Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tìm ra
được điều kiện phân tích phù hợp để phân
tích đồng thời các sản phẩm của phản ứng
thủy phân γ-oryzanol, tối ưu hóa tỉ lệ
KOH/ γ-oryzanol (wt/wt) để thu được
hiệu suất cao (tỉ lệ 20/1, đối với nồng độ
đầu tương ứng của γ-oryzanol là 6
mg/ml). Hiệu suất của phản ứng bằng
phương pháp đồng dung môi đạt 83,2%
tại 75 C sau 3 giờ phản ứng; và nếu sử
dụng sự hỗ trợ của sóng siêu âm 20 kHz,
180 W, hiệu suất phản ứng đạt 93,3% chỉ
trong 2,5 giờ tại 60 C. Việc ứng dụng
sóng siêu âm trên quy mô lớn không phải
là điều dễ dàng, cần phải được cân đối
tính toán cụ thể giữa hiệu suất và lợi ích
kinh tế. Phương pháp đồng dung môi mà
chúng tôi đã nghiên cứu mang lại hướng
đi khả thi, không cần sử dụng sóng siêu
âm vẫn có thể đạt hiệu suất trên 80% đối
với phản ứng gia nhiệt tại 75 C. Nghiên9
cứu này đưa ra một cái nhìn khả thi về
việc sản xuất FA từ các sản phẩm phụ của
ngành công nghiệp có chứa γ-oryzanol,
đặc biệt là đối với ngành sản xuất dầu
cám gạo.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hủy phân gamma oryzanol bằng phương pháp đồng dung môi và phân tích đồng thời các sản phẩm của phản ứng bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp - Trương Thị Hoà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 22/ số 1 (Đặc biệt)/ 2017
THỦY PHÂN GAMMA ORYZANOL BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐỒNG DUNG MÔI
VÀ PHÂN TÍCH ĐỒNG THỜI CÁC SẢN PHẨM CỦA PHẢN ỨNG BẰNG
PHƯƠNG PHÁP SẮC KÝ LỎNG CAO ÁP
Đến tòa soạn: 05/12/2016
Trương Thị Hoà, Đỗ Văn Mạnh, Huỳnh Đức Long, Đỗ Tuấn Anh, Nguyễn Thị Linh
Trung tâm Công nghệ Môi trường tại Đà Nẵng, Viện Công nghệ Môi trường,
Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Vũ Đình Ngọ
Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì
SUMMARY
HYDROLYSIS GAMMA ORYZANOL BY CO-SOLVENT METHOD AND
SIMULTANEOUS DETERMINATION OF PRODUCTS BY HIGH-
PERFORMANCE LIQUID CHROMATOGRAPHY
In this study, we investigated the preparation of ferulic acid, one of potential antioxidants
which is widely used in the pharmaceutical industry, and cosmetics, from the hydrolysis of
gamma oryzanol (γ-oryzanol), compounds containing by-product of rice bran oil
processing. In alkaline solution using co-solvent, γ-oryzanol hydrolysis reaction has been
studied and examined in terms of the different rates of alkaline catalysts, temperature, and
ultrasonic (20 kHz). We investigated suitable analysis conditions to simultaneously
analyze the product of the γ-oryzanol hydrolysis reaction, optimized hydrolysis conditions
to obtain high efficiency. In heat treatment condition, with the intial concentration of γ-
oryzanol of 6 mg/mL, and KOH/ γ-oryzanol ratio is 20:1 (wt/wt), the reaction at 75 oC got
the efficiency of 83.3%. Meanwhile, at 60 oC using the ultrasonic assistance (20 kHz, 180
W), the efficiency was reached up to 93.3% in just 2.5 hours. The aim of this work is to
make a basic data for the ferulic acid production research process from soapstock, a by-
product that has high γ-oryzanol concentration.
Keywords: ferulic acid, γ-oryzanol, ultrasonic, hydrolysis reaction, co-solvent
1. MỞ ĐẦU
Acid ferulic (FA) là môṭ hơp̣ chất
phenolic phổ biến trong thành phần tế bào
thưc̣ vâṭ, là môṭ chất chống oxi hóa,
chống ung thư; ngoài ra nó còn có khả
năng hấp thu ̣ tia UV, giảm colesterol
trong máu. Ngày nay, FA đươc̣ sử duṇg
2
phổ biến trong ngành công nghiêp̣ my ̃
phẩm, làm chất phu ̣ gia thưc̣ phẩm và
ngày càng đươc̣ nghiên cứu ứng duṇg
rôṇg rãi trong liñh vưc̣ y tế.
