Hủy u gan bằng dòng điện có tần số radio: Kỹ thuật thực hiện qua da và các biến chứng
Nguyên tắc của RFA
Bệnh nhân là một phần của dòng điện kín;
dòng điện này bao gồm thêm máy phát dòng
điện có tần số radio RF, kim điện cực và dây dẫn
có mặt tiếp xúc lớn với vùng da của cơ thể
(ground pads). Vùng điện thay đổi được tạo ra
trong mô của bệnh nhân. độ điện trở của mô cao
so với kim loại tạo ra sự giao động của các ion
trong tế bào của mô quanh kim điện cực và các
ions này giao động theo hướng của dòng điện.
Sự giao động này tạo ra nhiệt do lực ma sát của
các ion quanh kim điện cực. Sự khác biệt giữa
diện tích tiếp xúc của kim điện cực và ground
pads đã tạo ra nhiệt tập trung chủ yếu quanh
đầu kim điện cực. để có thể hủy mô, nhiệt độ
vùng mô phải đạt ngưỡng và thời gian nóng
phải đủ lâu. Nhiệt độ mô đạt ít nhất 50-60 độ C
và thời gian kéo dài ít nhất 4-6 phút sẽ dẫn tới
hậu quả hủy mô không hồi phục(5,2).
RFA có thể thực hiện qua da, qua phẫu thuật
nội soi hoặc phối hợp với phẫu thuật mở cắt gan.
RFA có thể thực hiện dưới hướng dẫn của siêu
âm, máy điện toán cắt lớp hoặc máy cộng hưởng
từ, tuy nhiên thủ thuật RFA thường thực hiện
dưới hướng dẫn của siêu âm do những tính ưu
việt như quan sát kim điện cực trong thời gian
thực, chi phí thấp, và kỹ thuật đơn giản(*).
Qui trình thực hiện RFA tại bệnh viện Đại
Học Y Dược khá đơn giản. Thời gian thực hiện
thủ thuật trung bình 30-45 phút. Thời gian nằm
viện ngắn (thường xuất viện 24 giờ ngay sau thủ
thuật) và các triệu chứng sau thủ thuật như đau
hạ sườn phải, sốt nhẹ: thường chỉ xảy ra trong
vài ngày. Đối với RFA qua phẫu thuật nội soi
hoặc phối hợp với cắt gan, công đoạn thực hiện
RFA với thời gian khoảng 30 phút
Trong nhiều công trình báo cáo về các biến
chứng của RFA, biến chứng được chia vào ba
nhóm chính: nhóm mạch máu, nhóm đường
mật, nhóm khác. Nhóm mạch máu bao gồm tụ
máu dưới bao gan, chảy máu trong ổ bụng và
thuyên tắc tĩnh mạch cửa; Nhóm đường mật: tụ
dịch mật, hẹp đường mật, chảy máu đường mật;nhóm ngoài gan như tràn dịch – tràn khí màng
phổi, tổn thương tạng lân cận như ruột, túi mật,
cơ hoành. Các biến chứng xảy ra với tỉ lệ
thấp(1,2,5).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hủy u gan bằng dòng điện có tần số radio: Kỹ thuật thực hiện qua da và các biến chứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỦY U GAN BẰNG DÒNG ĐIỆN CÓ TẦN SỐ RADIO:
KỸ THUẬT THỰC HIỆN QUA DA VÀ CÁC BIẾN CHỨNG
Nguyễn Quang Thái Dương*
TÓM TẮT
Mục tiêu : Trình bày qui trình thực hiện hủy u gan bằng dòng điện có tần số radio và đánh giá các biến
chứng sau thủ thuật qua 35 trường hợp tại bệnh viện Đại Học Y Dược.
Phương pháp nghiên cứu: 35 ca u gan từ 03/01/2006 đến ngày 26/09/2007 được thực hiện RFA dưới
hướng dẫn của siêu âm. Trong đó gồm 25 nam, 10 nữ. Tuổi từ 16 tới 83, trung bình 53.7. Trong 35 ca, 32 ca
thực hiện qua da, 01 ca thực hiện qua phẫu thuật mổ mở, 02 ca thực hiện qua phẫu thuật nội soi. Số bệnh nhân
thực hiện 2 lần RFA qua da tại hai thời điểm khác nhau là 03. Thời gian nằm viện trung bình khoảng 02 ngày.
