KẾT LUẬN
Túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi là túi phình khá hiếm gặp, tuy nhiên cũng
như túi phình nội sọ khác cũng có nguy cơ vỡ,
và khi đã vỡ thì tỷ lệ vỡ lại cao và một số trường
hợp có huyết khối lòng túi phình có thể gây
chèn ép thân não cho nên cần phải can thiệp loại
bỏ túi phình.
Bệnh lý này có thể điều trị được bằng phẫu
thuật tắc động mạch mang túi phình, với kết
quả điều trị có GOS lúc ra viện tốt đạt 65% và
sau thời gian theo dõi tỷ lệ GOS 4-5 chiếm 77,8%
Biến chứng thường gặp nhất là liệt dây thần
kinh sọ thấp sau mổ, do đó cần phải đánh giá
mức độ liệt sau mổ để chọn thời điểm rút nội
khí quản thích hợp hoặc mở khí quản để tránh
biến chứng viêm phổi hít. Tuy nhiên biến chứng
này đa số sẽ hồi phục trong vòng 3 tháng sau
mổ nhờ sự hồi phục và cơ chế bù trừ của các
dây thần kinh sọ thấp đối bên.
Các biến chứng như nhồi máu, thiếu máu
não, huyết tắc não, tái thông túi phình, đặc biệt
là vỡ túi phình lại chưa thấy trong quá trình
theo dõi, nhất là đối với các trường hợp chỉ kẹp
tắc đầu gần túi phình nên chúng tôi cần phải
theo dõi thời gian lâu dài và với số lượng bệnh
nhiều hơn. Nhưng với tỷ lệ vỡ lại túi phình 83%
trong năm đầu tiên đối với túi phình đã vỡ
không điều trị thì với kết quả này có thể kết luận
túi phình động mạch đốt sống dạng túi có thể
điều trị được bằng kẹp tắc động mạch mang túi
phình với kết quả sau mổ có thể chấp nhận
được.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kẹp động mạch mang túi phình trong điều trị túi phình động mạch đốt sống dạng hình thoi: Báo cáo 20 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 65
KẸP ĐỘNG MẠCH MANG TÚI PHÌNH TRONG ĐIỀU TRỊ TÚI PHÌNH
ĐỘNG MẠCH ĐỐT SỐNG DẠNG HÌNH THOI: BÁO CÁO 20 TRƯỜNG HỢP
Lê Khâm Tuân*, Nguyễn Minh Anh**, Nguyễn Phong***
TÓM TẮT
Mục tiêu: túi phình động mạch đốt sống dạng hình thoi là bệnh lý tương đối hiếm gặp, thuộc nhóm túi
phình tuần hoàn sau, là bệnh lý nguy hiểm có tỷ lệ tử vong và di chứng nặng nề nếu không can thiệp điều trị.
Điều trị nhóm bệnh lý này còn nhiều thách thức cho cả phẫu thuật viên thần kinh và các chuyên gia can thiệp nội
mạch. Tại bệnh viện Chợ Rẫy bệnh lý túi phình được điều trị chủ yếu bằng phương pháp phẫu thuật nên cần
nghiên cứu đánh giá lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị bệnh lý này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả tiền cứu 20 bệnh nhân với 20 túi phình động mạch đốt
sống dạng hình thoi đã được điều trị bằng phẫu thuật trong khoảng thời gian 5 năm (07/2007- 07/2012) tại bệnh
viện Chợ Rẫy. Trong đó có 17 trường hợp túi phình vỡ và 3 trường hợp túi phình chưa vỡ. Túi phình được loại
bỏ bằng kẹp tắc động mạch đốt sống mang túi phình. Sau mổ được đánh giá và theo dõi theo thang điểm GOS,
chụp DSA hoặc CTA mạch máu não kiểm tra. Thời gian theo dõi trung bình 18,7 tháng (1- 59 tháng)
Kết quả: Sau khi ra viện tình trạng tốt có thang điểm (GOS 4 - 5) có 13 trường hợp (65%), trung bình
(GOS 3) có 4 trường hợp (20%), xấu (GOS 2) 1 trường hợp (5%), tử vong 2 trường hợp (10%). Tất cả các túi
phình được loại bỏ hoàn toàn trên phim mạch máu kiểm tra. Trong quá trình theo dõi không trường hợp nào túi
phình vỡ lại, tỷ lệ GOS 4-5 đạt 77,8%.
Kết luận: túi phình động mạch đốt sống dạng hình thoi là bệnh lý nguy hiểm cần phải can thiệp điều trị.