FA có thể khóa phản ứng hình thành
nitrosamine, do đó ngăn ngừa nguy cơ
gây ung thư dạ dày [1]. Bên caṇh đó, FA
còn có khả năng ngăn ngừa các bêṇh về
tim mac̣h (cardiovascular disease), bêṇh
đái đường (diabetes), bêṇh Alzheimer,
chống ung thư đaị tràng (colon disease),
giảm cholesterol trong máu... [2-9].
Khi gốc tư ̣do tấn công acid ferulic, nó se ̃
dê ̃dàng lấy đi môṭ nguyên tử H và do đó
hình thành nên gốc tư ̣do bền của FA. Gốc
tư ̣do này đươc̣ làm bền do hiêụ ứng côṇg
hưởng, căp̣ electron chưa phân chia không
chỉ khu trú taị nguyên tử oxy mà nó đươc̣
phân bố đều trên toàn bô ̣phân tử. Ngoài
ra, gốc tư ̣ do này còn đươc̣ làm bền bởi
hiêụ ứng liên hơp̣ gây ra bởi nhóm thế –
CH=C–COOH ở vị trí đối xứng với
nguyên tử oxy chứa căp̣ electron. Gốc tư ̣
do bền của FA rất kém hoaṭ đôṇg và
không có khả năng khơi mào chuỗi phản
ứng khác [10], do đó FA là môṭ tác nhân
chống oxy hóa rất hiêụ quả.
FA là môṭ hơp̣ chất phenolic tồn taị phổ
biến trong thưc̣ phẩm, ví du ̣như các loaị
hoa quả cam quít, chuối, cà tím, cải bắp,
củ cải đường, bông cải xanh, cà phê
[10,11], cám ngô, cám gaọ, cây lanh (flax
shives), lúa mì (wheat) [12], rơm [13],
cây đương quy (Radix Angelicae sinensis)
[14], cây xuyên khung (ligusticum
chuanxiong) [3], . Trong các loaị haṭ
ngũ cốc, FA thường nằm trong các lớp
cám, bên cạnh đó, FA cũng xuất hiêṇ phổ
biến dưới daṇg các este, trong đó γ-
oryzanol là loaị đồng phân phổ biến nhất
[10].
Rất nhiều phương pháp khác nhau đươc̣
sử duṇg để điều chế FA, trong đó phương
pháp thủy phân trong môi trường kiềm
với sư ̣ hỗ trơ ̣ của sóng siêu âm hoăc̣ vi
sóng đươc̣ dùng khá phổ biến
[2,3,6,12,15]. Muc̣ đích của quá trình này
môṭ phần chính là để phá vỡ ma trâṇ hữu
cơ có chứa các lipit và acid béo tư ̣ do
trong các nguyên liêụ đầu vào (các loaị
thưc̣ vâṭ, ngũ cốc); măṭ khác chính là tâṇ
duṇg sư ̣ thủy phân của các hơp̣ chất
ferulat, este của FA có trong các nguyên
liêụ đầu vào để điều chế FA với hiêụ suất
cao. Bên caṇh đó, các nghiên cứu điều
chế FA từ các sản phẩm phu ̣ trong các
quy trình sản xuất công nghiêp̣ cũng đươc̣
quan tâm, điển hình là thu hồi FA và γ-
oryzanol từ quy trình sản xuất dầu cám
gaọ [17,18] được trình bày dưới dạng
patent. Tuy nhiên, bản chất và các yếu tố
ảnh hưởng của phản ứng thủy phân γ-
oryzanol trong sản phẩm phụ để tạo thành
FA thì chưa có nghiên cứu nào đề cập một
cách cụ thể. Trong khi đó, γ-oryzanol có
thể nói là một thành phần đặc biệt trong
cám gạo, mà hầu như ko tìm thấy trong
các loại ngũ cốc khác. Sự dồi dào của
nguồn cám gạo tại Việt Nam, cũng như sự
ra đời của nhà máy chế biến dầu cám gạo
tại Cần Thơ (Công ty TNHH Wilmar
Agro Việt Nam), với nguồn sản phẩm phụ
soapstock rất lớn và chưa được khai thác
triệt để. Theo các nghiên cứu trước [19],
3
96% γ-oryzanol trong cám gạo bị chuyển
hóa vào soapstock, dẫn đến sự mất mát
các hợp chất có giá trị trong dầu cám gạo.
Việc tận dụng và tối ưu hóa sản phẩm phụ
này là điều hết sức cần thiết, và có ý nghĩa
thiết thực đối với một đất nước xuất khẩu
gạo như Việt Nam.
