Từ nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận có
một số khác biệt (hoặc tương đồng) với các
nghiên cứu ở phương Tây và một số kết quả các
nước châu Á như: tình trạng chu sinh, nhiễm
trùng vùng đầu mặt phổ biến hơn trong nghiên
cứu của chúng tôi. Thuốc ngừa thai đường uống
vẫn là yếu tố nguy cơ quan trọng của HKTMN
(tuy thấp hơn so các nghiên cứu phương Tây). Tỉ
lệ dùng thuốc kháng đông cao nhưng tỉ lệ đạt đến
INR đích để đạt hiệu quả trên lý thuyết thấp và
ảnh hưởng đến kết quả điều trị chưa tốt. Điều này
dẫn đến cần có xây dựng một phác đồ, qui trình
sử dụng thuốc kháng đông đúng khi có chỉ định
(tránh tâm lý của một số thầy thuốc hiện tại là sợ
chảy máu thêm khi dùng kháng đông, sợ tắc
mạch tiến triển khi không dùng kháng đông từ
đó dẫn đến thái độ sử dụng thuốc ngập ngừng).
Kết quả của nghiên cứu chúng tôi tuy có kết cục
về tử vong tương tự các nghiên cứu trước nhưng
tỉ lệ phụ thuộc về chức năng (mRS > 2) cao hơn
các báo cáo ở phương Tây, nhưng lại thấp hơn các
nghiên cứu ở Trung Đông cho thấy nhận thức về
chẩn đoán và điều trị bệnh lý này ở đơn vị chúng
tôi cần được phát triển thêm.
Chúng tôi đề nghị nên chú ý đến bệnh lý
này hơn nữa trong các đơn vị điều trị khác khi
có các triệu chứng như đã mô tả ở phần kết quả
(do tính chất rất phong phú của các triệu chứng,
dấu hiệu của bệnh lý này, và hiệu quả điều trị
khả quan). Cần phát triển việc tầm soát các tình
trạng tăng đông di truyền hoặc mắc phải hơn
nữa để kết quả điều trị và phòng ngừa tái phát
hiệu quả hơn. Cần nghiên cứu để đánh giá vai
trò D dimmer. Vì tầm quan trọng của các biểu
hiện lâm sàng, nguyên nhân và có thể là khác
biệt trong điều trị ở các hình thái chủng tộc và
địa dư khác nhau, do đó cần nghiên cứu mở
rộng đa trung tâm và thời gian theo dỏi kéo dài
hơn để nhận biết rõ hơn bệnh lý này ở nước ta.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 85 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Huyết khối tĩnh mạch não: Đặc điểm lâm sàng và yếu tố dự đoán kết quả xấu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 573
HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH NÃO: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
VÀ YẾU TỐ DỰ ĐOÁN KẾT QUẢ XẤU
Nguyễn Anh Tài*, Phạm Xuân Lãnh*
TÓM TẮT
Mục đích: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng, nguyên nhân, và kết quả của bệnh nhân Huyết khối tĩnh
mạch não (HKTMN) chưa được mô tả rõ ở Miền nam Việt nam. Nghiên cứu mô tả này thực hiện ở các bệnh
nhân HKTMN tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp: Dữ liệu tiền cứu ở các bệnh nhân HKTMN được khẳng định bằng hình ảnh học não bộ thực
hiện tại BVCR năm 2010. Kết quả chính là tử vong hoặc phụ thuộc (mRS> 2) lúc xuất viện.
Kết quả: Nghiên cứu này gồm 38 HKTMN; các biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là đau đầu (84,2%),
yếu liệt cục bộ (60,5%), nôn ói (47,4%), phù gai (36,8%), co giật (34,2%) và thay đổi ý thức (28,9%). Các yếu tố
liên quan quan trọng với kết cục xấu gồm: liệt các dây thần kinh sọ, yếu liệt nữa người, sốt và hôn mê. Tất cả
bệnh nhân đều được dùng kháng đông, nhưng chỉ có 28,9% bệnh nhân đạt INR mong muốn. 03 bệnh nhân
(7,9%) tử vong và 14 bệnh nhân (36,8%) có kết quả xấu lúc xuất viện. Hôn mê lúc nhập viện là yếu tố độc lập
dự đoán tử vong trong bệnh viện.
