Đối với bệnh nhân này, việc bị tái tắc lần hai
làm chúng ta phải lưu tâm đến những yếu tố gây
tắc cấp trong stent. Các yếu tố nguy cơ hình
thành HTTS rơi vào các thể loại sau: thủ thuật,
bệnh nhân, tổn thương, đặc điểm stent cũng như
tình trạng ngưng liệu pháp chống tiểu cầu(10).
Mỗi yếu tố nguy cơ có thể tiên đoán bệnh nhân
sẽ bị HTTS, mà đặc trưng bởi hoạt hóa và ngưng
tập tiểu cầu qua một hay nhiều cơ chế sau đây(10):
- Dòng chảy mạch vành chậm kéo dài (tại
chỗ hay tại động mạch) xảy ra cùng với bóc tác
hay giảm tưới máu .
- Trước khi tái nội mạc hóa, sự tiếp xúc của
dòng máu với các thành phần gây tăng đông
dưới nội mạc chẳng hạn như yếu tố mô hay bản
thân stent.
- Mất khả năng ức chế kết dính hay ngưng
tập tiểu cầu vào thời điểm có yếu tố nguy cơ tăng
đông máu, điều này cũng có thê xảy ra khi
ngưng liệu pháp chống tiểu cầu sớm hay có tình
trạng kháng thuốc chống tiểu cầu.
Trên bệnh nhân này đã có nhiều yếu tố liệt
kê ở trên như thủ thuật cấp cứu, cơ địa tăng
đông, tổn thương nhiều huyết khối tồn lưu và
tình trạng kháng clopidogrel, do đó khả năng tắc
cấp lại là điều có thể xảy ra. Trong lần bị tắc bán
cấp thứ hai, biểu hiện choáng nhưng huyết động
vẫn khá hơn lần đầu do đó có thời gian cho thủ
thuật viên tối ưu hóa dòng chảy, giải quyết
huyết khối bám thành và thay đổi liệu pháp điều
trị ngay sau thủ thuật. Trên bệnh nhân chẩn
đoán nhồi máu do đề kháng Clopidogrel thì
được đề nghị nên ngưng và thay thế bằng
Prasugrel 10mg mỗi ngày hoặc Ticargrelor 90mg
hai lần ngày (class 2C). Trong trường hợp chưa
có thuốc trên thì có thể sử dụng liều cao
clopidogrel (150mg/ngày) và phải theo dõi sát
cũng như kiểm tra hiệu quả kháng tiểu cầu của
clopidogrel bằng các xét nghiệm cận lâm sàng,
trong trường hợp này chúng tôi sử dụng
phương pháp PFA – 100 P2Y.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Huyết tắc trong Stent động mạch vành sau can thiệp và các biện pháp phòng ngừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 186
HUYẾT TẮC TRONG STENT ĐỘNG MẠCH VÀNH
SAU CAN THIỆP VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
Ngô Minh Hùng*, Bàng Ái Viên*, Nguyễn Tuấn Anh**, Võ Thành Nhân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Huyết tắc trong stent (HTTS) được định nghĩa là tắc cấp do huyết khối trong đoạn mạch
vành đã đặt stent. Biểu hiện lâm sàng càng nặng và số lần tái tắc càng nhiều, tỉ lệ sống còn ngắn hạn và dài
hạn càng thấp.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm xem lại và đánh giá sự hiệu quả của hồi sức tích cực kéo dài đồng thời với việc
tái thông mạch vành cấp cứu trong các biến chứng tim mạch nặng do tắc cấp trong stent.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nhân một trường hợp lâm sàng
Kết quả: Bệnh nhân nữ 76 tuổi xuất hiện ngưng tim ngay sau khi vừa được thực hiện thủ thuật can thiệp
mạch vành cấp cứu tiên phát vì nhồi máu cơ tim cấp vùng hoành, thất phải giờ thứ 3, Killip I và chuyển sang
phòng hồi sức. Ngay lập tức bệnh nhân được hồi sức tim phổi tích cực và tái thông lại thành công động mạch
vành phải tái tắc cấp tính. Bệnh nhân từ từ phục hồi điện học và huyết động học sau 14 ngày chăm sóc tích cực tại
phòng hồi sức tim mạch. Tuy nhiên, vào ngày thứ 14 ECG cho thấy ST chênh lên lại ở vùng hoành và bệnh nhân
lại rơi vô tình trạng sốc. Thủ thuật can thiệp mạch vành cấp cứu lại lần 2 được thực hiện thành công và cứu bệnh
nhân qua cơn. Kết quả xét nghiệm đông máu sau đó cho thấy bệnh nhân có tình trạng tăng đông và xét nghiệm đo
độ kháng clopidogrel bất thường.