Nhằm thực hiện mục tiêu đó, trong bài
báo này, chúng tôi trình bày phương pháp
thủy phân γ-oryzanol trong hệ đồng dung
môi, để thu được FA với hiệu suất cao,
đồng thời nghiên cứu phương pháp phân
tích định lượng các sản phẩm của phản
ứng thủy phân γ-oryzanol. Nghiên cứu
này sẽ làm tiền đề cho các nghiên cứu tiếp
theo về việc điều chế FA từ các sản phẩm
phụ có chứa γ-oryzanol, ví dụ như dầu
kiềm thải (soapstock) – một sản phẩm phụ
của ngành chế biến dầu cám gạo.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất
Chất chuẩn FA, γ-oryzanol, etyl ferulat (>
99%, Sigma Aldrich, Mỹ). Các dung môi
hữu cơ: etanol (EtOH), etyl acetat
(EtOAc), Etyl ete, aceton,
tetrahydrofuran, iso-propanol, n-hexan
đều là hàng chuẩn phân tích được mua từ
Merck, Đức. Các dung môi chuẩn HPLC
để chạy sắc ký lỏng bao gồm: Acetonitril,
MeOH, và H2O cũng được mua từ Merck,
Đức.
FA, γ-oryzanol và etyl ferulat được phân
tích bằng sắc ký lỏng cao áp pha đảo
HPLC Model GL-7480 (GL Science Inc.,
Tokyo, Nhật Bản), sử dụng detector PDA
(GL-7452, GL Science Inc., Tokyo, Nhật
Bản), bộ lấy mẫu tự động (GL-7420, GL
Science Inc., Tokyo, Nhật Bản), và sử
dụng cột Inertsil ODS-3 C18 (4.6 mm x
250 mm, film thickness 5 μm) (GL
Science, Tokyo, Nhật Bản).
2.2. Thiết bị
Thiết bị siêu âm được sử dụng là máy siêu
âm tần số 20 kHz, Branson Sonifier 450.
Công suất của máy siêu âm Kaijo được
cài đặt ở 50 W và 180 W. Nhiệt độ được
điều khiển thiết bị điều nhiệt SANSYO
SDT-04 P.
2.3. Phương pháp định lượng
Hai phương pháp phân tích được sử dụng
như sau:
Phương pháp A:
Phương pháp phân tích sử dụng chế độ
gradient với hai pha động là dung dịch
acid H3PO4 0,283% (pha A) có pH nằm
trong khoảng 3 - 4, và pha B là ACN. Chế
độ gradient như sau: giữ cho tỉ lệ pha B/A
là 25 : 75 tại thời điểm 0-10 phút, và
gradient tới 100 : 0 trong thời gian là 5
phút; giữ tiếp trong 20 phút, rồi tiếp tục
gradient về tỉ lệ 25 : 75 trong 5 phút; tốc
độ dòng là 0,8 ml/phút. Tổng thời gian
chạy mẫu là 40 phút.
Phương pháp B:
Phương pháp phân tích sử dụng chế độ
gradient với hai pha động là dung dịch
acid H3PO4 0,283% (pha A) có pH nằm
trong khoảng 3 - 4, và pha B là hỗn hợp
MeOH : ACN (1:1). Chế độ gradient như
sau: giữ cho tỉ lệ pha B/A là 30 : 70 tại
thời điểm 0 phút, và gradient tới 100 : 0
trong thời gian là 15 phút; giữ tiếp trong
25 phút, rồi tiếp tục gradient về tỉ lệ 70:30
4
trong 5 phút, 30 : 70 trong 5 phút và giữ
trong 5 phút; tốc độ dòng là 0,8 ml/phút.
Tổng thời gian chạy mẫu là 55 phút. Bước
sóng hấp thụ cực đại của cả ba chất FA,
etyl ferulat và γ-oryzanol đều được đặt tại
325 nm. Nồng độ của các chất được tính
dựa trên đường chuẩn tương ứng với hệ
(R2) đều đạt trên 0,999.
2.3. Phương pháp thực hiện phản ứng
thủy phân trong hệ đồng dung môi, kết
hợp sử dụng sóng siêu âm
Cách tạo hỗn hợp phản ứng với các tỉ lệ
kiềm/ γ-oryzanol khác nhau bằng cách
thay đổi nồng độ dung dịch KOH trong
các bình Erlenmeyer 250 ml có nắp văṇ
kín, sau đó đăṭ các bình phản ứng vào bể
điều nhiệt, cố điṇh bình và khuấy trong
khoảng thời gian 30, 60, 90, 120, 150, 180
phút, taị nhiêṭ đô ̣ từ 30 đến 75 ºC (nhiêṭ
đô ̣khảo sát phải thấp hơn nhiêṭ đô ̣sôi của
các dung môi). Sau mỗi 30 phút phản
ứng, 100 μl dung dic̣h phản ứng được lấy
ra, thêm 100 μl acid acetic đặc (để dừng
phản ứng thủy phân lại), 300 μl EtOH (để
hòa tan FA nếu tạo thành), sau đó phân
tích điṇh lươṇg γ-oryzanol và FA bằng
HPLC.