Kết luận: lâm sàng của HKTMN có phổ rất rộng. khởi phát có thể là cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính. Tình
trạng sau sanh, sử dụng thuốc ngừa thai, và nhiễm trùng là yếu tố thúc đẩy phổ biến của HKTMN. Mặc dù tất
cả bệnh nhân đều được dùng thuốc kháng đông, có đến 36,8% bệnh nhân có kết quả xấu lúc xuất viện.
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch não.
ABSTRACT
CEREBRAL VENOUS THROMBOIS: CLINICAL FEATURES AND POOR OUTCOME PREDICTORS
Nguyen Anh Tai, Pham Xuan Lanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 573 - 577
Purpose: The clincal and laboratories features, causative factors, and outcomes of patients with cerebral
venous thrombosis from The Southern of Vietnam have not been well described. This descriptive study describes
the results for cerebral venous thrombosis patients in ChoRay Hospital, Vietnam.
Methods: The prospective data of patients with radiologically confirmed cerebral venous thrombosis were
collected from Choray Hospital in 2010. Primary outcome was death or dependency (modified Rankin score >2)
at the time of hospital discharge.
Results: This study included 38 patients with cerebral venous thrombosis; the presenting features most
commonly being observed were headache (84.2%), focal motor deficits (60.5%), vomitting (47.4%), papilledema
(36.8%), seizures (34.2%), and mental status changes (28.9%). Important relative factors with poor outcome
included cranial nerves paralysis, hemiparesis, fever and coma. All patients received therapeutic anticoagulation
but only 28.9% of patients got target INR. Three patients died and fourteen patients had poor outcome at
discharge. Coma were independent predictor of deadth in hospital.
Conclusions: The clinical features of cerebral venous thrombosis have a wide spectrum. Symptom onset is
either acute, subacute or chronic. Postpartum state, contraceptive drug and infections were the most common
* Khoa Nội thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Nguyễn Anh Tài, ĐT: 0913.724.242, Email: anhtaintk@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 574
predisposing factors for cerebral venous thrombosis in this study. Although 100% of patients were treated with
anticoagulation therapy. 36.8% of patients were dead or disabled at discharge.
Key words: Cerebral venous thrombosis.
MỞ ĐẦU
HKTMN là bệnh lý mạch máu não nghiêm
trọng nhưng có thể điều trị được. Khác với bệnh
lý động mạch não, HKTM thường ảnh hưởng
người trẻ và trẻ em. Đây là bệnh lý gây nhiều
thách thức đối với thầy thuốc vì lâm sàng rất
thay đổi. Mặc dù được ghi nhận trên 100 năm, tỉ
lệ bệnh chưa ghi nhận đủ trong thời gian qua do
thiếu những phương tiện để chẩn đoán chính
xác. Tỉ lệ HKTMN được báo cáo rất khác nhau
và có khuynh hướng nhiều hơn ở các nước châu
Á, đặc biệt từ các nghiên cứu từ Ấn Độ.
Nghiên cứu này được thực hiện tại BVCR.
Mục đích của chúng tôi là mô tả đặc tính lâm
sàng, cận lâm sàng, các yếu tố nguy cơ (YTNC)
và kết quả của dạng bệnh lý này, góp phần giúp
nhận dạng bệnh lý này cũng như cho khái niệm
về hình thái học của nó ở Việt nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các bệnh nhân nhập viện điều trị tại Khoa
Nội Thần kinh BVCR (từ 16 tuổi trở lên) được
chẩn đoán HKTMN trong năm 2010.
Tất cả BN đều có hình ảnh học não bộ (CT
scan hoặc MRI) và được đánh giá bởi các Bác sĩ
chuyên khoa Thần kinh. Các dữ liệu về triệu
chứng lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh học
được ghi nhận. Tình trạng chức năng được ghi
nhận lúc xuất viện theo thang điểm Rankin sửa
đổi, và phân làm 02 kết quả: tốt (điểm 0 –2) hoặc
xấu (điểm >2). Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi
nhận tỉ lệ tử vong. Tất cả bệnh nhân đều được
sử dụng kháng đông (heparin trọng lượng phân
tử thấp và thuốc kháng vitamine K đường
uống). Phân tích thống kê bằng các phương
pháp mô tả, phân tích đơn biến và đa biến. Các
yếu tố với P<0,2 trên phân tích đơn biến được
đưa vào mô hình hồi qui đa biến để tìm yếu tố
độc lập dự đoán kết quả. Dữ liệu được phân tích
nhờ phần mềm SPSS version 16.0.