Kết luận: Hồi sức tim phổi cơ bản và nâng cao kéo dài kết hợp đồng thời với tái thông mạch vành cấp cứu là
chìa khóa cho sự thành công đối với huyết tắc trong stent nặng gây ngưng tim hay choáng tim. Thay đổi thuốc
kháng tiểu cầu hoặc tăng liều trong trường hợp đáp ứng bất thường với clopidogrel nên được thực hiện để phòng
ngừa tái phát tắc trong stent.
Từ khóa: can thiệp mạch vành tiên phát, tắc trong stent, ngưng tim
ABSTRACT
RECURRENT STENT THROMBOSIS CAUSING SEVERELY CARDIAC COMPLICATIONS
AFTER PRIMARY ANGIOPLASTY: A CLINICAL CASE REPORT
Ngo Minh Hung; Bang Ai Vien; Nguyen Tuan Anh; Vo Thanh Nhan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 186-192
Background: Stent thrombosis is defined as acute thrombotic occlusion in the stented segment of a coronary
artery. The more severe clinical situation and frequent number of re-occlusions are, the lower the short and long-
term survival rate is.
Objective: To review and asscess the success of adequately advanced cardiac resuscitation combined with
simultaneous emergency re-angioplasty for severe complications of stent thrombosis.
Method: This is a clinical case report.
Result: A 76 year-old female patient developed cardiac arrest right after arriving to the recovery room after
primary percutaneous coronary intervention of inferior wall and right ventricle ST elevation myocardial
* Khoa Tim mạch Can thiệp BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: ThS Bs Ngô Minh Hùng, ĐT: 0906913619, Email: drngominhhung@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 187
infarction, Killip class I, 3 hours from onset of chest pain. The patient was immediately and aggressively
resuscitated more than 1 hour before successfully re-opening the totally occluded proximal RCA with re-
angioplasty. The patient gradually recovered from hemodynamic and arrhythmic compromise after 14 days in
CCU. However, at the day 14, the patient’s ECG again showed ST elevation and she was again in shock.
Primary angioplasty procedure was again performed successfully and saved patient’s life. Laboratory
evaluation of hypercoagulability yielded positive results, and abnormal response to clopidogrel was revealed by the
PFA – 100, P2Y.
Conclusion: Aggressively basic and advanced cardiac pulmonary resuscitation combined with simultaneous
re-angioplasty are keys of success for cardiac arrest or shock caused by severe stent thrombosis. Changing to
another anti-platelet therapy or increasing the current dose in case of abnormal response to clopidogrel should be
performed to prevent future recurrent stent thrombosis.
