Kế hoạch hoá nói chung ở Việt Nam – Giải pháp và kiến nghị

Qua bài viết có nhiều nhược điểm và thiếu sót này tôi xin đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc nghiên cứu, tìm hiểu kế hoạch hoá nói chung, nội dung kế hoạch hoá nói riêng & việc đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cả về mặt lý luận và có phần thực tiễn. Mặc dù vẫn biết lý thuyết thì luôn là mầu xám và cây đời mãi mãi xanh tươi. Nhưng qua đây tôi cũng thấy mình hiểu được rất nhiều về không chỉ lý luận của kế hoạch hoá mà còn về thực tiễn kế hoạch hoá. Đó sẽ là cơ sở, nền tảng rất bổ ích cả về mặt nhận thức lẫn thực tiễn sau này, không chỉ cho riêng bản thân tôi mà còn cho bất cứ ai khi đã đi vào nghiên cứu kế hoạch hoá,

doc59 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 940 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch hoá nói chung ở Việt Nam – Giải pháp và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u. Nội dung của quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội Về cơ bản nội dung của quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội (gọi tắt là quy hoạch phát triển ) có các nội dung sau: quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội; quy hoạch ngành; quy hoạch vùng Quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội mục đích là xác định các mục tiêu và bố trí không gian các ngành kinh tế ở mức độ tổng thể Quốc gia, nó đòi hỏi phải phân tích vùng kinh tế, xác định các vùng trọng điểm, các vùng không trọng điểm để có các chính sách cũng như giải pháp và quan điểm phát triển từng vùng, xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội như mục tiêu về tăng trưởng (g), mục tiêu về việc làm, các mục tiêu về kết cấu hạ tầng(kết cấu hạ tầng về kinh tế về xã hội), các mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực, về các nguồn lực cho sự phát triển,cho từng vùng cụ thể. Quy hoạch ngành: xuất phát từ các quy hoạch tổng thể ngành, các chiến lược phát triển ngành, các quan điểm phát triển. Thực hiện phân tích tiềm lực kinh tế – xã hội của đất nước, của ngành rút ra nét đặc trưng, đặc thù, điểm mạnh – yếu của ngành. Căn cứ vào đó xây dựng các mục tiêu phát triển ngành như mục tiêu về tốc độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu ngành, sau đó xác định nhu cầu về các nguồn lực cho ngành. Xây dựng, xác định thực hiện các chương trình- dự án triển khai quy hoạch, kế hoạch của ngành. Xây dựng các phương án phát triển cho một số phân ngành quan trọng để từ đó rút ra “thái độ” và cách “cư sử” với từng ngành cụ thể như phải phát triển ngành cực tăng trưởng, soá bỏ những ngành đã đi vào suy thoái, vì “sinh, bệnh, lão, tử” là tất yếu. Quy hoạch phát triển vùng là quy hoạch trong đó xây dựng các mục tiêu và bố trí không gian các ngành trong vùng, cũng thực hiện phân ra các tiểu vùng, khu vực trọng điểm trong vùng( giống như trong quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội quốc gia ). Vai trò của quy hoạch Quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về việc phân bố phát triển kinh tế – xã hội về mặt không gian trong thời kỳ quy hoạch, là cầu lối giữa chiến lược và kế hoạch, là một khâu quan trọng trong toàn bộ quy trình kế hoạch hoá, là cơ sở, căn cứ để xây dựng – thực hiện- quản lý các kế hoạch cũng như các chương trình- dự án. kế hoạch phát triển khái niệm Kế hoạch phát triển là sự cụ thể hoá các chiến lược, các quy hoạch theo mức độ thời gian nhất định, nó thể hiện ở việc hình thành nên các chỉ tiêu mục tiêu, các chỉ tiêu biện pháp và các chỉ tiêu cân đối cũng như các giải pháp, chính sách thích hợp vận hành trong thời kỳ kế hoạch. Đặt trong mỗi quan hệ với chiến lược và quy hoạch thì kế hoạch có mức độ thời gian ngắn hơn, như trong 5 năm, 3 năm, 1 năm, theo quý, tháng. Thông thường ở tầm vĩ mô người ta xây dựng – thực hiện kế hoạch 5 năm và cụ thể của kế hoạch 5 năm là kế hoạch hàng năm (1 năm); Mức độ định lượng, cụ thể ở kế hoạch cao hơn trong chiến lược cũng như trong quy hoạch, có thể nói trong quy trình kế hoạch hoá thì tính định lượng là một đặc trưng của kế hoạch, do đó kế hoạch có tính cứng nhắc hơn, tính sơ cứng, chi tiết hơn , chặt chẽ hơn cũng như tính hiệu quả cao hơn chiến lược, quy hoạch. Hệ thống kế hoạch phát triển Theo phạm vi và theo cấp quản lý Kê hoạch phát triển quốc gia: là kế hoạch mà đối tượng, vấn đề mà kế hoạch đi vào giải quyết là các vấn đề của toàn bộ nền kinh tế – xã hội về mọi mặt. Trong đó xác định các mục tiêu chung cho toàn bộ nền kinh tế, mục tiêu chung cho toàn xã hội cùng với các mục tiêu về môi trường và các giải pháp, chính sách phát triển toàn bộ nền kinh tế. Kê hoạch phát triển ngành, lĩnh vực: là cụ thể háo Kê hoạch phát triển quốc gia đối với các vấn đề, các lĩnh vực, các phần có liên quan tới ngành. Bên cạnh đó còn phải thành lập phần phát triển riêng của từng ngành, lĩnh vực cụ thể như xây dựng các Kê hoạch phát triển các ngành mũi nhọn, Kế hoạch phát triển các ngành mới, Kê hoạch chuyển hướng cho các ngành không có khả năng phát triển , Kê hoạch phát triển vùng: là kế hoạch nhằm cụ thể hoá kế hoạch phát triển quốc gia và kế hoạch phát triển ngành, trong đó xây dựng các mục tiêu, quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ như Việt Nam chúng ta đã xác định các vùng kinh tế như vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng trung du miền núi phía bắc,Trong xây dựng – thực hiện cũng như trong công tác quản lý Kê hoạch phát triển vùng gặp phải khó khăn là không gắn với bất kể một cấp hành chính, cấp quản lý nào mà việc xây dựng, thực hiện, quản lý do Nhà nước trực tiếp đảm nhận. Kê hoạch phát triển các công ty. Đây là Kê hoạch phát triển cấp vi mô còn được gọi là kế hoạch kinh doanh, thực chất kế hoạch kinh doanh là một quy trình nằm trong quy trình ra quyết định của các doanh nghiệp. Cho phép xây dựng một hình ảnh mong muốn về trạng thái của doanh nghiệp trong tương lai. Xác định, chỉ ra con đường, các phương án, cách thức và thời gian hành động nhằm đạt được mong muốn đó. Kế hoạch kinh doanh có các cách xây dựng, thực hiện và quản lý theo đặc thù của cấp vi mô, có đối thủ cạnh tranh cụ thể, roc ràng,Các kế hoạch này hoàn toàn độc lập với các kế hoạch ở tầm vĩ mô. các chủ doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp tự xây dựng các Kê hoạch phát triển riêng cho công ty mình, doanh nghiệp mình và trực tiếp quản lý việc thực hiện các kế hoạch đó góp phần vào việc đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp mình. Theo thời gian Theo thời gian thì ở các cấp, các phạm vi đều có Kê hoạch phát triển dài hạn, Kê