Để khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ đến
hiệu suất tạo FA, chúng tôi chọn tỉ lệ
kiềm/oryzanol cao nhất là 20:1 (wt/wt),
nồng độ oryzanol trong hỗn hợp phản ứng
là 6 mg/mL với các nhiệt độ khảo sát là:
30, 40, 50, 60, 75 ºC.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phương pháp phân tích và phổ UV-
VIS của các hợp chất tại bước sóng 325
nm
Trong quá trình thực hiện phản ứng thủy
phân, ethyl ferulat là một hợp chất trung
gian hình thành qua phản ứng trans-este
hóa (tranesterification). Mẫu sau khi xử
lý theo mục 2.3, được tiêm vào máy sắc
ký lỏng cao áp (10 µl), và áp dụng 02
phương pháp phân tích như trình bày tại
mục 2.2.
Đối với phương pháp phân tích A, FA,
etyl ferulat lần lượt xuất hiện với thời
gian lưu tương ứng là 2,5; 9,1 phút, trong
khi đó γ-oryzanol là một nhóm các ester
của FA xuất hiện là một nhóm các pic từ
27,5 đến 33 phút như Hình 1a. Trong khi
đó, đối với phương pháp phân tích B, FA,
ethyl ferulat lần lượt xuất hiện với thời
gian lưu chậm hơn là 9,2; 14,2 phút, và γ-
oryzanol xuất hiện rõ ràng với bốn pic với
độ phân tách rõ rệt từ 32 đến 45 phút như
Hình 1b.
Với phương pháp A, việc giữ cho tỉ lệ pha
B/A là 25 : 75 trong thời gian 10 phút
nhằm rửa giải FA và etyl ferulat ra khỏi
cột, sau đó gradient tới 100 : 0 để tăng
pha động lên tỉ lệ 100% ACN với mục
đích tiếp tục rửa giải γ-oryzanol, hợp chất
kém phân cực và có khối lượng phân tử
lớn hơn. Do γ-oryzanol là một nhóm các
chất-các este của FA, nên việc xây dựng
đường chuẩn hay tính toán hiệu suất đều
dựa trên việc tính tổng diện tích pic của
các chất. Tuy nhiên, nếu có thể tìm được
một phương pháp phân tích khác với pha
động và chế độ gradient khác nhằm tách
rõ ràng các chất trong γ-oryzanol thành
các pic riêng biệt, thì chúng ta có thể khảo
sát được quá trình thủy phân của từng este
5
trong hỗn hợp γ-oryzanol, trong điều kiện
chúng ta có đầy đủ các chất chuẩn riêng
biệt của các ester này. Trong một nghiên
cứu trước của tác giả [20] đã chỉ ra các
pic của oryzanol trong sắc ký lỏng pha
đảo với điều kiện tương tự, có thứ tự như
sau: cycloartenyl ferulat (Or1), 24-
metylen cycloartanyl ferulat (Or2),
campesteryl ferulat (Or3) và sitosteryl
ferulat (Or4) như mô tả trong Hình 1b.
Trên thực tế, chưa có một nghiên cứu nào
mô tả phương pháp phân tích HPLC cho
hỗn hợp phản ứng thủy phân bao gồm FA,
ethyl ferulat và γ-oryzanol, tuy nhiên,
phương pháp phân tích riêng rẽ γ-
oryzanol và FA đã được báo cáo như trình
bày tại Bảng 1.
Bảng 1. Một số phương pháp phân tích đã nghiên cứu
TLTK Điều kiện phân tích Phổ HPLC
[20]
Cột: Poroshell120 EC-C18, 3,0×150 mm, 2,7
µm (Agilent Technologies, Mỹ).
Pha động: ACN : MeOH (60:40, v/v) trong 5
phút, gradient (65:35, v/v) trong 20 phút.
Tốc độ dòng: 0,8 mL/phút.
[21]
Cột: Cosmosil 5C18-AR-II (250 x 4,6 mm; 5
µm).
Pha động: H2O (pH = 3) : ACN (75:25, v/v)
trong 5 phút, gradient (65:35, v/v) trong 20
phút.
Tốc độ dòng: 0,8 mL/phút.
[12]
Cột: Zorbax SB-C18 (5 µm, 3 x 250 mm)
column.
Pha động: H3PO4 (50 µM) : MeOH (95:5 đến
45:55, v/v) từ 0 đến 51 phút, gradient (45:55
đến 0:100 v/v) trong 20 phút tiếp theo, giữ 8
phút, gradient về 95:5 trong 5 phút tiếp theo,
giữ 10 phút.
Tốc độ dòng: 1 mL/phút.