Keywords: primary angioplasty, stent thrombosis, cardiac arrest
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Huyết tắc trong stent (HTTS) được định
nghĩa là tắc cấp do huyết khối trong đoạn mạch
vành đã đặt stent, thường biểu hiện là đau ngực,
khó thở đột ngột trở lại sau lần can thiệp cuối
cùng, điện tim có thể biểu hiện đoạn ST chênh
lên mới và/hoặc loạn nhịp kèm theo. HTTS
thường xảy ra trong vài ngày đầu thậm chí đến
nhiều năm sau đặt stent. HTTS được phân loại
kinh điển là HTTS cấp, xảy ra trong 24 giờ, HTTS
bán cấp, xảy ra trong vòng 30 ngày, hay HTTS
muộn, xảy ra sau 30 ngày (9). Biểu hiện lâm sàng
càng nặng và số lần tái tắc càng nhiều, tỉ lệ sống
còn càng thấp. Ngoài ra, đối với những bệnh
nhân nguy cơ cao kèm với bệnh phối hợp nặng
thì tỉ lệ tử vong rất cao và nếu sống còn thì tiên
lượng lâu dài không được đảm bảo vì số lượng
cơ tim và chức năng thất trái bị giảm nặng. Đối
với những bệnh nhân biểu hiện ngay ban đầu là
ngưng tim thì việc hồi sức tích cực hiệu quả ngay
từ đầu và đủ lâu để giúp cho cơ tim bị choáng
cầm cự trong khi chờ tiếp cận tái thông mạch cấp
cứu hiệu quả là yếu tố quyết định sư thành công
của điều trị.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân Nguyễn Thị Ư. nữ, 76 tuổi, đột
ngột khởi phát đau ngực trái đột ngột kéo dài
trên 20 phút, không giảm khi ngồi nghỉ kèm mệt,
vả mồ hôi, không triệu chứng ngất. Điện tâm đồ
tuyến trước là nhịp xoang, có hình ảnh ST chênh
lên 2 – 3 mm ở chuyển đạo II, III, aVF và không
có hình ảnh chênh xuống hay chênh lên của các
chuyển đạo trước tim (hình 1). Điện tâm đồ tại
phòng cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy là nhịp
xoang, có hình ảnh ST chênh lên 2 – 3 mm ở
chuyển đạo II, III, aVF và có hình ảnh chênh
xuống ở các chuyển đạo trước tim trái V2 – V6, I,
aVL, và chênh lên ở các chuyển đạo trước tim
phải V3R, V4R (hình 2). Chẩn đoán xác định lúc
nhập viện là nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) vùng
hoành - thất phải giờ thứ 3 killip 1. Siêu âm tim
có hình ảnh giảm động thành dưới và thành sau
thất trái và chức năng tâm thu thất trái bảo tồn.
Bệnh nhân được chỉ định chụp và can thiệp
mạch vành cấp cứu trong tình trạng huyết động
ổn định. Kết quả chụp mạch vành cho thấy tắc
đoạn giữa động mạch vành phải (RCA II) kèm
huyết khối, thâm nhiễm đoạn gần động mạch
liên thất trước (LAD I) và hẹp 80-90% đoạn D1
(mạch máu nhỏ, đường kính 2.5mm), hệ mạch
vành ưu thế phải (hình 3). Bệnh nhân được can
thiệp nhánh RCA II với stent tẩm thuốc Nobori
3.5x28mm (biolimus A9 polyme thoái giáng sinh
học) với ống thông JR 4.0-6F; dây dẫn run-
through 0,014’. Chụp kiểm tra sau đặt stent dòng
chảy TIMI 3, còn huyết khối bám stent và tắc
phần đoạn xa ở động mạch xuống sau (PDA) và
một nhánh động mạch sau bên thất trái (PLV).
Bệnh nhân được chuyển sang phòng hồi sức sau
thủ thuật với huyết động và nhịp ổn định. Tuy
nhiên, ngay sau khi vừa qua phòng hồi sức sau
thủ thuật, bệnh nhân gồng người tím tái, mạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 188
không bắt được, monitor ECG hình ảnh rung
thất sóng nhỏ. Ngay lập tức bệnh nhân được hồi
sức tích cực cơ bản và hồi sức tim mạch nâng
cao. Diễn tiến chính trong 30 phút đầu là rung
thất sóng nhỏ và vô mạch (hình 4). Sốc điện
không đồng bộ được thực hiện nhiều lần xen kẻ
với xoa bóp tim ngoài lồng ngực liên tục trong 30
phút đầu, thuốc vận mạch (Dopamin,
Adrenaline và Noradrenaline) và chống loạn
nhịp (Cordarone) và các thuốc chuyên dùng
khác được sử dụng. Sau cơn, ECG 12 chuyển đạo
ghi nhận hình ảnh ST chênh lên 4-5mm ở
chuyển đạo II, III, aVF (nhiều hơn so ECG ngay
sau can thiệp) và có hình ảnh chênh xuống nhiều
hơn ở các chuyển đạo trước tim trái (hình 5).