KẾT QUẢ
Có 38 BN HKTMN điều trị tại Khoa nội
Thần kinh BVCR năm 2010. Tuổi trung bình là
39 (39,26 ± 2,48; từ 16 – 84), trong đó 68,5%
(26BN) dưới 45 tuổi. Tỉ lệ nam : nữ là 1 : 1. Biểu
hiện lâm sàng phổ biến nhất là đau đầu, tiếp
theo sau là yếu liệt chi, buồn nôn-nôn ói, phù
gai, co giật, rối loạn ý thức và liệt dây thần kinh
sọ. Hội chứng tăng áp lực nội sọ là biểu hiện phổ
biến nhất khi nhập viện (Bảng 1).
Kiểu khởi phát cấp tính (< 48 giờ) chiếm
18,4% (7 BN), bán cấp (sau 48 giờ đến 30 ngày)
chiếm 73,7% (28 BN), và mạn tính chiếm 7,9%
(3 BN).
Có 14 phụ nữ trong tuổi sanh đẻ (16 tuổi - 45
tuổi) chiếm 36,85% - trong đó 03 trường hợp liên
quan với thai kỳ và chu sinh, chiếm 21,4%; 05
trường hợp có sử dụng thuốc ngừa thai đường
uống, chiếm 35,7%; và 01 trường hợp dùng
thuốc ngừa thai tiêm, chiếm 7,1%.
Bảng 1: Biểu hiện lâm sàng của 38 bệnh nhân
HKTMN
Biểu hiện Tỉ lệ (n)
Đau đầu 84,2% (32)
Yếu liệt chi 60,5% (23)
Buồn nôn, nôn ói 47,4% (18)
Phù gai 36,8% (14)
Liệt dây thần kinh sọ 36,8% (14)
Rối loạn ý thức 28,9% (11)
Co giật toàn thể 34,2% (13)
Co giật cục bộ 23,7% (9)
Sốt 15,8 (6)
Rối loạn ngôn ngữ 10,5% (4)
Rối loạn tâm thần 2,6% (1)
Trạng thái động kinh 2,6% (1)
Hội chứng tăng áp lực nội sọ 34,2% (13)
03 trường hợp (7,9%) liên quan nhiễm trùng
(01 TH viêm tai xương chủm và 02 TH viêm
màng não mũ); 02 trường hợp (5,3%) được nghĩ
liên quan đến mất nước. Có 02 trường hợp
(5,3%) mắc bệnh ác tính (01 TH tăng sinh tuỷ và
01 TH ung thư gan di căn); 03 trường hợp (7,9%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 575
có bệnh toàn thân nặng và 02 trường hợp (5,3%)
kèm theo lupus ban đỏ hệ thống (01 đang điều
trị và 01 ngưng điều trị). (Bảng 2).
Bảng 2: Nguyên nhân và yếu tố thúc đẩy HKTMN
Nguyên nhân và yếu tố thúc đẩy HKTMN Tỉ lệ (n)
Nhiễm trùng vùng đầu mặt
Viêm tai xương chủm
Viêm màng não
7,9% (3/38)
2,6% (1/38)
5,3% (2/38)
Mất nước 5,3% (2/38)
Bệnh toàn thân nặng 7,9% (3/38)
Bệnh ác tính 5,3% (2/38)
Bệnh hệ thống 5,3% (3/38)
Thai kỳ-chu sinh 21% (3/14)
Thuốc ngừa thai uống 35,7 (5/14)
Thuốc ngừa thai chích 7,1% (1/14)
Tất cả bệnh nhân đều có hình ảnh học xác
định chẩn đoán. Phổ biến nhất là MRI và MRV
(94,7%), sau đó là DSA (2,6%) và CTA (2,6%). 38
BN (50%) có hình ảnh nhồi máu não, 18 BN
(47,4%) có hình ảnh xuất huyết não và 01 bệnh
nhân (2,6%) không có tổn thương não. Xoang
tĩnh mạch dọc trên bị ảnh hưởng nhiều nhất
79,3% (29 bệnh nhân), theo sau là xoang ngang
47,3% (18 bệnh nhân) và xoang sigma 21% (08
bệnh nhân) (bảng 3).