Dựa vào kết quả trên Hình 2, chúng ta
thấy sản phẩm trung gian etyl ferulat hầu
như ảnh hưởng không đáng kể đến hiệu
suất của phản ứng thủy phân. Sau 3h
phản ứng, hiệu suất tạo etyl ferulat chỉ
còn lại khoảng 2%. Hầu hết etyl ferulat
đã bị thủy phân thành FA như chúng ta
thấy trên Hình 1b.
6
Hình 1. Phổ UV-VIS tại bước sóng 325 nm
của phản ứng thủy phân: (a) Phương pháp
phân tích A (60 phút, 50 ºC); (b) Phương
pháp phân tích B (lần lượt từ trên xuống
dưới, 180, 120, 60, 0 phút, tại 75 ºC)
0
1
2
3
4
5
30 40 50 60 75
Nhiệt độ ºC
H
iệ
u
s
u
ấ
t
h
ìn
h
t
h
à
n
h
e
ty
l
fe
ru
la
t
(%
)
Hình 2. Sự hình thành etyl ferulat sau 3h
phản ứng tại các nhiệt độ khác nhau
3.2. Phản ứng thủy phân trong hệ đồng
dung môi
Để thực hiện phản ứng thủy phân γ-
oryzanol sử dụng xúc tác kiềm KOH
(kiềm trong dung môi H2O), cần thiết phải
chọn được dung môi để tạo thành hỗn hợp
đồng nhất giữa γ-oryzanol/EtOAc và dung
dịch kiềm. Vì kiềm KOH được hòa tan
trong nước, do đó cần thiết phải sử dụng
đồng dung môi để trộn lẫn dung dịch γ-
oryzanol/EtOAc và KOH/H2O. EtOH với
nhiệt độ sôi 78 ºC hoàn toàn phù hợp để
thực hiện vai trò này, giúp tạo thành hỗn
hợp phản ứng (γ-oryzanol + KOH) hoàn
toàn đồng nhất, phản ứng có thể được tiến
hành tại nhiệt độ cao nhất là 75 ºC.
Xét về măṭ cấu trúc thì γ-oryzanol là môṭ
hơp̣ chất rất khó bi ̣ thủy phân do các
nhóm thế daṇg cholesterol là nhóm thế
lớn (Hình 3), gây nên hiêụ ứng không
gian, môṭ măṭ cản trở các tác nhân hóa
hoc̣ tấn công nhóm chức este, măṭ khác
hiêụ ứng không gian se ̃ làm mất tính
phẳng trong hê ̣ liên hơp̣, do đó phản ứng
thủy phân γ-oryzanol không tuân theo tỷ
lê ̣ hơp̣ thức trên trên lý thuyết. Do vậy,
chúng tôi tiến hành khảo sát phản ứng
thủy phân với tỉ lệ KOH/ γ-oryzanol
tương đối cao, từ 8:1 đến 20:1 (wt/wt).
0
20
40
60
80
100
0 30 60 90 120 150 180 210 240
phút
H
iệ
u
s
u
ấ
t
p
h
ả
n
ứ
n
g
(%
)
20:1
16:1
10:1
8:1
Hình 3. Ảnh hưởng của tỉ lệ
kiềm/oryzanol đến hiệu suất tạo FA tại 60
°C. Tỷ lệ KOH/oryzanol lần lượt 8:1,
10:1, 16:1 và 20:1. Hiệu suất cao nhất
đạt được ở tỷ lệ 20:1
3.2.1 Ảnh hưởng của tỉ lệ kiềm/oryzanol
tới hiệu suất thủy phân
Đây là môṭ trong những yếu tố quan troṇg
nhất ảnh hưởng đến hiêụ suất của phản
ứng thủy phân. Chọn nhiệt độ phản ứng
cố định tại 60 ºC; thay đổi tỉ lệ kiềm/γ-
min
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50
m
A
U
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
m
A
U
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
Or1 Or2 Or3 Or4
Acid ferulic
Ethyl ferulat
min
0.0 2.5 5.0 7.5 10.0 12.5 15.0 17.5 20.0 22.5 25.0 27.5 30.0 32.5 35.0 37.5
mA
U
0
100
200
300
400
500
600
mA
U
0
100
200
300
400
500
600
PDA-325 nm
Ethyl ferulat
Acid ferulic γ-oryzanol
7
oryzanol từ 8/1; 10/1; 16/1; 20/1 để
nghiên cứu sự tạo thành của FA trong các
khoảng thời gian khác nhau 30, 60, 90,
120, 150 và 180 phút.