Chẩn đoán lúc này là tắc cấp trong stent và chỉ
định chụp mạch vành cấp cứu trong tình trạng
bệnh nhân mê bóp bóng qua nội khí quản, huyết
động không ổn định (huyết áp tâm thu 50 –
70mmHg) với thuốc vận mạch (Dopamin và
Noradrenaline), monitor ECG vẫn còn cơn
nhanh thất ngắn mặc dù đang truyền Cordarone
liều 1mg/phút. Hồi sức tim mạch nâng cao kèm
xen kẻ với nhiều đợt xoa bóp tim kết hợp với
bóp bóng qua nội khí quản liên tục vì nhịp trở lại
của bệnh nhân không giữ được huyết động. Rối
loạn toan kiềm nặng nề xuất hiện: pH: 7,04;
HCO3-: 10,6; sO2: 89,6%; pCO2: 38,9. Trong 30
phút tiếp theo là sự giằng co để giữ nhịp và các
rối loạn để có huyết động tối thiểu để đưa ngay
vào phòng thông tim tái thông lại động mạch đã
bị tắc cấp ngay sau thủ thuật can thiệp tiên phát.
Kết quả chụp mạch vành kiểm tra cho thấy
huyết khối gây tắc cấp trong stent RCA II với
dòng TIMI 1. Bệnh nhân được hút huyết khối
RCA, PDA, PLV và chụp lại với dòng TIMI 2-3,
đồng thời đặt máy tạo nhịp tạm thời (vì có lúc
ECG cho thấy bị bloc AV hoàn toàn), đặt huyết
áp xâm lấn (hình 6). Lâm sàng bệnh nhân ngay
sau thủ thuật chưa cải thiện ngay huyết động
(huyết áp xâm lấn 40-60mmHg, với nhịp máy,
SpO2 #80%), áp lực cuối tâm trương thất trái 12
mmHg (đo qua ống thông JR 6F), huyết động
phụ thuộc vận mạch, thở máy, hôn mê sau
ngưng tim ngưng thở với Glasgow 4-5 điểm,
đồng tử 2 bên 3 – 4 mm mất phản xạ ánh sáng.
Ngoài các thuốc kháng sinh vì viêm phổi và vận
mạch, chế độ điều trị chống huyết khối
(Enoxaparin, Aspirin và Clopidogrel) được duy
trì và theo dõi sát các biến động của ECG và men
tim. Lâm sàng cho thấy bệnh nhân tỉnh và không
biểu hiện yếu liệt, sinh hiệu ổn định dần dần.
MSCT sọ não cũng được thực hiện nhưng không
thấy tổn thương não. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn
phụ thuộc thở máy. Ngày thứ 14 sau nhập viện
(tức 6 ngày sau ngưng kháng đông), nhịp tim
tăng, huyết động thấp dần mặc dù bệnh nhân
vẫn đang được truyền vận mạch, ECG ghi nhận
đoạn ST chênh lên trở lại ở chuyển đạo II, III,
aVF (hình 7), men tim tăng trở lại (CKMB 271 so
với 15 U/L; Troponin I >1ng/ml so với 0.5ng/ml).
Bệnh nhân được chẩn đoán là tắc bán cấp trong
stent gây choáng tim và được chụp mạch vành
cấp cứu lần thứ 3 với hình ảnh huyết khối gây
tắc trong stent RCA. Bệnh nhân được nong bóng
trong stent, dòng chảy sau nong TIMI 3 vẫn còn
ít huyết khối đoạn xa (hình 8). Chế độ điều trị
tiếp theo kháng đông trong 7 ngày và chống kết
tập tiểu cầu liều gấp đôi (cụ thể là Aspirin
200mg/ngày và clopidogrel 150mg/ngày). Trong
quá trình đó, chúng tôi có tầm soát xét nghiệm
đánh giá chức năng kết tập của tiểu cầu PFA 100-
P2Y > 300 giây (giá trị bình thường < 106 giây).