hoạch phát triển trung hạn, Kê hoạch phát triển ngắn hạn. Tuy nhiên ở đây chỉ xin đề cập tới Kê hoạch phát triển ở tầm vĩ mô và trong khoảng thời gian trung hạn, ngắn hạn cụ thể là ở đây xin được đề cập tới hai loại kế hoạch phổ biến nhất hiện nay là Kê hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm b.1. Kế hoạch 5 năm kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá của chiến lược và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước, nhằm xây dựng các mục tiêu định hướng, các nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể, các chương trình- dự án phát triển , các cân đối vĩ mô chủ yếu cũng như các giải pháp, chính sách có giá trị hiệu lực hiện hành trong thời gian 5 năm. Nội dung - xác định các nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế – xã hội. Về các chỉ tiêu kinh tế cần chỉ rõ các mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ cụ thể, ổn định các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế (g), các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu, chỉ tiêu về khống chế lạm phát,Các chỉ tiêu về xã hội như tỷ lệ GDP/ người, chỉ tiêu về xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, giảm tỷ lệ chết yểu ở trẻ em, về tuổi thọ bình quân,. - xây dựng các chương trình- dự án phát triển trong thời kỳ 5 năm. trong thời gian 5 năm việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm được triển khai bằng- thông qua các chương trình- dự án phát triển, đây là một cách, một công cụ có hiệu quả cao nhất để thực hiện các kế hoạch trong thời gian hiện nay. Nó nối liền giữa kế hoạch 5 năm với cấp hoạt động, với thực tế,... - xây dựng các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm. Để thực hiện thì phải xây dựng các cân đối vĩ mô chủ yếu (mục đích là tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển) như cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư, Bên cạnh việc xây dựng các cân đối là việc hính thành nên các chính sách, các giải pháp về cơ cấu kinh tế, chính sách cải tiến cơ chế quản lý, chính sách về đòn bẩy kinh tế được áp dụng trong thời gian 5 năm. phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm - Theo phương pháp truyền thống: việc xây dựng kế hoạch 5 năm mang tính chất thời điểm, thời kỳ cố định như kế hoạch 5 năm 1991- 9195; kế hoạch 1995 –2000,Việc tính các chỉ tiêu được thực hiện theo phương pháp bình quân năm của cả thời kỳ kế hoạch hoặc tính theo năm cuối cùng của thời ký kế hoạch ví dụ như tốc độ tăng trưởng trong kế hoạch 1996 –2000 trung bình là 8,2% một năm hoặc cho tới năm 2000 tốc độ tăng trưởng (g) đạt 9% tới 10%,.. + Ưu điểm: theo phương pháp này rễ tính toán, rễ quản lý, rễ theo dõi đánh giá,.. + Nhược điểm: các chỉ tiêu mang tính cứng nhắc, gò ép, khó điều chỉnh- thay đổi, thiếu chính xác làm cho kế hoạch vốn đã sơ cứng lại càng trở lên sơ cứng hơn, - phương pháp “cuốn chiếu”: Ban đầu các nhà kế hoạch xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch chính thức cho năm đầu của thời kỳ kế hoạch. Sau đó xây dựng kế hoạch dự tính cho năm tiếp theo. Sau cùng xây dựng các dự báo kế hoạch cho các năm còn lại ví dụ như để xây dựng kế hoạch 2001- 2005, ta thực hiện xây dựng các chỉ tiêu chính thức cho năm 2001 sau đó xây dựng kế hoạch dự tính cho năm 2002, 2003,.. + Ưu điểm: khắc phục được tính cứng nhắc, bảo đảm tính linh hoạt trong kế hoạch 5 năm. kịp thời đưa vào sử lý những biến đổi, tác động ngoại lai, những tác động chưa được đưa vào trong kế hoạch khi xây dựng. Vừa bảo đảm tính tác ngiệp lại vừa bảo đảm tính định hướng. + Nhược điểm: khó khăn trong xây dựng, thực hiện và quản lý đặc biệt là khó khăn trong việc xây dựng các mục tiêu, trong theo dõi hệ thống. b.2. Kế hoạch hàng năm Kế hoạch hàng năm là sự cụ thể hoá của kế hoạch 5 năm, trong đó xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể, các chương trình- dự án, các cân đối lơn cũng như các giải pháp, chính sách có giá trị hiệu lực trong vong một năm Vai trò: kế hoạch hàng năm là công cụ triển khai, cụ thể hoá kế hoạch 5 năm đến cấp hoạt động, là phân đoạn của kế hoạch 5 năm. là một công đoạn của việc xây dựng kế hoạch 5 năm theo phương pháp cuốn chiếu. Góp phần biến các mục tiêu của kế hoạch 5 năm thành hiện thực, Nội dung: nội dung bao gồm hệ thống kế hoạch mục tiêu và hệ thống các kế hoạch biện pháp. các kế hoạch mục tiêu như kế hoạch nhấn mạnh vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mục tiêu về thu chi ngân sách, mục tiêu về tiền mặt,trong đó đặc biệt nhấn mạnh vế kế hoạch ngân sách. Các kế hoạch biện pháp như kế hoạch về giải quyêt các vấn đề đầu vào, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch nguồn lao động, Các bước thực hiện xây dựng kế hoạch hàng năm Bước 1 : Bộ kế hoạch & đầu tư căn cứ vào các mục tiêu của kế hoạch 5 năm sẽ cụ thể hoá thành các mục tiêu và các cân đối lớn cho kế hoạch một hàng năm. Bước 2 : Bộ kế hoạch & đầu tư đưa các thông tin hướng dẫn, các cơ chế, chính sách sẽ được áp dụng trong năm kế hoạch và gửi xuống cho các ngành, các địa phương, các các công ty lớn. Bước 3 : Các ngành, các địa phương, các công ty lớn sẽ xây dựng các kế hoạch của đơn vị mình gửi cho Bộ kế hoạch & đầu tư trình quốc hội xét duyệt. Bước 4 : Lập kế hoạch triển khai thực hiện, xây dựng cơ chế triển khai, ban hành các chỉ tiêu, tổ chức thực hiện,.. Trong quá trình đổi mới kế hoạch hoá cho tới nay chúng ta không thực hiện theo cơ chế lên xuống mà thực hẹn theo cách sau: Tổ chức các hội nghị, việc này do cơ quan quản lý thực hiện, mời các cơ quan cấp dưới tham dự để cơ quan cấp trên thông báo các thông tin về cơ chế, chính sách về kinh tế sẽ được thực hiện trong năm kế hoạch. Các cơ quan quản lý cấp trên lắng nghe ý kiến phản ánh, đóng góp về năng lực, điều kiện cụ thể của các cơ quan cấp dưới và hướng dẫn các yêu cầu thống nhất của quá trình kế hoạch; khoảng tháng 8 –9 hàng năm ngành kế hoạch cử cán bộ cụ thể đi xuống các cơ quan, đơn vị cấp dưới giúp đỡ, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của họ trong quá trình xây dựng kế hoạch; Khoảng tháng 12 bộ, địa phương, ngành chủ quản giao kế hoạch chính thức cho các cơ quan cấp dưới. 3.3 Nội dung của kế hoạch phát triển Bao gồm các nội dung sau: Các kê hoạch phát triển kinh tế như kế hoạch tăng trưởng kinh tế, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng kinh tế,; Các kế hoạch phát triển xã hội như kế hoạch nâng cao phúc lợi của tăng trưởng kinh tế, kế hoạch phát triển các lĩnh vực xã hội chủ yếu ( y tế, giáo dục, nước sạch,), kế hoạch cải thiện mức tiêu dùng của dân cư, kế hoạch phát triển các công