0
20
40
60
80
100
0 30 60 90 120 150 180 210 240
phút
H
iệ
u
s
u
ấ
t
p
h
ả
n
ứ
n
g
(%
)
20:1
16:1
10:1
8:1
Hình 4. Ảnh hưởng của tỉ lệ
kiềm/oryzanol đến hiệu suất tạo FA tại
75oC. Tỷ lệ KOH/oryzanol lần lượt 8:1,
10:1, 16:1 và 20:1. Hiệu suất cao nhất
đạt được ở tỷ lệ 16:1 và 20:1.
Dựa vào kết quả trên Hình 5 và 6 ta thấy,
tỉ lệ kiềm/oryzanol càng cao thì hiệu suất
tạo FA càng cao và thể hiện rõ tại nhiệt độ
60 ºC, với hiệu suất cao nhất là 62,3% với
điều kiện tỉ lệ kiềm/oryzanol là 20:1
(wt/wt). Tuy nhiên, nếu tăng tỉ lệ này cao
hơn 20:1, thì phản ứng sẽ không đồng
nhất và xảy ra sự tách pha, do vậy, tỉ lệ
kiềm/oryzanol cao nhất chúng tôi sử dụng
trong nghiên cứu là 20:1 (wt/wt).
Tại nhiệt độ 75 ºC, tỉ lệ 16:1 và tỉ lệ 20:1
đạt hiệu suất gần tương đương nhau,
khoảng 83,2%. Điều này cho thấy cả nhiệt
độ và tỉ lệ kiềm/oryzanol đều là các thông
số quan trọng, bổ trợ cho nhau và quyết
định hiệu suất của phản ứng. Đối với bài
toán chi phí thực tế, nghiên cứu sẽ làm cơ
sở cho việc lựa chọn tăng nhiệt độ phản
ứng hay tăng tỉ lệ kiềm/ozyzanol căn cứ
vào chi phí điện năng hoặc chi phí hóa
chất để đạt hiệu suất tương đương.
3.2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới hiệu
suất thủy phân
Chọn tỉ lệ kiềm/oryzanol là cao nhất là
20/1 (wt/wt), nồng độ oryzanol trong hỗn
hợp phản ứng là 6 mg/ml, khảo sát ảnh
hưởng của nhiệt độ đến hiệu suất tạo FA.
Các nhiệt độ khảo sát là: 30, 40, 50, 60,
75 ºC. Kết quả nghiên cứu được chỉ ra tại
Hình 5 dưới đây:
0
20
40
60
80
100
0 30 60 90 120 150 180 210 240
phút
H
iệ
u
s
u
ấ
t
p
h
ả
n
ứ
n
g
(%
)
75°C
60°C
50°C
40°C
30°C
Hình 5. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng
với hiệu suất tạo FA tại tỉ lệ
kiềm/oryzanol là 20:1 ở nhiệt độ 30, 40,
50, 60 và 75 oC.
Nhiệt độ phản ứng càng cao thì hiệu suất
phản ứng thủy phân càng lớn: 18,8% tại
30 C, 25,2% tại 40 C, 45,8% tại 50 C,
62,3% tại 60 C và 83,2% tại 75 C sau 3
giờ phản ứng. Nhiệt độ cao nhất phản ứng
có thể thực hiện được là tại 75 C, nếu
tiếp tục gia nhiệt đến 4 giờ sau phản ứng,
hiệu suất sẽ đạt được là 84,1%. Kết quả
này cũng chỉ ra, hiệu suất phản ứng bão
hòa sau 4 giờ, và việc gia nhiệt thêm
không làm tăng hiệu suất của phản ứng.
So sánh với kết quả nghiên cứu trước đó
của công ty Tsuno (Nhật Bản), với hiệu
suất đạt được là 86% tính theo γ-oryzanol
có độ tinh khiết 80%, sử dụng isopropanol
tại 90 C, trong 8 giờ [32]; chúng tôi nhận
thấy rằng phương pháp của chúng tôi
8
mang lại hiệu quả gần như tương đương,
ở nhiệt độ thấp hơn và thời gian chỉ bằng
một nửa.
3.2.4 Ảnh hưởng của sóng siêu âm tới
hiệu suất phản ứng thủy phân
0
20
40
60
80
100
0 30 60 90 120 150 180 210 240
phút
H
iệ
u
s
u
ấ
t
p
h
ả
n
ứ
n
g
(%
)
180W, 60 °C
50W, 60 °C
50W, 50 °C
50W, 40 °C
50W, 30 °C
Hình 6. Ảnh hưởng của sóng siêu âm 20
kHz tới hiệu suất phản ứng tại các điều
kiện nhiệt độ từ 30, 40, 50 và 60 oC với
công suất 50 W. Ở công nhiệt độ 60 oC,
công suất sóng siêu âm 180W ở cùng tần
số 20 kHz được thí nghiệm
Với sự hỗ trợ của sóng siêu âm tần số 20
kHz, phản ứng thủy phân được tiến hành
tại các nhiệt độ từ 30 đến 60 C. Phản ứng
tại 75 C, kêt hợp thêm sóng siêu âm 20
kHz (Branson 450) sẽ làm cho quá trình
mất dung môi diễn ra rất nhanh và do đó
phá vỡ sự đồng nhất của phản ứng. Mặt
khác, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát 2
mức công suất khác nhau là 50 W và 180
W tại nhiệt độ 60 C, các kết quả được thể
hiện trên Hình 8.
