đầy đủ về quyền sở hữu trí tuệ nhưng hiệp định này cũng đã ra đời được một thập kỷ và hiện cho thấy đây là một hiệp định “ra đời đúng lúc cấp bách”. Những tiến bộ công nghệ trong ngành thông tin, sinh học và các ngành khác đòi hỏi chúng ta phải chỉnh sửa những bộ luật quốc tế và quốc gia về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Rất may là WIPO đã đi đầu trong việc đưa ra những chuẩn mực quốc tế mới nhằm đáp ứng những thách thức này. WIPO cũng đã nêu ra cách đơn giản hóa và hợp lý hóa những thủ tục tìm kiếm, giữ gìn và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ ở nhiều quốc gia. Thông qua “Dịch vụ Bảo hộ Toàn cầu” và các hiệp ước mang tính dung hòa, WIPO đã giúp các nhà sáng chế và các Cục Sở hữu trí tuệ Quốc gia tiết kiệm được rất nhiều thời gian và sức lực. WIPO cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cao cấp cho việc thiết lập và nâng cấp hệ thống IPR toàn cầu. Các quốc gia nên tham vấn cả WTO lẫn WIPO khi xây dựng hệ thống IPR của riêng mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docta768i liamp234803u chung.doc
Tài liệu liên quan