trình văn hoá,và nội dung cuối cùng của Kê hoạch phát triển là các cân đối vĩ mô chủ yếu cho sự phát triển như cân đối giữa tích luỹ với tiêu dùng, cân đối ngân sách,(ở Việt Nam còn có các cân đối một số mặt hàng chủ yếu ) 3.4 trong xu hướng đổi mới tỷ trọng các chỉ tiêu về giá trị, về xã hội, về môi trường được tăng dần. Còn tỷ trọng các chỉ tiêu về mặt hiện vật, các chỉ tiêu có tính pháp lệnh cứng nhắc, thì giảm dần tới mức tối đa. tuy Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển nhưng chúng ta không coi nhẹ các chỉ tiêu xã hội, cũng như các chỉ tiêu về môi trường nhằm đáp ứng được các yêu cầu của sự phát triển, phát triển theo đúng nghĩa của nó ( phát triển bền vững ) Các chương trình- dự án phát triển a. khái niệm: chương trình phát triển kinh tế xã hội là tập hợp các hoạt động của nhiều đối tượng khác nhau, được tổ chức phối hợp chặt chẽ nhằm thực hiện được một mục tiêu đã chọn, trên cơ sở nguồn lực nhất định và trong một khỏang thời gian nhất định. b.Dự án là kế hoạch chi tiết về đầu tư phát triển, nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể được xác định trong một khuôn khổ nguồn lực nhất định và khoảng thời gian định trước. C. Một số tổng kết chung về kế hoạch hoá Bản chất của kế hoạch hoá trong các nền kinh tế Trong cơ chế tập trung Trong nền kinh tế tập trung kế hoạch hoá là kế hoạch hoá tập trung pháp lệnh, thể hiện sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các quá trình của nền kinh tế – xã hội bằng , thông qua các quyết định phát ra từ trung ương, đó là sự khống chế trực tiếp, sự can thiệp một cách sơ cứng vào các hoạt động của nền kinh tế, - Về mặt mục tiêu thì còn bó hẹp trong các hoạt động kinh tế – xã hội , chưa đề cập tới các mục tiêu về môi trường. Nội dung các mục tiêu chưa rộng, chưa bao quát, còn quá chi tiết và được đưa ra dưới dạng hiện vật, thiên về số lượng, ưa hình thức, - Về cơ chế tác động, việc quản lý thực hiện bằng các mệnh lệnh, pháp lệnh, các chỉ tiêu được cấp trên xây dựng quyết định trực tiếp trên quan điểm của mình (rễ rơi vào chủ quan, duy ý chí ), các chỉ tiêu này được cấp trên giao trực tiếp xuống cấp dưới bằng hiện vật được gọi là chỉ tiêu pháp lệnh hiện vật tạo ra giữa cấp trên và cấp dưới một mối quan hệ cấp phát – giao nộp tạo ra sức ì lớn trong nền kinh tế, gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực đặc biệt là các nguồn lực khan hiếm, - Giá cả theo pháp lệnh. Nhà nước ấn định mức giá cố định, phủ nhận thị trường , thoát li khỏi thị trường, toạ ra hiện tượng ngăn sông cấm chợ, cấm giao lưu buôn bán, thực hiện cơ cấu kinh tế khép kín, cơ cấu sản xuất cũng là cơ cấu tiêu dùng, - Ưu điểm: Phù hợp với nền kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, khi trình độ quản lý còn thấp ứng với nền kinh tế còn chậm phát triển cụ thể là nền kinh tế mà trong đó ngành nông nghiệp thống trị, ngành công nghiệp mới phát triển, ngành dịch vụ còn hoang sơ thậm chí mới là mầm mống. - Nhược điểm: Tính phù hợp ngày càng giảm khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tạo ra các tệ nạn xã hội như quan liêu, cửa quyền, Kết luận: Bản chất của kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung là tính cưỡng chế, tính pháp lệnh và áp đặt. 2 . Trong nền kinh tế thị trường phát triển Đặc điểm của nền kinh tế thị trường phát triển là đa hình thức sở hữu tương ứng là đa thành phần kinh tế, có xu hướng tự do hoá, tư nhân hoá, quốc tế hoá cao. Thị trường phát triển mạnh, lấy thị trường làm tín hiệu cơ bản, tín hiệu chính để tiến hành tổ chức hệ thống kinh tế, giá cả được quyết định bởi thị trường thông qua các quy luật thị trường, giá cả là căn cứ tín hiệu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. - Về mục tiêu của kế hoạch hoá mang tính chất định hướng, dự báo phát triển , rất ít các mục tiêu mang tính chất định lượng, mục tiêu mang tính chất định tính chiếm ưu thế. Xu thế là tỷ trọng các mục tiêu kinh tế giảm cùng với sự phát triển của xã hội thỉ các mục tiêu về xã hội, môi trường tăng lên, - Về phương thức tác động, Nhà nước thực hiện tác động thông qua các công cụ, chính sách như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, công cụ thuế, công cụ lãi suất, Tóm lại: Bản chất của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường phát triển là tính thuyết phục, tính hướng dẫn, nghĩa là kế hoạch hoá có tính hiệu quả cao, tính chính xác cao, 3. Trong nền kinh tế hỗn hợp (nền kinh tế các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam) Về sở hữu trong nền kinh tế hỗn hợp là đa hình thức sở hữu trong đó bao gồm sở hữu công, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, .. Giá cả cũng giống như trong nền kinh tế thị trường phát triển. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự phát triển cao hơn của cả nền kinh tế tập trung và nền kinh tế thị trường phát triển Kết luận: kế hoạch hoá trong nền kinh tế hỗn hợp là kết hợp giữa kế hoạch hoá trực tiếp (kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung) và kế hoạch hoá gián tiếp. Trực tiếp thể hiện ở chỗ Nhà nước trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế – xã hội thông qua các chương trình- dự án (Nhà nước làm chủ các chương trình- dự án ) bằng việc Nhà nước trực tiếp phân bổ các nguồn lực khan hiến như lao động có tay nghề cao, vốn ngân sách, vốn ODA, FDI,.. để xây dựng - thực hiện – quản lý các chương trình- dự án phát triển. Gián tiếp bằng cách Nhà nước tác động vào các hoạt động kinh tế – xã hội thông qua các công cụ ở tầm vĩ mô như cac chính sách, các hướng dẫn, khống chế, kiểm soát hoạt động của khu vực tư nhân nhằm đảm bảo thống nhất giữa khu vực tư nhân với với mục tiêu phát triển dài hạn như mục tiêu phát triển của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, II. So sánh nội dung của kế hoạch hoá trong cơ chế tập trung với kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường 1. Về tính chất: Sự khác nhau Trong cơ chế thị trường Kế hoạch mang tính định hướng: từ cơ sở nhận thức đúng thực tế các quy luật khách quan đưa ra mục tiêu để phấn đấu (Xác định mục tiêu theo cơ chế từ dưới lên). Kế hoạch lấy thị trường làm căn cứ và mục tiêu kế hoạch: kế hoạch là sự bổ sung cho thị trường vì thị trường chỉ có thể giải quyết vấn đề lợi ích cục bộ và trước mắt, còn kế hoạch có thể cân đối lợi ích tổnh thể và trong dài hạn. Kế hoạch có tính chất linh hoạt (tính động): Vì thị trường luôn biến động, mục tiêu luôn thay đổi nên kế hoạch phải linh hoạt phải luôn mang tính động. Xác dịnh mục tiêu trên cơ sở thực lực của nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung Kế hoạch