Kết quả cho thấy, sử dụng sóng siêu âm
20 kHz với công suất 50W tại 60 C hầu
như không hiệu quả để tăng hiệu suất
phản ứng so với phương pháp gia nhiệt
thông thường; tuy nhiên khi tăng công
suất lên 180 W, hiệu suất của phản ứng
thủy phân tăng lên gấp 1,5 lần. Như ta đã
biết, sóng siêu âm với tần số thấp (20
kHz) hoạt động hiệu quả nhờ vào sự vỡ
của các bong bóng (cavitation bubbles),
qua đó tạo ra những điểm nóng có áp suất
và nhiệt độ rất cao, và nhờ vậy mà thúc
đẩy quá trình phản ứng [22]. Việc tăng
công suất của sóng siêu âm từ 50 W lên
180 W, đồng nghĩa với việc tăng số lượng
các bong bóng siêu âm lên nhiều lần, và
do đó, giúp tăng hiệu suất của phản ứng
lên tới 93,3% trong khoảng thời gian ngắn
hơn là 2,5 giờ. Đây là một kết quả rất khả
quan so với các nghiên cứu trước đây đã
được công bố của công ty Tsuno (Nhật
Bản) như đã đề cập tới trong mục 3.2.3.
4. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tìm ra
được điều kiện phân tích phù hợp để phân
tích đồng thời các sản phẩm của phản ứng
thủy phân γ-oryzanol, tối ưu hóa tỉ lệ
KOH/ γ-oryzanol (wt/wt) để thu được
hiệu suất cao (tỉ lệ 20/1, đối với nồng độ
đầu tương ứng của γ-oryzanol là 6
mg/ml). Hiệu suất của phản ứng bằng
phương pháp đồng dung môi đạt 83,2%
tại 75 C sau 3 giờ phản ứng; và nếu sử
dụng sự hỗ trợ của sóng siêu âm 20 kHz,
180 W, hiệu suất phản ứng đạt 93,3% chỉ
trong 2,5 giờ tại 60 C. Việc ứng dụng
sóng siêu âm trên quy mô lớn không phải
là điều dễ dàng, cần phải được cân đối
tính toán cụ thể giữa hiệu suất và lợi ích
kinh tế. Phương pháp đồng dung môi mà
chúng tôi đã nghiên cứu mang lại hướng
đi khả thi, không cần sử dụng sóng siêu
âm vẫn có thể đạt hiệu suất trên 80% đối
với phản ứng gia nhiệt tại 75 C. Nghiên
9
cứu này đưa ra một cái nhìn khả thi về
việc sản xuất FA từ các sản phẩm phụ của
ngành công nghiệp có chứa γ-oryzanol,
đặc biệt là đối với ngành sản xuất dầu
cám gạo.
Acknowledgements. “This research is
funded by Vietnam National Foundation
for Science and Technology Development
(NAFOSTED) Ministry of Science and
Technology under grant number 104.01-
2014.57”. We would like to thank Prof.
Yasuaki Maeda and Dr. Kiyoshi Imamura
from Department of Research
Organization for University – Community
Collaborations, Osaka Prefecture
University for precious advises and
guidelines.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. S. Itagaki, T. Kurokawa, C. Nakata, Y.
Saito, S. Oikawa, M. Kobayashi, T.
Hirano, K. Iseki, “In vitro and in vivo
antioxidant properties of ferulic acid: A
comparative study with other natural
oxidation inhibitors”, Food Chemistry,
114, 466-471(2009).
2. S. I. Mussatto, G. Dragone, I. C.
Roberto, “Ferulic and p-coumaric acids
extraction by alkaline hydrolysis of
brewer's spent grain”, Industrial Crops
and Products, 25, 231-237(2007).
3. Y. Sun, W. Wang, “Ultrasonic
extraction of ferulic acid from Ligusticum
chuanxiong”, Journal of the Chinese
Institute of Chemical Engineers, 39, 653-
656 (2008).
4. N. R. Prasad, S. Ramachandran, K. V.
Pugalendi, V. P. Menon, “Ferulic acid
inhibits UV-B–induced oxidative stress in
human lymphocytes”, Nutrition Research,
27, 559-564 (2007).