Phẫu thuật kẹp tắc động mạch mang túi phình có thể điều trị loại túi phình này với kết quả sau mổ và tỷ lệ biến
chứng có thể chấp nhận được. Điểm đặc biệt lưu ý là đánh giá hình ảnh học trước mổ để chọn lựa đường mổ phù
hợp và cách kẹp tắc động mạch mang túi phình.
Từ khóa: túi phình động mạch đốt sống, túi phình dạng hình thoi, kẹp tắc động mạch đốt sống, liệt dây thần
kinh sọ thấp
ABSTRACT
TRAPPING THE PARENT ARTETY IN TREATMENT OF VERTEBRAL ARTERY FUSIFORM
ANEURYSMS: 20- CASE REPORT.
Le Kham Tuan, Nguyen Minh Anh, Nguyen Phong.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 65 - 71
Objective: Vertebral artery (VA) fusiform aneurysms are the quite rare lessions, belong to posterior
circulation aneurysms which are high morbility and mortality without treatment. Management of the aneurysms
is still challenged. At Cho Ray hospital, almost intracranial aneurysms have been treated microsurgically so we
discribe the clinical signs, neuroimaging and outcome of VA fusiform aneurysms.
Methods: Prospective discription reports with 20 patients with 20 VA fusiform aneurysms during 5 years
(07/2007- 07/2012) were underwent trapping VA at Cho Ray hospital. There were 20 ruptured and 3 unruptured
aneurysms. The aneurysms were eliminated by trapping VA. We used GOS to evaluate the patients post-op. The
* Bộ môn ngoại thần kinh ĐH Y Dược TP.HCM **Bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM.,
***Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: BS CKI Lê Khâm Tuân ĐT: 0979564549 Email: lekhamtuan@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 66
average follow-up is 18.7 months (1-59 months).
Results: At discharged, outcome was good (GOS 4-5) in 13 cases (65%). Moderate (GOS 3) in 4 cases
(20%), bad (GOS 1) in 1 case (5%) and 2 cases died (10%). All of aneurysms were eliminated on angiography
post-op. at the end of follow-up period, the patients with GOS 4 – 5 were 77,8%.
Conclusion: VA fusiform aneurysms are dangerous lessions that must be treated. The management of this
disease is trapping the parent artery that gives acceptable outcomes. Evaluating the neuroimaging before operation
makes us choose the appropriate approaches and trap the VA at the right locations.
Key words: vertebral artery, fusiform aneurysms, trapping vertebral artery, lower cranial nerve dificit.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý túi phình động mạch não tùy theo
mục đích mà có thể phân chia theo nhiều cách
khác nhau. Trong phẫu thuật thần kinh, quan
trọng nhất là vị trí túi phình và hình dạng túi
phình. Vị trí túi phình sẽ quyết định đường tiếp
cận túi phình và dạng túi phình sẽ quyết định
cách thức loại bỏ túi phình. Túi phình động
mạch đốt sống dạng hình thoi khá hiếm gặp,
thuộc nhóm túi phình tuần hoàn sau, chỉ chiếm
khoảng 1- 5% túi phình nội sọ.
Túi phình động mạch đốt sống đoạn trong
sọ có ba dạng chính: túi phình dạng túi
(saccular), túi phình dạng hình thoi
(fusiform), túi phình dạng bóc tách
(dissecting). Nguy cơ xuất huyết của các túi
phình này cũng giống như các túi phình vị trí
khác trong sọ và còn có phần nguy hiểm hơn
vì khi đã vỡ tỷ lệ vỡ lại khoảng 83% trong
năm đầu tiên. Túi phình vị trí này cần phải
can thiệp điều trị để tránh nguy cơ vỡ túi
phình(2).
Túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi có đặc điểm khi loại bỏ túi phình thì phải
tắc cả động mạch mang túi phình, đây là thách
thức nhất đối với điều trị túi phình loại này. Tuy
nhiên, động mạch đốt sống có thể tắc được. Dựa
vào tuần hoàn bàng hệ và nghiệm pháp tắc thử
động mạch đốt sống trong qua trình chụp DSA
sẽ cho biết động mạch đốt sống có thể tắc được
hay không. Nguyên tắc cơ bản trong tắc động
mạch đốt sống là phải bảo tồn được động mạch
tiểu não sau dưới (PICA), vì theo Rhoton đây là
nhánh cho rất nhiều nhánh xuyên cho thân não,
cho nên đây là động mạch không thể tắc được.