100% bệnh nhân đều được nhận kháng
đông, khởi đầu bằng sự phối hợp heparine trong
lượng phân tử thấp (lovenox) và kháng vitamine
K (sintrom). INR trung bình 1,34 (1,34±0,12). Có
đến 27 bệnh nhân (71,1%) không đạt INR mong
muốn. Ngày đạt INR mong muốn (2-4) là 1,87
ngày (1,87±0,72). Kháng sinh được sử dụng ban
đầu ở 13 bệnh nhân (34,2%) và 05 trường hợp
(13,2%) phải sử dụng Mannitol để giảm áp lực
nội sọ do tình trạng tổn thương não do HKTMN
nặng đe doạ tử vong.
Bảng 3: Các xoang tĩnh mạch bị huyết khối
Xoang tĩnh mạch bị ảnh hưởng Tỉ lệ (n)
Xoang tĩnh mạch dọc trên 76,3% (29)
Xoang tĩnh mạch ngang 47,3% (18)
Xoang tĩnh mạch sigma 21% (08)
Xoang dọc trên và xoang ngang 23,7% (09)
Xoanng dọc trên, xoang ngang và xoang
sigma
10,5% (04)
03 bệnh nhân (7,9%) có tình trạng tăng đông
(02 trường hợp giảm protein S và 01 trường hợp
giảm cả Protein C và anti thrombin III); 14 bệnh
nhân (34,2%) tăng fibrinogen; 14 trường hợp
(36,8%) không khảo sát D dimmer, 17 trường
hợp (44,7%) tăng D dimmer rõ rệt.
14 trường hợp (36,8%) có kết quả xấu lúc
xuất viện (mRS >2), trong đó 03 trường hợp
(7,9%) tử vong.
Phân tích đơn biến ghi nhận: sốt, rối loạn ý
thức, liệt các dây thần kinh sọ, yếu liệt chi, xuất
huyết não, chèn ép não thất và đẩy lệch đường
giữa trên 1 cm (trên hình ảnh học) là những biến
số liên quan với kết quả xấu (mRs >2); tuy nhiên
qua phân tích hồi qui đa biến chỉ có 03 biến số
được xem là độc lập dự đoán kết quả xấu: liệt
các dây thần kinh sọ (OR, 0,41; 95% CI, 0,17–
0,65; P=0,002), xuất huyết não (OR, 0,23; 95% CI,
0,01 –0,45; P=0,04) và sốt lúc nhập viện (OR,-
0,31; 95% CI, -0,6 – -0,28; P=0,03).
03 bệnh nhân (7,9%) tử vong trong thời gian
nằm viện. Các biến số: hôn mê (GCS <11), kiểu
khởi phát, rối loạn ý thức, huyết khối xoang
ngang, đường kính ổ tổn thương não lớn nhất
(>3cm), đẩy lệch đường giữa > 1 cm, có biểu hiện
tăng áp lực nội sọ, sốt, mất nước khi nhập viện
được ghi nhận có liên quan với tử vong trên
phân tích đơn biến. Phân tích hồi qui đa biến chỉ
tìm được 01 yếu tố độc lập dự đoán tử vong
(OR, 0,45; 95% CI, 0,18– 0,72; P=0,002).
BÀN LUẬN
Biểu hiện lâm sàng của HKTMN rất thay
đổi, có thể chỉ biểu hiện bằng đau đầu đơn
thuần, đến yếu liệt cục bộ, co giật, rối loạn tâm
thần hoặc hôn mê(9). Các biểu hiện lâm sàng
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
như các báo cáo trước đây ngoại trừ tình trạng
yếu liệt chi cao hơn các báo cáo trước đây(3,5,9)
Các dấu hiệu khu trú liên quan đến ổ nhồi máu
lớn (có và không kèm chuyển dạng xuất huyết):
thường nằm ở vùng Rolandic, trán đính và đính
chẩm. Nhồi máu não hai bên với triệu chứng hai
bên khá thường gặp và phổ biến nhất là yếu
hoặc liệt hai chân. 23 bệnh nhân (60,5%) trong
nghiên cứu chúng tôi có biểu hiện liệt chi, kết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 576
quả này cũng tương tự cho liệt các dây thần
kinh sọ (14 bệnh nhân – 36,8%)(3,5,9). Lý do của
sự khác biệt này không rõ, có lẽ chẩn đoán xác
định trễ làm HKTMN lan rộng có vai trò liên
quan. Thay đổi ý thức: phổ biến hơn so nghiên
cứu của Ferro JM(5) và thấp hơn so Bhojo A(3).