Thiết bị RFA là máy Radionic loại Cool-tip (Hãng Valley labs, Hoa Kỳ) và máy siêu âm BK (Đan Mạch) có gá
hướng dẫn. Tất cả các thủ thuật RFA qua da đều do một bác sĩ hình ảnh học can thiệp tại phòng siêu âm can
thiệp (thuộc khoa chẩn đoán hình ảnh) và được thực hiện theo một qui trình đã định sẵn. Các biến chứng được
đánh giá trong và sau thủ thuật (ngay sau thủ thuật, 24 tiếng sau trước khi xuất viện và 01 tháng sau).
Kết quả: Kỹ thuật và qui trình thực hiện RFA thường khoảng 30 - 45 phút. Bệnh nhân được xuất viện sau
24 giờ. Tai biến xảy ra ngay trong quá trình thủ thuật: 01 chảy máu do vỡ khối u, một ca gây phỏng da ngay vị
trí dán miếng dẫn điện tại vùng cơ tứ đầu đùi. Hầu hết các bệnh nhân chỉ đau nhẹ hạ sườn phải, sốt nhẹ trong 2-
3 ngày sau thủ thuật.
Kết luận: Hủy u bằng dòng điện có tần số radio (RFA) là một trong sự chọn lựa điều trị u gan nguyên phát
và thứ phát. Kỹ thuật và qui trình thực hiện RFA qua da dễ triển khai; tai biến và biến chứng thấp. Tuy nhiên,
xem xét cẩn trọng chỉ định và chống chỉ định thực hiện RFA là yếu tố quyết định giảm tai biến và biến chứng;
đồng thời kỹ thuật RFA nên thực hiện ở những bệnh viện và trung tâm y tế có đơn vị chuyên sâu về u gan.
ABSTRACT
RADIO FREQUENCY ABLATION FOR LIVER TUMORS: TECHNIQUES AND COMPLICATIONS
Nguyen Quang Thai Duong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 105 - 108
Objective: demonstrating the protocol of radiofrequency ablation technique and complications of 35 cases at
HoChiMinh University Medical Center
Methods: perspective. Ultrasound guided RFA was performed on 35 cases from 03/01/2006 to 26/09/2007.
All patients include 25males, 10 females with average age 53.7.. Of 35 cases, 32 cases was done percutaneously,
01 case in opened surgery and two cases laparoscopic surgery. RFA equipment is Radionic with the cool-tip
(Valleylab, USA) and ultrasound unit is BK machine equipped with needle guide (Denmark). All the cases was
performed along with the protocol set by one interventional radiologist. All complications was observed and
managed during and right after the procedure (24hours before discharging the patients and one month later)
Result: the time of RFA procedure is about 30-45 minutes per case. Two cases had complications during
procedure. One case with intraperitonei hemorrhage was due to rupture of liver capsule, corresponding with
tumor ablation site. The other case got the burn at the right thigh with the ground pad of the machine. The other
complications of RFA procedure showed in litterature was not found in our study
Conclusion: RFA is one of the good choices of liver tumor treatment. The technique is simple and rate of
* Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y dược TP. HCM.
complication is low. However, considering the indications and contraindications carefully may reduce
complications and increase effectivemess of the treatment.
MỞ ĐẦU
Ung thư gan là một trong những ung thư
xảy ra với tần suất cao, đặc biệt đối với ung thư
gan nguyên phát. Phương pháp kinh điển là
phẫu thuật được xem là phương pháp điều trị
triệt để. Tuy nhiên bệnh nhân có chỉ định phẫu
thuật u gan không quá 20% do nhiều yếu tố như
số lượng khối u, vị trí u, chức năng gan kém
hoặc các bệnh lý khác đi kèm. Có nhiều phương
pháp khác hiện nay đang được triển khai như
chích cồn 99 độ, hủy u bằng dòng điện có tần số
radio, hủy u bằng sóng vi ba, tắc động mạch
nuôi u hoặc truyền hoá chất trực tiếp qua động
mạch gan và ghép gan. RFA hiện trở nên một
trong những phương pháp chọn lựa đầu tiên do
những tính ưu việt như kỹ thuật triển khai đơn
giản, thời gian nằm viện ngắn, tai biến và biến
chứng thấp. Chúng tôi xin trình bày qui trình
thực hiện RFA qua da và các tai biến-biến chứng
của thủ thuật qua số lượng bệnh nhân đã được
thực hiện RFA tại bệnh viện Đại Học Y Dược.