mang tính mệnh lệnh: xuất phát từ sự chủ quan của nhà nước không câưn cứ vào thực lực của nền kinh tế, không xuất phát từ nhu cầu xã hội (xác định mục tiêu theo cơ chế từ trên xuống). Kế hoạch thay thế cho thị trường: vì nhà nước không công nhận cơ chế thị trường không công nhận quy luật khách quan của thị trường, mọi hoạt động do nhà nước vạch ra và quyết định. Kế hoạch mang tính cứng nhắc mệnh lệnh, mang tính ý chí quyết định ngược lại với quy luật của vật chất quyết định ý thức. Xác định mục tiêu bằng ý chí chủ quan . Giống nhau đều mang tính mục tiêu : mọi kế hoạch đều phải xác định cái đích mà mình muốn đạt tới. đều phải có các giải pháp đi kèm: phải cân đối các nguồn lực và phương tiện hiện có để đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất về mòi mặt đều có hạn định về thời gian. 2. so sánh nội dung quy trình kế hoạch Trong nền kinh tế tập trung xuất phát từ quan điểm phát triển, đường lối phát triển xây dựng các kế hoạch dài hạn. Trên cơ sở đó xây dựng các kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn. các kế hoạch này chủ yếu để giải quyết các vấn đề kinh tế chưa đề cập tới các vấn đề xã hội và môi trường. Trong nền kinh tế thị trường xuất phát từ các quan điểm phát triển, xây dựng các chiến lược phát triển và các quy hoạch phát triển trên cơ sở đó xây dựng các kế hoạch phát triển, từ đó xây dựng và triển khai các chương trình phát triển ( chương trình dài hạn, trung hạn, ngắn hạn). Nội dung của kế hoạch hoá được mở rộng hơn, đi vào giải quyết mọi vấn đề về các mặt của đời sống xã hội như các vấn đề về kinh tế, xã hội và môi trường. Tóm lại, trong cơ chế thị trường nội dung của kế hoạch hoá được mở rộng hơn đi sâu hơn vào các mặt của đời sống xã hội. Quy trình kế hoạch cũng được mở rộng theo hướng ngày càng hoàn thiện. Phần 3 Thực trạng về đổi mới nội dung của kế hoạch hoá ở Việt Nam giai đoạn hiện nay và các kiến nghị I. Thực trạng về đổi mới Về các quan điểm, đường lối và các chính sách phát triển Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 là mốc lịch sử có tính chất bước ngoặt trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở Việt Nam. Trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Về định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội đã xác định thì phải đi qua, thực hiện, hoàn thành nhiều nhiệm vụ cũng như nhiều các giai đoạn khác nhau. Đại hội cũng xác định thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đầu của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, do đó xác định nhiệm vụ của công nghiệp hoá là : Từng bước xây dựng, thực hiện làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Luôn luôn tạo động lực thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát trỉên; Điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung các nguồn lực vào thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiều dùng và hàng xuất khẩu;Khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Về cơ chế quản lý và chính sách, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện cơ chế mới là: “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng với nguyên tắc tập trung dân chủ”( văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6,.Nxb sự thật, HN 1987, tr65). Để cụ thể hoá cơ chế mới, thể chế hoá nghị quyết 217 của hội đồng bộ trưởng trong hội nghị lần 3( 8-1987 ) quy định rõ về quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh, quy định rõ những chính sách đổi mới về kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa của các đơn vị đó. Lần đầu tiên luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành 12/1987. Trong qúa trình thực hiện không ngừng được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với những đòi hỏi của sự phát triển, tạo ra môi trường “ hấp dẫn” cho các nhà đầu tư từ nước ngoài. Về kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Phát triển, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với bên ngoài, áp dụng rộng rãi các hình thức hợp tác- liên kết với các nước trên thế giới đa dạng hoá thị trường và hoạt động theo quan điểm mở cửa từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trên nguyên tắc bảo đảm độc lập, chủ quyền dân tộc, an ninh quốc gia và cùng có lợi. Đại hội VII (6/1991) của Đảng lại tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra trong đó nhấn mạnh vào việc đẩy mạnh phát triển cơ cấu ngành và vùng dẫn đến chuyển dịch cơ cấu ngành và vùng; tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế ( tiếp tục đổi mới, bổ xung và đồng bộ hoá hệ thống luật pháp- luật pháp kinh tế ). Nâng cao chất lượng của kế hoạch hoá nền kinh tế, kế hoạch phải lấy thị trường làm căn cứ , đối tượng quan trọng nhất. Đại hội VIII (12/1996) tiếp tục khẳng định lại đường lối do Đại hội VII đã xác định. Trong đó nhấn mạnh vào việc thực hiện nền kinh tế mở và từng bước hội nhập quốc tế. Dự báo phát triển kinh tế – xã hội Khái niệm: Dự báo là sự phán đoán có căn cứ khoa học về những trạng thái có thể đạt tới trong tương lai của đối tượng được dự báo hoặc về những cách thức và thời hạn đạt được những mục tiêu- kết quả nhất định. Dự báo mang tính chất xác suất nhưng đáng tin cậy (ở đây chúng ta không đi sâu vào nghiên cứu về dự báo mà chỉ đề cập tới dự báo với tư cách phục vụ cho mục đích của bài viết này). Mối quan hệ giữa dự báo và kế hoạch hoá Thực chất của kế hoạch hoá là các quá trình xẩy ra trong tương lai, vì vậy có thể nói dự báo là linh hồn của kế hoạch hoá. Dự báo có mặt trong các khâu của quá trình kế hoạch hoá như: dự báo dài hạn về kinh tế – xã hội ( 10 đến 20 năm), dự báo dài hạn để phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, cũng như việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch phát triển; dự báo trung hạn về phát triển kinh tế – xã hội (5 năm) nhằm phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển; dự báo ngắn hạn phát triển kinh tế – xã hội (dự báo hàng năm, quý, tháng) phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch hàng năm cũng như việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án phát triển. 3. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội : Trước những năm 1990 thì Việt Nam chưa có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội . trong quy trình kế hoạch hoá ở nền kinh tế tập trung chúng ta xây dựng, thực hiện kế hoạch dài hạn. sau khi đổi mới, cụ thể là sau năm 1990, nội dung của kế hoạch hoá được phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Trong quy trình kế hoạch hoá thì kế hoạch dài han được thay bằng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. So với kế hoạch dài hạn thì chiến lược phát triển mang tính toàn diện hơn, linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn và tính định hướng cao hơn. Tuy vậy chúng ta mới chỉ có chiến lược phát triển chung – toàn bộ cho nền. Chưa có chiến lược phát triển từng ngành cụ thể, từng lĩnh vực cụ thể,Hơn nữa trong xây dựng chiến lược chúng ta còn chưa coi trọng công tác dự báo phát triển. Cho tới nay chúng ta đang thực hiện nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001 – 2010. Thực tế cho thấy xem nhẹ, hoặc không có chiến lược phát triển đôi khi chúng ta phải trả giá rất nặng cụ thể như những năm qua do chưa có chiến lược toàn diện phát triển về giáo dục đào tạo đã dẫn đến tình trạng như hiện nay là “ thừa thầy, thiếu thợ”,. 4. quy hoạch phát triển : Thực chất của quy hoạch phát triển là xây dựng khung vĩ mô về mặt không gian, bố trí không gian. Làm căn cứ cho các kế hoạch, chương trình- dự án phát triển. ở Việt Nam ta từ 1990 tới nay chúng ta đã triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 của 8 vùng kinh tế đó là : vùng Đông bắc, vùng Tây bắc, vùng Đồng băng Sông Hồng, vùng Bắc trung Bộ, vùng duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng Bằng Sông cửu Long và 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nôị – Hải Phòng – Hạ Long; vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam gồm Thành Phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai – Vũng Tỗu; vùng phát triển kinh tế trọng điểm Miền Trung gồm Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng – Quảng Ngãi. Bên cạnh đó tất cả các tỉnh - thành phố trong cả nước đều triển khai nghiên cứu quy hoạch tổng thể tới năm 2010. Hỗu hết các quy hoạch này đều được xây dựng dựa trên chiến lược hướng về xuất khẩu, tìm ra và phát huy lợi thế của từng vùng, liên kết giữa các vùng. Trong những năm qua quy hoạch của chúng ta còn những hạn chế là: chưa coi trọng công tác dự báo, chưa bao quát hết các biến động do thiên tai và các yếu tố bên ngoài, đặt mục tiêu tăng trưởng không khả thi ( quá cao so với khả năng đạt được ), các quy hoạch giưa các tỉnh, thành phố thường chưa ăn khớp với nhau, việc xác định các mục tiêu ưu tiên còn chưa thực hiện được,. 5. Kế hoạch phát triển 5 năm và hàng năm ở đây xin được đề cập tới kế hoạch sau khi đổi mới (sau 1986) Phạm vi của kế hoạch được mở rộng, không chỉ bao quát các doanh nghiệp Nhà nước mà còn bao quát các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế tiểu chủ, Nội dung được mở rộng hơn, không chỉ bao gồm các vấn đề về kinh tế mà còn bao hàm những vấn đề về xã hội, môi trường như giải quyết các vấn đề về việc làm, nước sạch nông thôn, Các mục tiêu của kế hoạch 5 năm được thể hiện trong nhiệm vụ của kế hoạch hàng năm thông qua các chương trình quốc gia như chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo, chương trình quốc gia về dân số, Các chỉ tiêu: Giảm dần và đi đến xoá bỏ các chỉ tiêu pháp lệnh cũng như các chỉ tiêu hiện vật. Tăng dần các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu về mặt xã hội, môi trường,Cụ thể là tới năm 1995 tất cả các chỉ tiêu pháp lệnh đã bị xoá bỏ, trong kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 chuyển từ kế hoạch phát triển kinh tế sang kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt là trong kế hoạch 1996 – 2000 nhấn mạnh vào các mục tiêu xã hội xoá đói giảm nghèo. Tăng cường tập trung xây dựng các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu,Xây dựng kế hoạch phát triển các ngành, kế hoạch giải pháp như kế hoạch huy động vốn, kế hoạch nguồn lao động, 6. Các chương trình quốc gia (chương trình dài hạn) Việc xây dựng các chương trình quốc gia được thực hiện cùng với việc xây dựng các kế hoạch (kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm). chương trình quốc gia gồm hệ thống các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ về kinh tế – xã hội , khoa học công nghệ, môi trường, thể chế chính sách nhằm tổ chức thực hiện một – một số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 chúng ta xác định 11 chương trình kinh tế – xã hội , sau 2 năm triển khai thực hiện . Đảng và Nhà nước thấy rằng cần phải tập trung hơn nữa về nguồn lực, về mục tiêu, về chỉ đạo điều hành. 14/01/1998 thủ tướng chính phủ ra quyết định số 05/1998/QĐ - TTg, theo quyết định này thì trong 11 chương trình có 7 chương trình được triển khai thực hiện đó là các chương trình sau: Chương trình xoá đói giảm nghèo; Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; chương trình thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm; chương trình phòng chống HIV/AIDs; chương trình xây dựng lực lượng vận động viên tài năng quốc gia và xây dựng các trung tâm thể thao trọng điểm; chương trình giải quyết việc làm. II. Những thành tựu và tồn tại trong việc đổi mới 1. Kết quả Có được một hệ thống kế hoạch hoá toàn diện hơn, bao quát hơn, đi vào giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội từ việc hình thành các quan điểm, đường lối phát triển tới việc xây dựng thực hiện, quản lý các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển cũng như việc xây dựng – thực hiện – quản lý các chương trình phát triển, các dự án đầu tư. Vơi chiến lược phát triển đầu tiên 1991 –2000 tuy rằng còn nhiều bất cập, song cũng đã được điều chỉnh và thông qua (trong Đại hội Đảng lần VIII 1996). Mặc du mới chỉ dừng lại ở chiến lược tổng thể quốc gia nhưng đã bao hàm mọi mặt của đời sống xã hội như tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả cao, bền vững đi đôi với giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ 21 Bước đầu đã có các quy hoạch tổng thể quốc gia, trong các quy hoạch đều đã hệ thống hoá được các kết quả điều tra cơ bản, phân tích hiện trạng, đánh giá tiểm năng, thế mạnh, phát hiện các khó khăn, hạn chế, đề xuất phương hướng phát triển,Làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm, Trong công tác lập - điều hành kế hoạch 5 năm và hàng năm có sự thay đổi lớn về phương pháp và nội dung như tăng cường kế hoạch vĩ mô, xoá bỏ dần kế hoạch mệnh lệnh, giảm tôi đa các chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ tiêu hiện vật, chuyển từ kế hoạch tập trung sang kế hoạch định hướng, mở rộng các chỉ tiêu định hướng sang các lĩnh vực xã hội, môi trường chú ý hiều hơn tới các kế hoạch giá trị. Xây dựng kế hoạch theo phương pháp cuốn chiếu, Xây dựng, triển khai thực hiện các chương trình quốc gia, các dự án đầu tư phát triển, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, mở rộng kinh tế đối ngoại, Trong các kế hoạch hàng năm rất chú trọng tới các cân đối lớn, đặc biệt là các cân đối vốn đầu tư, cân đối tài chính tiền tệ. các chính sách như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá được xây dựng và thực hiện, sử lý có hiệu quả cao trong việc duy trì các cân đối vĩ mô,.. 