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận 05 bệnh nhân
(13,1%) hôn mê với GCS < 11. Kết quả này
tương tự ISCVT và của Bhojo A(3,5). Hôn mê
xảy ra khi nhồi máu não lớn hoặc xuất huyết
lớn một bên gây chèn ép gian não và thân não,
khi huyết khối ảnh hưởng chất xám sâu của
đồi thị, thể chai, hạ đồi, thùy chẩm trong và
phần trên tiểu não.
Nghiên cứu của chúng tôi 21,4% phụ nữ ở
giai đoạn chu sinh, kết quả này ngược lại với tỉ
lệ <15% trong báo cáo phương Tây(5) và thấp
hơn báo cáo ở châu Á(2). Giải thích sự khác biệt
với các báo cáo ở châu Á có thể là do các nghiên
cứu này kể cả các trường hợp sanh tại nhà hoặc
vùng nông thôn nơi điều kiện vệ sinh kém, thiếu
sự hỗ trợ y tế. Ngoài ra tỉ lệ sanh của chúng tôi
cao hơn ở phương Tây, chúng tôi gặp nhiều
trường hợp chu sinh hơn.
Thuốc ngừa thai đường uống liên quan
HKTMN thường được báo cáo từ 54% đến 71%
các trường hợp(4). Nghiên cứu của chúng tôi có
35,7% phụ nữ có sử dụng thuốc ngừa thai
đường uống. Điều này phản ánh tỉ lệ sử dụng
thuốc ngừa thai thấp ở khu vực chúng tôi.
Một khác biệt nhỏ nhưng quan trọng là
nhiễm trùng vùng đầu mặt ghi nhận trong
nghiên cứu này là 7,9% so với 2% trong ISCVT(5)
và 5% trong nghiên cứu của Bhojo A(3).
Tình trạng tăng đông là nguyên nhân quan
trọng gây HKTMN được báo cáo trong khoảng
15% - 22%(1,5). Chúng tôi ghi nhận tăng đông chỉ
gặp ở 7,9% bệnh nhân. Kết quả này tương tự báo
cáo ở các quốc gia châu Á (5% - 12,5%)(3). Không
rõ lý do sự khác biệt này, có thể do nghiên cứu
của chúng tôi chưa tầm soát được đầy đủ về tình
trạng tăng đông với kết quả chính xác nhất, hoặc
do khác biệt về chủng tộc, địa dư
Tỉ lệ dùng kháng đông trong nghiên cứu của
chúng tôi là 100% so với 67% trong nghiên cứu ở
Pakistan(3) và 85% trong ISCVT(5). Tuy nhiên có
đến 71,1% bệnh nhân không đạt được INR đích
trong quá trình điều trị. Điều này chứng tỏ sự
nhận thức về bệnh lý này tại khoa chúng tôi khá
tốt, nhưng chưa đầy đủ và còn chưa thống nhất.
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ tử vong và phụ
thuộc của BN lúc xuất viện là 14/38 (36,8%) thấp
hơn nghiên cứu của Pakistan 51%(3) và cao hơn
19% ở các nghiên cứu phương Tây(5). Điều này
có lẽ là do độ nặng của bệnh lúc khởi đầu điều
trị (theo ISCVT 38,7% bệnh nhân hôn mê tử
vong trong bệnh viện(5,6). Yếu tố dự đoán kết quả
không thuận lợi là liệt các dây thần kinh sọ, xuất
huyết não và sốt lúc nhập viện.
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ tử vong là 7,9%, tỉ lệ
này nằm trong khoảng ghi nhận của các nghiên
cứu khác 4.3% - 15%(2,3,5,7). Nghiên cứu chúng tôi
thấy rằng hôn mê (GCS < 11) là yếu tố độc lập
dự đoán tử vong trong bệnh viện.