Mục tiêu nghiên cứu
Trình bày qui trình thực hiện RFA và các tai
biến – biến chứng của thủ thuật RFA.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiền cứu và can thiệp lâm sàng.
Khi bệnh nhân đã được chẩn đoán u gan
bằng siêu âm, CT scan hoặc MRI và các xét
nghiệm. Các xét nghiệm về chức năng đông máu
gồm công thức máu toàn phần, TQ, TCK và
Taux de prothrombinh được xem xét trước thủ
thuật (tiểu cầu phải >50.000/mm3- Taux de
prothombine >50%). Bệnh nhân được đánh giá
về chỉ định thực hiện RFA. Bác sĩ thực hiện RFA
sẽ trực tiếp siêu âm để xem xét về chỉ định và dự
kiến qui trình kỹ thuật (như chọn lựa loại kim, vị
trí luồn kim RFA, phương thức thực hiện như
qua da, hoặc kết hợp với phẫu thuật hoặc
phương pháp tắc mạch nuôi u). Sau khi đã có chỉ
định RFA, bệnh nhân được chuẩn bị đầy đủ các
xét nghiệm tiền thủ thuật và thực hiện RFA
trong vòng 24 giờ. Tất cả các ca thực hiện RFA
qua da được xuất viện trong vòng 24 giờ sau thủ
thuật, RFA qua thủ thuật nội soi xuất viện 72 giờ
sau thủ thuật.
Qui trình thực hiện RFA qua da: thực hiện
tại phòng siêu âm can thiệp.
Tư thế bệnh nhân nằm ngửa hoặc nghiêng
trái, tùy thuộc vào vị trí HCC và đường kim
được hoạch định.
Sát trùng bằng betadine và trải khăn vô
trùng.
Tiền mê và tê tại chỗ bằng lidocain 2% bằng
chích dọc theo đường kim dự tính từ vị trí mặt
da tới phúc mạc.
Rạch da bằng dao 11.
Chọn loại kim RFA tùy theo kích thước khối
u và vị trí khối u.
Luồn kim RFA dưới hướng dẫn siêu âm
trong thời gian thực hiện.
Khởi động hệ thống làm lạnh đầu kim điện
cực và nhiệt độ tại đầu kim phải <25 độ C.
Khởi động hệ thống phát dòng điện RF.
Dùng chế độ manual mode: tăng output từ
từ (từ 0 tới cực đại).
Theo dõi hình ảnh tăng phản âm chiếm toàn
bộ khối u.
Thời gian thực hiện thường khoảng 9-18
phút.
Có thể thực hiện từ 1 đến 2 lần trong một lần
thực hiện RFA.
Sau thủ thuật bệnh nhân được cho nằm ở tư
thế nghiêng P để hạn chế biến chứng chảy máu.
Bệnh nhân được theo dõi ngay tại phòng
siêu âm can thiệp khoảng 15 phút: siêu âm kiểm
tra dịch ổ bụng có hay không, kiểm tra mạch và
huyết áp. Nếu bệnh nhân ổn định về mạch –
huyết áp, không có dịch ổ bụng sau thủ thuật,
chuyển bệnh nhân về trại. Thuốc sử dụng để
giảm đau chủ yếu là paracetamol và kháng viêm
nonsteroid.
KẾT QUẢ
Tổng số bệnh nhân được thực hiện RFA là 35
ca.
Tỉ lệ nam: nữ = 5:2.
Tuổi từ 16 tới 83. Trung bình : 53.4.
Vị trí khối u: gan phải 33 ca; gan trái 02 ca.
Phương thức thực hiện
Qua da: 35 lần, qua phẫu thuật mổ mở: 01
lần; qua phẫu thuật nội soi: 02 lần.