2. Hạn chế Tính tĩnh tương đối trong các mục tiêu của chiến lược và kế hoạch 5 năm không phù hợp với tính động tuyệt đối của thực tế khách quan. Đặc biệt trong khi đất nước đang trong quá trình hội nhập. Điều này đặt ra nhiệm vụ là phải tăng cường công tác dự báo phát triển, nên chăng thành lập một cơ quan chuyên trách, chuyên năng không chỉ về việc xây dựng mà cả về việc quản lý các chiến lược, quy hoạch , kế hoạch.,đặc biệt là về chiến lược và kế hoạch. Để kịp thời sửa đổi, đưa vào chiến lược, kế hoạch,,các biến động trong thời kỳ chiến lược, thời kỳ kế hoạch, Các yếu tố bên ngoài bị xem nhẹ, đặc biệt là trong kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm, như việc nghiên cứu, dự báo sự phát triển của thị trường quốc tế chưa được đưa vào trong kế hoạch hoá,.. Kế hoạch hoá theo ngành và theo vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau để trở thành hệ thống kế hoạch hoá thống nhất, toàn diện tổng thể nên kinh tế. ở đây vấn đề đặt ra là cần làm rõ mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý trên phương diện kế hoạch hoá, nghĩa là phải quy định rõ cơ quan chức năng nào chịu trách nhiện gì ?, trách nhiệm như thế nào?,về kế hoạch hoá. Nội dung của kế hoạch “ ôm đồm” mục tiêu của kế hoạch không hoặc ít tính khả thi, phản ánh câu hỏi: nền kinh tế đang ở trình độ nào của sự phát triển? Vẫn bị bỏ ngỏ hoặc đã được trả lời nhưng câu trả lời sai. Hơn thế nữa việc xác định mục tiêu trọng yếu, xác định điểm nút, các điểm nút trong mục tiêu chưa có phương pháp cũng như cách thức xác định có hiệu quả. Dẫn tới hiện tượng tranh chấp giữa các mục tiêu về mức độ ưu tiên, thưc tự ưu tiên hậu quả là đầu tư ràn trải, tồn tại các mục tiêu có mối quan hệ nhân quả, Cơ chế điều hành một số cân đối sản phẩm chủ yếu thực chất là các cân đối hiện vật, đã tỏ ra không hiệu quả, bất hợp lý với cơ chế thị trường . Việc xây dựng quy hoạch không được toàn diện mà được thực hiện theo kiểu phong trào, ưa hình thức. Mới chỉ dừng lại ở việc xác định thế mạnh – yếu một cách chung chung theo kiểu tỉnh công – nông – dịch vụ hoặc nông – công – dịch vụ chứ chưa phải là quy hoạch không gian tổng thể. III. Định hướng đổi mới kế hoạch hoá phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam thời kỳ 2001- 2010 và một số giải pháp 1. Định hướng đổi mới a. Nâng cao chất, lượng hiệu quả kế hoạch hoá Để nâng cao chất, hiệu quả của kế hoạch hoá đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa kế hoạch hoá theo ngành và kế hoạch hoá theo vùng lãnh thổ, việc kết hợp giữa chiến lược theo ngành với chiến lược theo vùng lãnh thổ cũng như việc kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch, các chương trình- dự án đầu tư phát triển theo vùng lãnh thổ với quy hoạch , kế hoạch,theo ngành phải hợp thành một hệ thống nhất bảo đảm đầy đủ tính logic, tính hệ thống,từ đó mới xác định được các mục tiêu mang tính chất “nóng” cần giải quyết ngay, tránh được hiện tượng ràn trải mục tiêu cũng như ràn trải đầu tư, là một trong các nguyên nhân dẫn tới kế hoạch hoá kém hiệu quả, gây thất thoát nguồn lực của Nhà nước. Để đạt được điều đó thì đòi hỏi phải xây dựng được các chiến lược toàn diện cho không chỉ toàn bộ nền kinh tế mà còn cho các ngành, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, cũng vậy cần phải xây dựng các quy hoạch theo đúng nghĩa của nó, cac kế hoạch, các chương trình phát triển , các dự án phát triển toàn diện, hoàn chỉnh, hệ thống, lôgíc và hiệu quả. Cần phải đặt mục tiêu hiệu quả của kế hoạch hoá nên hàng đầu. b. kế hoạch hoá theo hướng thị trường: Kế hoạch lấy thị trường làm mục tiêu và làm đối tượng. Kế hoạch là công cụ trợ giúp việc ra quyết định, Nhà nước ta thực hiện quản lý trong đó có việc quản lý kinh tế, quản lý thị trường. Trong quá trình lập cũng như thực hiện kế hoạch hoá cần phải tính đến rất nhiều yếu tố , gồm các yếu tố khách quan chủ quan, cac yếu tố kiểm soát được các yếu tố không kiểm soát được. Kế hoạch hoá phải được coi như một kịch bản được lựa chọn trong đó có tính đến các điều kiện hiện tại và các điều kiện trong tương lai đã được dự báo có căn cứ, Tập trung và phân cấp: Để có được nội dung của kế hoạch hoá thật tốt, hiệu quả thì trược hết phải phân định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan chức năng trong quy trình kế hoạch hoá nghĩa là phải làm rõ mối quan hệ giữa các cấp quản lý va mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế trong nền kinh tế, từ đó mới đảm bảo nội dung của kế hoạch hoá đựơc tốt. Về mối quan hệ giữa các cấp quản lý thì nên thực hiện nguyên tắc: việc gì cấp dưới không thể thực hiện được do tính chất của công việc thì mới chuyển lên cấp trên, cấp trên phải luôn thực hiện việc kiểm tra, giám sát thông qua các biện pháp thích hợp. Về mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước với các khu vực kinh tế khác là hoàn toàn độc lập, bình đẳng trong cạnh tranh hơn nữa việc thực hiện kế hoạch của các doanh nghiệp thuộc khu cực Nhà nước phải được công bố, giải thích rõ ràng về ý nghĩa của các mục tiêu trong tương lai với sự phát triển, chỉ rõ cách thức (công bố các chính sách, giải pháp,) để đạt được các mục tiêu (vai trò hướng dân của các cơ quan thực hiện kế hoạch). Phải đảm bảo tính hấp dẫn về mặt kinh tế vơi các khu vực kinh tế khác, cac chính sách phải đảm bạo tính hợp lý khuyến khich (không áp đặt) các doanh nghiệp thuộc các khu vưc kinh tế khác hành động theo hướng đạt được mục tiêu đã đề ra. Phát triển theo điểm và phát triển theo vùng: xuất phát từ nhiệm vụ phát triển đồng đều giữa các vùng, hơn nữa trên thực tế hơn 10 thực hiện đổi mới chúng ta thu được không ít những hiệu quả cũng như các hậu quả, một trong những hậu quả mà chúng ta cần giải quyết, giải quyết ngay là vấn đề phát triển đồng đều vì thực tế hố ngăn cách về phát triển giữa nông thôn và thành thị ơ Việt Nam ta ngày càng dãn ra theo sự phát triển,Để giải quyết vấn đề này phải có các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình , dự án đầu tư nhằm ưu tiên vùng kém phát triển, có thể ưu tiên đầu tư của Nhà nước cho các vùng kém phát triển hoặc áp dụng các chính sách ưu đãi ở mức độ cao hơn các vùng khác để thu hút vốn đầu tư vào vùng ( chính sách mượn gà đẻ trứng của Đặng Tiểu Bình ) Kế hoạch hoá cơ cấu và ngành “mũi nhọn”: Về cơ cấu, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tiến hoá tuần tự, mang tính nội tại, phải trải qua nhiều giai đoạn. các tác động chỉ có thể đẩy nhanh hoặc rút ngắn quá trình đó chứ không thể bỏ qua bất cứ một giai đoạn nào,Về ngành “mũi nhọn”, ngành “mũi nhọn” là một ngành kinh tế mà nha nươc cần đặc biệt lưu ý và ưu tiên hỗ trợ. Ngành “mũi nhọn” phát triển sẽ đem lại lợi ích cho nhiều dân cư nhất, ngành “mũi nhọn” phải đạt được ít nhất các tiêu chuẩn sau: chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân; có số lao động chiểm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động của xã hội; có giá trị chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hoặc trong tốc độ gia tăng của xuất khẩu. Việt Nam ngành mũi nhọn cho cả nước là ngành nông nghiệp, với các vùng khác nhau thì có thể có các ngành mũi nhọn khác nhau và khác với ngành “mũi nhọn” của quốc gia. 2. Một số kiến nghị a. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch: Tiếp tục đổi mới theo hướng chú trọng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu định hướng. Như phần trước đã khẳng định việc xác định các nút ưu tiên trong các mục tiêu của kế hoạch hoá là chưa thực hiện được dẫ đến tình trạng trồng chéo, mâu thuẫn nhau là một nguyên nhân làm thất thoát nguồn lực lực làm không hiệu quả. Đỏi hỏi phải đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo đối tượng của kế hoạch hoá một cách có hệ thống, kỹ lưỡng, cụ thể ở đây là đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội để xác định được các mục tiêu mang tính chất quyết định nhât ví dụ như trong điều kiện Việt Nam hiện nay để phát triển thì trước hết phải đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng cả về kinh tế lẫn xã hội ; xác định mục tiêu theo cây mục tiêu; Nhà nước cần giám sát và quản lý các chỉ tiêu ở tầm vĩ mô, giảm hơn nữa ( hơn thực tế hiện nay ) số lượng các chỉ tiêu hiện vật, chỉ giữ lại chỉ tiêu hiện vất quan trọng nhất trong lĩnh vực công ích như điện năng, xây dựng, giao thông, Để đáp ứng yêu cầu biến động của thị trường, đòi hỏi phải đổi mới, mơ rộng các chỉ tiêu sang các chỉ tiêu mang tính chất dự báo, định hướng, tham khảo, Trong thời gian tới Quốc Hội chỉ nên thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh ở tầm vĩ mô như chỉ tiêu về tăng trưởng GDP, về tổng thu ngân sách, về tổng chi ngân sách, về tổng số chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, mức bội chi ngân sách, và về mức lạm phát, b. Xây dựng, phát triển chuyên sâu công tác dự báo, phân tích vĩ mô kinh tế – xã hội: Dự báo có thể nói là linh hồn của kế hoạch hoá, dự báo càng chính xác, có độ tin cậy càng cao thì tính hiệu quả của kế hoạch hoá càng cao. Dự báo đúng xu thế phát triển trên thês giới, trong khu vực và trong nước cũng như tìm ra các quy luật nội tại hoạt động trong nền kinh tế – xã hội trong nước sẽ tạo điều kiện cho việc kế hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Muốn dự báo tốt thì công tác phân tích vĩ mô phải thực hiện thật tốt, phản ánh cũng như nhận định đúng thưc việc xẩy ra; cần sử dụng, nghiên cứu các phương pháp phân tích và dự báo mới, sử dụng các công cụ dự báo hiện đại, để dự báo chính xác mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vào dự báo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, Với Việt Nam ta hiện nay công việc cấp bách là cần thành lập các trung tâm nghiên cứu và dự báo, phân tích vĩ mô để tìm ra các quy luật nội tại của nền kinh tế nước nhà cụ thể như việc cấp bách là tìm ra mô hình phát triển cho toàn nền kinh tế nói chung, cho các ngành, các lĩnh vực nói riêng, c. Chú trọng hơn nữa các mối quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong kế hoạch 1996 – 2000 do không chú trọng tới các yếu tố bên ngoài nên mục tiêu kế hoạch đặt ra nhìn chung là không đạt được, ví dụ mục tiêu đặt ra là tăng trưởng đạt 9% tới 10% nhưng thực tế đạt khoảng 6,7%. Trong tương lai xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá càng trở nên mạnh mẽ tiến tới nền kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu, bất kỳ một sự thay đổi, biến động của một nền kinh tế của một nước nào cũng đều có ảnh hưởng tới nền kinh tế các nước trong khu vực,.Do đó trong những năm tới chúng ta phải xây dựng, thực hiện các kế hoạch đảm bảo cho nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế trong trạng thái hiện nay (thực chất là có các quan hệ kinh tế với các nước) sang nền kinh tế hội nhập thực sự ( có nhiều hơn nữa các mối quan hệ kinh tế lớn với bên ngoài, phi hàng rào thuế quan,). Đặc biệt là tới năm 2006 khi chúng ta thực sự bỏ hết hàng rào thuế quan thì điều gì sẽ xảy ra và cần có kế hoạch gì trong tương lai để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển mạnh, ổn định và đi đúng hướng mà chúng ta đã chọn,.. d. Tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng thực hiện các chính sách Chính sách là các công cụ thực hiện, triển khai kế hoạch hoá, chính sách bao gồm 2 loại: một là các chính sách thể hiện là các công cụ trực tiếp; hai là các chính sách thể hiện các công cụ gián tiếp Các công cụ chính sách trực tiếp là các chính sách được áp dụng trong nội bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước, do cơ quan Nhà nước các cấp thực hiện. Nó tác động trực tiếp vào khu vực kinh tế Nhà nước và tác động gián tiếp tới các khu vực kinh tế khác. Các công cụ này gồm: các chương trình- dự án phát triển, đầu tư của Nhà nước, tín dụng Nhà nước, trợ cấp và hỗ trợ của Nhà nước, Các công cụ chính sách gián tiếp: là các chính sách mà tự thân nó vận động, thực hiện mà không cần việc tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước như chính sách thuế, lãi suất chiết khấu, tỷ giá hối đoái,Các chính sách này tạo ra khung vĩ mô tác động điều chỉnh, điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, Vấn đề then chốt đặt ra hiện nay là phải tăng cường các chính sách, tăng cường hiệu quả các chính sách,Đặc biệt là các chính sách gián tiếp, đòi hỏi phải làm ngay các công tác sau: Nâng cao năng lực hoạch định các chính sách của các cơ quan Nhà nước: như Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư , Bộ Tài Chính, Văn Phòng Quốc Hội, Văn Phòng Chính Phủ, Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam và phải phân định rõ ràng trách nhiệm thuộc về cơ quan chức năng nào?,. Tăng cường các mối quan hệ có tính chất thương thảo, hội thoại giữa các cơ quan chuyên trách, các nhà lãnh đạo, với các doanh nghiệp thông qua các diễn đàn, hội thảo,hoạt động định kỳ, Mở rộng hơn nữa các diễn đàn trao đổi về các chính sách thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên các kênh truyền hình trung ương - địa phương. Nhằm thu hút sự tham gia đóng góp ý kiến một cách rộng rãi của các tầng lớp nhân dân,.. e. Xây dựng hệ thống chiến lược toàn diện, đồng bộ nói chung cho thời kỳ 2001-2010. Trong xây dựng chiến lược cần đặc biệt chú ý tới phân đoạn chiến lược lấy thời gian phân đoạn là 5 năm, nghĩa là việc xây dựng – thực hiện chiến lược phải được theo dõi, giám sát chặt chẽ, thường xuyên đánh giá việc thực hiện chiến lược cũng như tính khả thi của chiến lược và thực hiện bổ sung, sửa đổi (nếu cần thiết) sau 5 năm thực hiện, như vậy thì chiến lược 2001-2010 có thể đến năm 2005 sẽ được bổ sung, thay đổi nếu cần thiết,Tuy nhiên do chúng ta mới làm quen với chiến lược, chúng ta mới xây dựng thực hiện chiến lược 10 năm đầu tiên ( 1991 – 2000) nên kinh nghiệm, năng lực để xây dựng chiến lược còn nhiều hạn chế do đó chúng ta nên thực hiện phân đoạn chiến lược trong khoảng thời gian ngắn hơn cụ thể là trong chiến lược 10 năm tới nên lấy năm 2003 để thực hiện đánh giá toàn bộ chiến lược từ đó ra quyết định có nên sửa đổi, bổ sung hay không và nếu có thì nên sửa đổi, bổ sung như thế nào? bằng cách nào?. Mặt khác cần phải nâng cao hơn nữa tính khoa học trong chiến lược, giảm hơn nữa tính chính trị trong chiến lược (trong chiến lược 1991 –2000 mang nặng tính chính trị). Đảm bảo được tính khoa học trong chiến lược có nghĩa là nâng cao được tính khả thi của chiến lược, muốn vậy thì trước hết phải nhận thức rõ, nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa các hoạt động thuộc các mảng, các mặt của đời sống xã hội cũng như các mối quan hệ giữa các mặt đó với nhau, đặc biệt cần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,trên cơ sơ đó tìm ra các mối quan hệ nhân quả giải quyết vấn đề ưu tiên mục tiêu của chiến lược f. Nâng cao việc xây dựng – thực hiện các quy hoạch: Làm tốt công tác này là giải quyết tốt vấn đề về không gian và thời gian của sự phát triển, việc quy hoạch của chúng ta còn thiếu, chưa đồng bộ,Các công việc đặt ra hiện nay là tập trung xây dựng quy hoạch toàn diện cho các ngành các vùng, g. Đổi mới, sử dụng phương pháp mới vào xây dựng và điều hành kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm Lấy kế hoạch 5 năm làm trung tâm vì nó vừa đảm bảo được tính định hướng vừa đảm bảo tính tác nghiệp, hơn nữa nó lại thường găn với nhiệm kỳ chính trị. Kế hoạch 5 năm sẽ xác định những mục tiêu tổng thể, bao gồm các kế hoạch chính thức cho năm đầu tiên của thời kỳ kế hoạch, kế hoạch dự tính cho năm tiếp theo và dự báo kế hoạch cho các năm còn lại. Kế hoạch hàng năm (1 năm) là phân đoạn của kế hoạch 5 năm, là một phần của kế hoạch 5 năm. các kế hoạch hàng năm vừa phải hướng vào việc thực hiện đạt được các mục tiêu định hướng, vừa phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. do đó kế hoạch hàng năm phải bao gồm các kế hoạch định hướng và các kế hoạch: kế hoạch ngân sách, kế hoạch cung ứng tiền tệ, kế hoạch xuất – nhập khẩu và quản lý cán cân thanh toán quốc tế, kế hoạch vay và trả nợ nước ngoài,. h. Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý, sử dụng thông tin Thông tin có tính chất quyết định tới chất lượng, hiệu lực của kế hoạch hoá. Để có các quyết sách đúng, hiệu quả, thì thông tin phải đầy đủ, kịp thời, từ đó đánh giá nhận định đúng tình hình, những thay đổi, xu hướng vận động phát triển,Muốn đổi mới kế hoạch hoá nói trung, đổi mới nội dụng kế hoạch hoá nói riêng thì trước hết phải tăng cường, nâng cao chất lượng công tác thu thập, sử lý, sử dụng thông tin. Muôn vậy thì trước hết phải: Đánh giá lại hệ thống thu thập, sử lý thông tin hiện hành, rút ra điểm yếu, mạnh, phù hợp, không phù hợp,.. từ đó rút ra cách khác phục Phân loại thông tin, quy định rõ các loại thông tin cần thu thập để đánh giá hoạt động của mọi mặt đời sống xã hội. Thống nhất các biểu mẫu, thuật ngữ, khái niệm, các báo cáo trong cả nước, quy định kỳ báo cáo với từng loại thông tin cụ thể. Từng bước hình thành hệ thống thu thập, xử lý thông tin theo tiêu chuẩn quốc tế,. Nghiên cứu, xây dựng luật về thông tin. Hiện nay chúng ta mới có pháp lệnh về thông tin, luật hoá pháp lệnh thông tin làm cho thông tin chính xác, đầy đủ, Lời kết Qua bài viết có nhiều nhược điểm và thiếu sót này tôi xin đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc nghiên cứu, tìm hiểu kế hoạch hoá nói chung, nội dung kế hoạch hoá nói riêng & việc đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cả về mặt lý luận và có phần thực tiễn. Mặc dù vẫn biết lý thuyết thì luôn là mầu xám và cây đời mãi mãi xanh tươi. Nhưng qua đây tôi cũng thấy mình hiểu được rất nhiều về không chỉ lý luận của kế hoạch hoá mà còn về thực tiễn kế hoạch hoá. Đó sẽ là cơ sở, nền tảng rất bổ ích cả về mặt nhận thức lẫn thực tiễn sau này, không chỉ cho riêng bản thân tôi mà còn cho bất cứ ai khi đã đi vào nghiên cứu kế hoạch hoá, Em xin chân thành cảm ơn : - Cô: vũ thị ngọc phùng. GSPTS. chịu trách nhiệm hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Thầy: Ngô Thắng Lợi, giảng viên chủ nhiệm lớp Kế Hoạch 39, chịu trách nhiệm giảng dạy môn: kế hoạch phát triển . Thầy: vũ cương, giảng viên chịu trách nhiệm giảng dạy môn chương trình- dự án phát triển . Thầy: Lê Huy Đức, giảng viên chịu trách nhiệm giảng dạy môn dự báo và môn chiến lược phát triển. Thầy: Bùi Đức Tuân, giảng viên chịu trách nhiệm giảng dạy môn chiến lược kinh doanh và môn kế hoạch kinh doanh. Đồng cảm ơn các thầy cô khác trong khoa cùng toàn thể bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình thu thập tài liệu,. Tài liệu tham khảo kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô. TS .Đặng Đức Đạm, Nxb chính trị Quốc gia. HN – 5/2000. Giáo trình: chương trình- dự án phát triển kinh tế - xã hội. Khoa kinh tế phát triển . trường Đại Học kinh tế quốc dân. Nxb thống kê. HN 1999. Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Bộ môn Quản Trị Doanh Nghiệp. trường Đại Học kinh tế quốc dân. Nxb Giáo Dục 1996. Kinh tế học cho thế giới thứ ba ( economics for a third world . chương 24, tr 481). Michael P. TODARO. Nxb Giáo Dục 1998. Các tập chí: tạp chí cộng sản, tạp chí kinh tế & dự báo, tạp chí kinh tế & phát triển (hầu hết các số trong năm 2000, và một số số trong năm 1999). Đề án Đổi mới công tác kế hoạch hoá . viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư . HN 5 – 1998. Những nội dung cơ bản của hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII . Ban tư tưởng- văn hoá TW. Nxb chính trị Quốc Gia. HN- 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0028.doc
Tài liệu liên quan