Diễn tiến bệnh nhân tiếp theo cai được máy thở,
huyết động ổn định, tri giác cải thiện sau đó 10
ngày và xuất viện không còn triệu chứng lâm
sàng; đồng thời duy trì chế độ điều trị chống kết
tập tiểu cầu kép trong đó vẫn duy trì liều cao
clopidogrel 150mg/ngày).
Hình 1: ECG tuyến trước
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 189
Hình 2: ECG tại cấp cứu Chợ Rẫy: Nhịp xoang, ST
vẫn còn chênh lên ở II, III, aVF và V4R, V5R, chênh
xuống ở V2 – V6, I, aVL
Hình 3.1: Tổn thương mạch vành phải lần đầu
Hình 3.2: sau can thiệp
Hình 4: ECG khi bệnh nhân ngưng tim: rung thất
sóng nhỏ
Hình 5: ECG sau can thiệp mạch vành nhánh RCA II
và sau hồi sức ngưng tim. ST chênh lên nhiều hơn ở
II, III, aVF
Hình 6.1: Tổn thương
mạch vành lần 2
Hình 6.2: Sau can thiệp
Hình 7: ECG tái tắc lần 2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 190
Hình 8.1: Tổn thương
mạch vành tái tắc lần 3
Hình 8.2: Sau can thiệp
lần 3
BÀN LUẬN
Bệnh nhân lớn tuổi, nữ, nhồi máu cơ tim cơ
tim cấp thường có tỉ lệ tử vong cao hơn nhóm
bệnh nhân khác(8). Trái ngược với nhồi máu cơ
tim thành trước, các đặc điểm nguy cơ cao
thường hằng định, nhồi máu cơ tim cấp thành
dưới ở nhóm bệnh nhân nguy cơ có các đặc
điểm đơn giản dễ dàng nhận dạng trên ECG bao
gồm: chuyển đạo trước tim chênh xuống, block
nhĩ thất độ 3 và chuyển đạo trước tim phải
chênh lên(3). Rõ ràng bệnh nhân này nhập viện
với huyết động tương đối ổn định, tuy nhiên,
trên ECG thì rõ ràng là bệnh nhân nguy cơ cao
về tổn thương giải phẫu học động mạch vành.
Bên cạnh đó, nếu so sánh 2 ECG của tuyết trước
và tại khoa Cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy, đoạn ST
ở các chuyển đạo trước tim trái chênh xuống
nhiều hơn và chênh lên cả ở chuyển đạo tim
phải. Điều này cho thấy nhồi máu đang có xu
hướng lan rộng. Bệnh nhân được can thiệp mạch
vành cấp cứu nhanh chóng. Mặc dù kết quả còn
ít huyết khối bám thành stent và tắc ở phần xa
PDA và PLV nhưng dòng chảy TIMI 3 ở những
nhánh còn lại.
Bệnh nhân này xuất hiện triệu chứng ban
đầu sau khi được can thiệp mạch vành là ngưng
tim sau đó kèm với rối loạn nhịp thất nặng dễ
làm chúng ta liên tưởng đến rối loạn nhịp do tái
tưới máu sau tái thông mạch vành. Tuy nhiên,
thực tế không phải như vậy, sau khi hồi sức và
chuyển nhịp về xoang thì đã bộc lộ rõ là ST
chênh lên cao hơn trước đó và hiện diện ở nhiều
chuyển đạo thành dưới (II, III, aVF). Lúc này
chẩn đoán nghiêng hẳn về khả năng tắc cấp
trong stent là hợp lý và vì vậy thái độ xử trí cũng
phải phù hợp.