Số bệnh nhân được thực hiện hai lần RFA tại
hai thời điểm khác nhau là 03 lần.
Số bệnh nhân thực hiện RFA sau thủ thuật
tắc động mạch gan 05.
Tai biến-biến chứng: 01 ca chảy máu trong ổ
bụng ngay sau thực hiện thủ thuật (bệnh nhân
đã làm thủ thuật tắc động mạch gan trước RFA);
01 ca bị phỏng tại vị trí dán miếng dẫn điện (tại
1/3 giữa đùi phải).
Xử lý tai biến đối với ca chảy máu trong ổ
bụng:
Chuyển bệnh nhân qua phòng chụp mạch
máu DSA, thực hiện angiography để xác định vị
trí chảy máu và tắc mạch bằng gelfoam. Huyết
động học bệnh nhân ổ định sau đó và được xuất
viện 03 ngày sau.
Các ca RFA qua phẫu thuật nội soi hoặc kết
hợp trong phẫu thuật mổ mở: không ghi nhận
tai biến-biến chứng.
THẢO LUẬN
RFA là một trong các phương pháp được
chọn lựa trong điều trị u gan (ung thư tế bào gan
hoặc ung thư di căn). Các phương pháp hủy tại
chỗ với mục đích hủy toàn bộ tế bào ung thư.
Phương pháp RFA được xem là một trong
những phương pháp hủy u có hiệu quả và một
số trung tâm về điều trị ung thư xem RFA là
phương pháp điều trị triệt để đối với ung thư tế
bào gan. Các nghiên cứu và ứng dụng RFA được
xem là phương pháp an toàn, hiệu quả và kỹ
thuật đơn giản(5).
Nguyên tắc của RFA
Bệnh nhân là một phần của dòng điện kín;
dòng điện này bao gồm thêm máy phát dòng
điện có tần số radio RF, kim điện cực và dây dẫn
có mặt tiếp xúc lớn với vùng da của cơ thể
(ground pads). Vùng điện thay đổi được tạo ra
trong mô của bệnh nhân. độ điện trở của mô cao
so với kim loại tạo ra sự giao động của các ion
trong tế bào của mô quanh kim điện cực và các
ions này giao động theo hướng của dòng điện.
Sự giao động này tạo ra nhiệt do lực ma sát của
các ion quanh kim điện cực. Sự khác biệt giữa
diện tích tiếp xúc của kim điện cực và ground
pads đã tạo ra nhiệt tập trung chủ yếu quanh
đầu kim điện cực. để có thể hủy mô, nhiệt độ
vùng mô phải đạt ngưỡng và thời gian nóng
phải đủ lâu. Nhiệt độ mô đạt ít nhất 50-60 độ C
và thời gian kéo dài ít nhất 4-6 phút sẽ dẫn tới
hậu quả hủy mô không hồi phục(5,2).
RFA có thể thực hiện qua da, qua phẫu thuật
nội soi hoặc phối hợp với phẫu thuật mở cắt gan.
RFA có thể thực hiện dưới hướng dẫn của siêu
âm, máy điện toán cắt lớp hoặc máy cộng hưởng
từ, tuy nhiên thủ thuật RFA thường thực hiện
dưới hướng dẫn của siêu âm do những tính ưu
việt như quan sát kim điện cực trong thời gian
thực, chi phí thấp, và kỹ thuật đơn giản(*).
Qui trình thực hiện RFA tại bệnh viện Đại
Học Y Dược khá đơn giản. Thời gian thực hiện
thủ thuật trung bình 30-45 phút. Thời gian nằm
viện ngắn (thường xuất viện 24 giờ ngay sau thủ
thuật) và các triệu chứng sau thủ thuật như đau
hạ sườn phải, sốt nhẹ: thường chỉ xảy ra trong
vài ngày. Đối với RFA qua phẫu thuật nội soi
hoặc phối hợp với cắt gan, công đoạn thực hiện
RFA với thời gian khoảng 30 phút
Trong nhiều công trình báo cáo về các biến
chứng của RFA, biến chứng được chia vào ba
nhóm chính: nhóm mạch máu, nhóm đường
mật, nhóm khác. Nhóm mạch máu bao gồm tụ
máu dưới bao gan, chảy máu trong ổ bụng và
thuyên tắc tĩnh mạch cửa; Nhóm đường mật: tụ
dịch mật, hẹp đường mật, chảy máu đường mật;
nhóm ngoài gan như tràn dịch – tràn khí màng
phổi, tổn thương tạng lân cận như ruột, túi mật,
cơ hoành. Các biến chứng xảy ra với tỉ lệ
thấp(1,2,5).