Từ nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận có
một số khác biệt (hoặc tương đồng) với các
nghiên cứu ở phương Tây và một số kết quả các
nước châu Á như: tình trạng chu sinh, nhiễm
trùng vùng đầu mặt phổ biến hơn trong nghiên
cứu của chúng tôi. Thuốc ngừa thai đường uống
vẫn là yếu tố nguy cơ quan trọng của HKTMN
(tuy thấp hơn so các nghiên cứu phương Tây). Tỉ
lệ dùng thuốc kháng đông cao nhưng tỉ lệ đạt đến
INR đích để đạt hiệu quả trên lý thuyết thấp và
ảnh hưởng đến kết quả điều trị chưa tốt. Điều này
dẫn đến cần có xây dựng một phác đồ, qui trình
sử dụng thuốc kháng đông đúng khi có chỉ định
(tránh tâm lý của một số thầy thuốc hiện tại là sợ
chảy máu thêm khi dùng kháng đông, sợ tắc
mạch tiến triển khi không dùng kháng đông từ
đó dẫn đến thái độ sử dụng thuốc ngập ngừng).
Kết quả của nghiên cứu chúng tôi tuy có kết cục
về tử vong tương tự các nghiên cứu trước nhưng
tỉ lệ phụ thuộc về chức năng (mRS > 2) cao hơn
các báo cáo ở phương Tây, nhưng lại thấp hơn các
nghiên cứu ở Trung Đông cho thấy nhận thức về
chẩn đoán và điều trị bệnh lý này ở đơn vị chúng
tôi cần được phát triển thêm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 577
Chúng tôi đề nghị nên chú ý đến bệnh lý
này hơn nữa trong các đơn vị điều trị khác khi
có các triệu chứng như đã mô tả ở phần kết quả
(do tính chất rất phong phú của các triệu chứng,
dấu hiệu của bệnh lý này, và hiệu quả điều trị
khả quan). Cần phát triển việc tầm soát các tình
trạng tăng đông di truyền hoặc mắc phải hơn
nữa để kết quả điều trị và phòng ngừa tái phát
hiệu quả hơn. Cần nghiên cứu để đánh giá vai
trò D dimmer. Vì tầm quan trọng của các biểu
hiện lâm sàng, nguyên nhân và có thể là khác
biệt trong điều trị ở các hình thái chủng tộc và
địa dư khác nhau, do đó cần nghiên cứu mở
rộng đa trung tâm và thời gian theo dỏi kéo dài
hơn để nhận biết rõ hơn bệnh lý này ở nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agnelli G, Verso M (2008) Epidemiology of Cerebral Vein
and Sinus Thrombosis in Handbook on Cerebral Venous
Thrombosis. S. Karger
2. Ferro JM, Canhão P (2008) Complications of Cerebral Vein
and Sinus Thrombosis in Handbook on Cerebral Venous
Thrombosis. S. Karger.
3. Ferro JM, Canhao P, Stem J, Bousser MG,
Barinagarrementeria F. (2004) Prognosis of cerebral vein and
dural sinus thrombosis. Results of the international study on
cerebral vein and dural sinus thrombosis (ISCVT) Stroke.
35:664 – 670.
4. Iorio A, Barnes C, Vedovati MC, Favaloro EJ (2008)
Thrombophilia and Cerebral Vein Thrombosis in Handbook
on Cerebral Venous Thrombosis. S. Karger.
5. Khealani BA, Wasay M (2008) Cerebral Venous Thrombosis:
A Descriptive Multicenter Study of Patients in Pakistan and
Middle East. Stroke 39:2707-2711.
6. Lindgren A. (2008) Long-Term Prognosis of Cerebral Vein
and Sinus Thrombosis in Handbook on Cerebral Venous
Thrombosis. S. Karger.
7. Masuhr F, Einhäupl K (2008) Treatment of Cerebral Venous
and Sinus Thrombosis in Handbook on Cerebral Venous
Thrombosis. S. Karger.
8. Palmerini MPF, Bogousslavsky J. (2008) Clinical Presentations
of Cerebral Vein and Sinus Thrombosis in Handbook on
Cerebral Venous Thrombosis. S. Karger.
9. Prakash C, Bansal BC (2004) Cerebral Venous Thrombosis.
Journal of Indian Academy of Clinical Medicine _ Vol. 5 _ No.
1:55-60.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- huyet_khoi_tinh_mach_nao_dac_diem_lam_sang_va_yeu_to_du_doan.pdf