Huyết tắc trong stent (HTTS) là chẩn đoán
nên nghĩ đến đầu tiên trên bất kỳ bệnh nhân có
hội chứng vành cấp sau đặt stent đặc biệt là
trong năm đầu. Biểu hiện lâm sàng trong hầu hết
các trường hợp là NMCT cấp ST chênh lên. Theo
một nghiên cứu sổ bộ ở Mỹ trong 7100 trường
hợp chẩn đoán huyết tắc trong stent theo dõi
trong 16 tháng thì tỉ lệ NMCT cấp có đoạn ST
chênh lên là 60%; NMCT ST không chênh là 23%
và đau thắt ngực không ổn định 17%. Bệnh nhân
huyết tắc sớm trong stent (<1 tháng) sau đặt stent
thường tiến triễn đến sốc tim so với những
trường hợp huyết tắc muộn (1 - 12 tháng) và
chụp mạch vành tại thời điểm đó thường là
huyết khối gây tắc hoàn toàn dòng chảy (TIMI 0)
ở mạch máu có liên quan. Mạch máu thủ phạm
gặp nhiều nhất là LAD khoảng 48% trong khi
động mạch vành phải là 38%(1).
Chẩn đoán xác định huyết tắc trong stent
theo tiêu chuẩn ARC (Academic Research
Consortium) khi chụp mạch vành xác định bằng
chụp mạch vành hay mô học xác định huyết
khối có nguồn gốc trong stent hay 5 mm tính từ
đầu gần hay đầu xa stent ở mạch máu có tắc hay
không tắc trên bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng
của thiếu máu cục bộ cơ tim lúc nghỉ, biến đổi
động học điện tâm đồ và động học men tim 48h
sau thủ thuật(4). Hình ảnh chụp mạch vành cấp
cứu trên bệnh nhân này đã xác định chẩn đoán
là tắc cấp tính trong stent đoạn giữa RCA.
Bệnh nhân trong báo cáo này của chúng tôi
có thời gian hồi sức tim mạch cơ bản và nâng
cao kéo dài 60 phút với rất nhiều biến động
huyết động và nhịp học. Trong quá trình hồi
sức, đã có những lúc sắp đưa ra quyết định
chấm dứt hồi sức tim phổi vì thời gian đã kéo
dài nhưng vẫn chưa thấy tín hiệu hồi phục của
nhịp và huyết động. Tuy nhiên, việc kéo dài
thời gian đã thực sự cho bệnh nhân cơ may ổn
định huyết động hơn để được tái thông mạch
giải quyết dòng chảy giúp hồi phục dần chức
năng tim.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 191
Một nghiên cứu đăng trên Lancet online
9/2012 cho thấy những bệnh nhân được tiếp tục
hồi sức tim phổi kéo dài thì khả năng được cứu
sống cao hơn và nguy cơ tổn thương não cũng
thấp hơn(7). Nghiên cứu được thực hiện trên 435
bệnh viện tại Mỹ từ năm 2000 đến năm 2008 trên
64399 bệnh nhân. Phương pháp phân tích được
sử dụng là phân tích hồi quy đa biến. Gần một
nửa số bệnh nhân (31198 of 64339 (48,5%)) có tự
tuần hoàn trở lại, tuy nhiên, chỉ có 9912 bệnh
nhân (15,4%) sống sót xuất viện. Đối với bệnh
nhân tự có tuần hoàn trở lại thì thời gian trung vị
của hồi sức tim phổi là 12 phút (6’-21’) so với 20
phút (14’-30’) ở nhóm tử vong. So sánh hai nhóm
bệnh nhân tử vong được hồi sức tại bệnh viện ở
phân vị có thời gian hồi sức trung vị ngắn nhất
(16 phút [15-17]) thì nhóm bệnh nhân tử vong
cũng được hồi sức tại bệnh viện ở phân vị có
thời gian hồi sức trung vị dài nhất (25 min [25-
28]) có khả năng phục hồi tuần hoàn tự nhiên
cao hơn (với tỉ số nguy cơ 1,12, 95% CI 1,06-1,18;
p<0,0001) và sống còn được xuất viện cũng cao
hơn (1,12, 1,02-1,23; p = 0,021). Nghiên cứu kết
luận rằng các cố gắng kéo dài một cách hệ thống
thời gian hồi sức có thể cải thiện sống còn ở bệnh
nhân nguy cơ cao.