5. C. Mancuso, R. Santangelo, Ferulic
acid: “Pharmacological and toxicological
aspects”, Food and Chemical Toxicology,
65, 185-195 (2014).
6. Y. Yan-Ying, Z. Wei, C. Shu-Wen,
“Extraction of Ferulic Acid and Caffeic
Acid with Ionic Liquids”, Chinese
Journal of Analytical Chemistry, 35,
1726-1730 (2007).
7. M. Srinivasan, A. R. Sudheer, K. R.
Pillai, P. R. Kumar, P. R. Sudhakaran, V.
P. Menon, “Influence of ferulic acid on γ-
radiation induced DNA damage, lipid
peroxidation and antioxidant status in
primary culture of isolated rat
hepatocytes”, Toxicology, 228, 249-258
(2006).
8. A. Saija, A. Tomaino, D. Trombetta,
A. De Pasquale, N. Uccella, T. Barbuzzi,
D. Paolino, F. Bonina, “In vitro and in
vivo evaluation of caffeic and ferulic
acids as topical photoprotective agents”,
International Journal of Pharmaceutics,
199, 39-4 (2007).
9. S. Woranuch, R. Yoksan,
“Preparation, characterization and
antioxidant property of water-soluble
ferulic acid grafted chitosan”,
Carbohydrate Polymers, 96, 495-502
(2013).
10. E. Graf, “Antioxidant potential of
ferulic acid”, Free Radical Biology and
Medicine, 13, 435-448 (1992).
10
11. Z. Zhao, M. H. Moghadasian,
“Chemistry, natural sources, dietary
intake and pharmacokinetic properties of
ferulic acid: A review”, Food Chemistry,
109, 691-702 (2008).
12. A. U. Buranov, G. Mazza, “Extraction
and purification of ferulic acid from flax
shives, wheat and corn bran by alkaline
hydrolysis and pressurised solvents”,
Food Chemistry, 115, 1542-1548 (2009).
13. N. H. M. Salleh, M. Z. M. Daud, D.
Arbain, M. S. Ahmad, K. S. K. Ismail,
“Optimization of alkaline hydrolysis of
paddy straw for ferulic acid extraction”,
Industrial Crops and Products, 34, 1635-
1640 (2011).
14. Z. Liu, J. Wang, P. Shen, C. Wang, Y.
Shen, “Microwave-assisted extraction and
high-speed counter-current
chromatography purification of ferulic
acid from Radix Angelicae sinensis”,
Separation and Purification Technology,
52, 18-21 (2006).
15. P. Torre, B. Aliakbarian, B. Rivas,
J.M. Domínguez, A. Converti, “Release
of ferulic acid from corn cobs by alkaline
hydrolysis”, Biochemical Engineering
Journal, 40, 500-506 (2008).
16. S. Zhao, S. Yao, S. Ou, J. Lin, Y.
Wang, X. Peng, A. Li, B. Yu,
“Preparation of ferulic acid from corn
bran: Its improved extraction and
purification by membrane separation”,
Food and Bioproducts Processing.
17. U. T. Bhalerao, A. Chaudhuri, P. K.
Das, T. N. B. Kaimal, “Process for the
isolation of oryzanols from crude dark
acid oil (rice bran)”, in, Google Patents,
(1999).
18. C. Hayashi, K. Kato, S. Minami, E.
Nomura, H. Taniguchi, T. Tsuno,
“Method of manufacturing ferulic acid”,
in, Google Patents, (1994).
19. A. G. G. Krishna, S. Khatoon, P. M.
Shiela, C. V. Sarmandal, T. N. Indira, A.
Mishra, “Effect of refining of crude rice
bran oil on the retention of oryzanol in the
refined oil”, Journal of the American Oil
Chemists' Society, 78, 127-131 (2001).
20. J. Y. Cho, H. J. Lee, G. A. Kim, G. D.
Kim, Y. S. Lee, S. C. Shin, K. H. Park, J.
H. Moon, “Quantitative analyses of
individual γ-Oryzanol (Steryl Ferulates)
in conventional and organic brown rice
(Oryza sativa L.)”, Journal of Cereal
Science, 55, 337-343 (2012).
21. J. B. Weon, J. Y. Ma, H. J. Yang, C. J.
Ma, “Simultaneous determination of
ferulic acid, hesperidin, 6-gingerol and
glycyrrhizin in Insampaedok-san by
HPLC coupled with diode array
detection”, Journal of Analytical
Chemistry, 67, 955-959 (2012).
22. H. M. Santos, C. Lodeiro, J. L.
Capelo-Martínez, “The Power of
Ultrasound”, in: Ultrasound in Chemistry,
Wiley-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA,
1-16 (2009).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27346_91694_1_pb_1753_2096900.pdf