Theo Hyunxhul Rhim và CS với một nghiên
cứu đa trung tâm với cỡ mẫu 1139 bệnh nhân,
các biến chứng xảy ra như áp xe gan, chảy máu
trong ổ bụng, tụ dịch mật, phỏng tại vị trí
ground pad, tràn khí màng phổi với tỉ lệ tương
ứng là 0.66%, 0.46%, 0.20%, 0.20% và 0.20%. Một
trường hợp tử vong trong lô nghiên cứu này là
xuất huyết trong ổ bụng(5).
Các tai biến-biến chứng trên 38 lần thực hiện
gồm 02 ca. Ca chảy máu trong ổ bụng là do thực
hiện RFA sau thủ thuật TOCE 03 lần trước đó. Vị
trí khối u nằm sát mặt gan (HPT V) đã được thực
hiện TOCE 3 lần. Chụp CT ghi nhận tái phát
nằm sát u cách bao gan khoảng 2,5cm. Kim RFA
được đâm xuyên qua vị trí u đã được TOCE để
thực hiện RFA. Nguyên nhân chảy máu là do u
đã hoại tử sau TOCE nên dễ dàng vỡ ra khi thực
hiện RFA ở vị trí sát khối u. Ngay sau thủ thuật,
siêu âm phát hiện dịch bụng, mạch huyết áp
giao động. Bệnh nhân được chuyển ngay sang
phòng chụp mạch máu để chụp chẩn đoán xác
định và thực hiện thành công tắc mạch.
01 ca bị phỏng da và lớp mô dưới da tại vị trí
dán miếng dẫn điện do tiếp xúc của miếng dán
trên da không tốt.
Các tai biến khác như các tác giả khác nêu ra
không ghi nhận trong lô nghiên cứu này.
KẾT LUẬN
RFA là một trong những phương pháp chọn
lựa điều trị u gan. Kỹ thuật thực hiện RFA đơn
giản, thời gian nằm viện thấp, tai biến và biến
chứng thấp. Để thực hiện RFA thành công, xem
xét chỉ định và chống chỉ định một cách thận
trọng để chọn phương pháp thực hiện RFA và
giảm được những tai biến-biến chứng của thủ
thuật. Hiệu quả của RFA trong điều trị u gan sẽ
được mở rộng nghiên cứu trong thời gian tiếp
theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akahane M, Koga H, Kato N, et al. Complications of
Percutaneous radiofrequency ablation for Hepato-cellular
Carcinoma: Imaging Spectrum and Management.
RadioGraphics 2005;25:S57-S68
2. Choi H, Loyer EM, DuBrow RA, et al. Radio-frequency
ablation of liver tumors: assessment of therapeutic
response and complications. RadioGraphics 2001;21(spec
no):S41–S54
3. Livraghi T, Goldberg SN, Lazzaroni S, et al.
Hepatocellular carcinoma: radio-frequency ablation of
medium and large lesions. Radiology 2000; 214:761-768
4. Rhim H, Dodd GD 3rd, Chintapalli KN, et al.
radiofrequency thermal ablation of abdominal tumors:
lessons learned from complications. RadioGraphics
2004;24:41–52
5. Rhim H, Yoon KH, Lee JM et al. Major Complications after
Radio-frequency Thermal ablation of Hepatic Tumors:
Spectrum of Imaging Findings
6. Solbiati L, Goldberg SN, Ierace T, et al. Hepatic
metastases: percutaneous radio-frequency ablation with
cooled-tip electrodes. Radiology 1997; 205:367-373.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- huy_u_gan_bang_dong_dien_co_tan_so_radio_ky_thuat_thuc_hien.pdf