Một nghiên cứu khá nổi tiếng về choáng tim
là nghiên cứu SHOCK cho thấy phụ nữ lớn tuổi
ít được điều trị tích cực nhất là vấn đề tái thông
mạch vành cấp cứu. Vì vậy, tỉ lệ tử vong nội viện
của bệnh nhân nữ lớn tuổi cao hơn hẳn so với
bệnh nhân trẻ (76% so với 55%) sau khi đã loại
bỏ các yếu tố gây nhiễu khác. Nghiên cứu
SHOCK cũng cho thấy ở các bệnh nhân lớn tuổi
được tái thông mạch vành sớm, tiên lượng dài
hạn được cải thiện hơn so với nhóm không được
tái thông mạch vành(5). Chọn lựa bệnh nhân có
tổng trạng cho phép, thời gian choáng tim ngắn
và ít bệnh lý nặng kết hợp để tiến hành điều trị
tích cực và tái thông mạch vành là chìa khóa
giúp cải thiện sống còn ngắn hạn và dài hạn cho
bệnh nhân(11). Hiểu được tầm quan trọng của tái
thông mạch nhưng loạn nhịp thất nặng và bất ổn
huyết động là hai cản trở rất lớn để chuyển bệnh
nhân vào phòng thông tim. Khi nào và làm như
thế nào cho đủ là câu hỏi lớn lúc này. Ở lần can
thiệp lại thứ nhất, do thời gian không cho phép
vì huyết động bất ổn nặng kèm với loạn nhịp
nên chỉ đặt mục tiêu khôi phục dòng chảy bằng
hút huyết khối là chính chứ không chú trọng đến
nong thêm nơi đặt stent vì tình trạng tăng đông
đang dâng cao với huyết khối nhiều, động tác
nong với áp lực cao sẽ tiếp tục làm bong những
huyết khối bám thành stent trôi xuống làm bít
tắc hạ lưu mạch máu.
Theo y văn những năm 70 – 80 của thế kỷ
trước, tỉ lệ tử vong do choáng tim thường từ 80 –
90%(6). Tuy nhiên, các nghiên cứu lớn gần đây
cho thấy tỉ lệ tử vong do choáng tim dao động từ
48 – 74%, trong đó tỉ lệ tử vong ngắn hạn dao
động từ 42 – 48%(2). Những tiến bộ này có được
do nhiều mặt tiến bộ của khoa học kỹ thuật
trong đó can thiệp mạch vành cấp cứu đóng vai
trò then chốt.
Đối với bệnh nhân này, việc bị tái tắc lần hai
làm chúng ta phải lưu tâm đến những yếu tố gây
tắc cấp trong stent. Các yếu tố nguy cơ hình
thành HTTS rơi vào các thể loại sau: thủ thuật,
bệnh nhân, tổn thương, đặc điểm stent cũng như
tình trạng ngưng liệu pháp chống tiểu cầu(10).
Mỗi yếu tố nguy cơ có thể tiên đoán bệnh nhân
sẽ bị HTTS, mà đặc trưng bởi hoạt hóa và ngưng
tập tiểu cầu qua một hay nhiều cơ chế sau đây(10):
- Dòng chảy mạch vành chậm kéo dài (tại
chỗ hay tại động mạch) xảy ra cùng với bóc tác
hay giảm tưới máu .
- Trước khi tái nội mạc hóa, sự tiếp xúc của
dòng máu với các thành phần gây tăng đông
dưới nội mạc chẳng hạn như yếu tố mô hay bản
thân stent.
- Mất khả năng ức chế kết dính hay ngưng
tập tiểu cầu vào thời điểm có yếu tố nguy cơ tăng
đông máu, điều này cũng có thê xảy ra khi
ngưng liệu pháp chống tiểu cầu sớm hay có tình
trạng kháng thuốc chống tiểu cầu.
Trên bệnh nhân này đã có nhiều yếu tố liệt
kê ở trên như thủ thuật cấp cứu, cơ địa tăng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 192
đông, tổn thương nhiều huyết khối tồn lưu và
tình trạng kháng clopidogrel, do đó khả năng tắc
cấp lại là điều có thể xảy ra. Trong lần bị tắc bán
cấp thứ hai, biểu hiện choáng nhưng huyết động
vẫn khá hơn lần đầu do đó có thời gian cho thủ
thuật viên tối ưu hóa dòng chảy, giải quyết
huyết khối bám thành và thay đổi liệu pháp điều
trị ngay sau thủ thuật. Trên bệnh nhân chẩn
đoán nhồi máu do đề kháng Clopidogrel thì
được đề nghị nên ngưng và thay thế bằng
Prasugrel 10mg mỗi ngày hoặc Ticargrelor 90mg
hai lần ngày (class 2C). Trong trường hợp chưa
có thuốc trên thì có thể sử dụng liều cao
clopidogrel (150mg/ngày) và phải theo dõi sát
cũng như kiểm tra hiệu quả kháng tiểu cầu của
clopidogrel bằng các xét nghiệm cận lâm sàng,
trong trường hợp này chúng tôi sử dụng
phương pháp PFA – 100 P2Y.
KẾT LUẬN
HTTS là biến chứng ít gặp nhưng nghiêm
trọng sau thủ thuật can thiệp mạch vành. Hầu
hết bệnh nhân có biểu hiện là NMCT cấp có
đoạn ST chênh lên, có hay không có kèm theo rối
loạn nhịp thất nặng.
Theo dõi sát bệnh nhân mạch vành trong giai
đoạn cấp, hồi sức tim phổi cơ bản và nâng cao
kéo dài kết hợp đồng thời với tái thông mạch
vành cấp cứu là chìa khóa cho sự thành công đối
với huyết tắc trong stent nặng gây ngưng tim
hoặc choáng tim.
Thay đổi thuốc kháng tiểu cầu hoặc tăng liều
trong trường hợp đáp ứng bất thường với
clopidogrel nên được thực hiện để phòng ngừa
tái phát tắc trong stent.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Armstrong EJ, Feldman DN, Wang TY, et al. (2012) Clinical
presentation, management, and outcomes of angiographically
documented early, late, and very late stent thrombosis. JACC
Cardiovasc Interv; 5:131.
2. Babaev A, Frederick PD, Pasta DJ, et al. (2005) Trends in
management and outcomes of patients with acute myocardial
infarction complicated by cardiogenic shock. JAMA; 294:448.
3. Berger PB, Ryan TJ; Inferior myocardial infarction. high-risk
subgroups, Circulation 81 1990 401-411.
4. Brodie BR, Hansen C, Garberich RF, et al. (2012) ST-segment
elevation myocardial infarction resulting from stent
thrombosis: an enlarging subgroup of high-risk patients. J Am
Coll Cardiol; 60:1989.
5. Dzavik V, Sleeper LA, Cocke TP, et al (2003): Early
revascularization is associated with improved survival in
elderly patients with acute myocardial infarction complicated
by cardiogenic shock: A report from the SHOCK trial registry.
EurHeartJ;24:828–837.
6. Goldberg RJ, Gore JM, Alpert JS, et al.(1991). Cardiogenic
shock after acute myocardial infarction. Incidence and
mortality from a community-wide perspective, 1975 to 1988.
N Engl J Med.; 325:1117.
7. Goldberger ZD, Chan PS, Berg RA, et al. (2012) Duration
of resuscitation efforts and survival after in-hospital
cardiac arrest: an observational study. Lancet. Oct
27;380(9852):1473-81.
8. Hochman JS, Buller CE, Sleeper LA, et al (2000): Cardiogenic
shock complicating acute myocardial infarction—Etiologies,
management and outcome: A report from the SHOCK.
9. Levine GN, Anderson JL., Albert N et al. (2011).
ACCF/AHA/SCAI Guideline for Percutaneous Coronary
Intervention. Catheterization and Cardiovascular
Interventions 00:000–000 (2011).
10. Lüscher TF, Steffel J, Eberli FR, et al.(2007). Drug-eluting stent
and coronary thrombosis: biological mechanisms and clinical
implications. Circulation; 115:1051.
11. Menon V, Hochman JS. (2003). Management of cardiogenic
shock complicating acute myocardial infarction. Heart;88:531–
537.
Ngày nhận bài: 22/02/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- huyet_tac_trong_stent_dong_mach_vanh_sau_can_thiep_va_cac_bi.pdf