Đối với trường hợp kẹp tắc động mạch đốt
sống trước gốc PICA thì phải đảm bảo tuần
hoàn bàng hệ động mạch đốt sống đối bên cấp
đủ máu cho động mạch PICA này. Trong đánh
giá bàng hệ này ngoài xem xét kích thước động
mạch đốt sống đối bên còn phải dùng nghiệm
pháp tắc thử, nếu như bệnh nhân dung nạp
được thì sẽ tắc được vĩnh viễn động mạch đốt
sống này. Ngược lại nếu như tình trạng bàng hệ
không cho phép tắc thì trước khi loại túi phình
phải đảm bảo cấp máu cho PICA bằng phẫu
thuật bypass.
Túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi cũng giống túi phình nội sọ khác, đều có
nguy cơ vỡ, tỷ lệ vỡ trung bình khoảng 0,5 -1%
/năm. Do đó, ở bệnh nhân tuổi càng trẻ, thời
gian sống còn dài thì nguy cơ vỡ túi phình tích
lũy càng cao. Khuyến cáo chỉ định can thiệp làm
tắc đối với túi phình chưa vỡ phát hiện tình cờ
khi bệnh nhân có túi phình kích thước > 5mm và
ở bệnh nhân <70 tuổi (5)
Túi phình động mạch đốt sống đã vỡ thì
cũng như túi phình tuần hoàn sau khác, khi đã
vỡ thì nguy cơ vỡ lại trong năm đầu tiên khoảng
83%. Đối với túi phình động mạch đốt sống khi
đã vỡ cần phải can thiệp loại túi phình ra khỏi
hệ tuần hoàn, tùy điều kiện cụ thể mà chỉ định
can thiệp nội mạch hay phẫu thuật.(3, 4)
Túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi có kích thước lớn ngoài nguy cơ vỡ, một số
trường hợp có huyết khối trong lòng túi phình
và huyết khối này có thể gây chèn ép tại chỗ tại
thân não hoặc có thể trôi theo dòng máu gây
huyết tắc não. Huyết khối lòng túi phình gây
hiệu ứng chèn ép cũng là một chỉ định cần phải
can thiệp phẫu thuật.(2, 3)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 67
Phương pháp loại bỏ túi phình động mạch
đốt sống dạng hình thoi này hiện tại còn khá
mới trong điều kiện nước ta. Tại khoa ngoại thần
kinh bệnh viện Chợ Rẫy hàng năm có khoảng
300-400 trường hợp phẫu thuật điều trị túi
phình động mạch não, thì túi phình loại này
chiếm khoảng 1%. Đây là bệnh lý lành tính có
thể điều trị được và có đặc điểm riêng về cách
tiếp cận túi phình cũng như cách loại bỏ túi
phình ra khỏi hệ thống tuần hoàn não nên
chúng tôi nghiên cứu đề tài này để đánh giá đặc
điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị
túi phình động mạch đốt sống dạng hình thoi
này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả bệnh nhân nhập viện Chợ Rẫy trong
khoảng thời gian 7/2007 -7/2012, được chẩn
đoán túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi, được phẫu thuật kẹp động mạch đốt sống
để loại bỏ túi phình.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả tiền
cứu báo cáo hàng loạt ca. Các thông tin lâm
sàng và hình ảnh học trước mổ được thu thập
và mô tả. đánh giá tình trạng bệnh nhân trước
mổ bằng phân độ Hunt – Hess. Mô tả các
phương pháp mổ như đường mổ, cách loại bỏ
túi phình. Các biến chứng sau mổ được thu
thập, đánh giá kết quả điều trị qua thang điểm
GOS (Glasgow Outcome Score) khi ra viện và
chụp DSA kiểm tra sau mổ. Bệnh nhân được
theo dõi và đánh giá kết quả điều trị sau 3, 6
tháng và mỗi năm theo thang điểm GOS.
KẾT QUẢ
Trong 20 trường hợp tỷ lệ phân bố giới tính
nữ/nam = 1/3, các bệnh nhân nam chiếm đa số.
Tuổi trung bình 47,3 ± 6,9, tuổi nhỏ nhất là 38 và
lớn nhất 61.
Hầu hết bệnh nhân nhập viện vì túi phình
đã vỡ, 17 trường hợp chiếm 85%. Các trường
hợp này có 16 trường hợp nhập viện vì bệnh
cảnh đột quị với biểu hiện đau đầu đột ngột dữ
dội, buồn nôn, nôn, co giật, lơ mơ hoặc hôn mê.
Còn lại 1 trường hợp vỡ túi phình nhập viện vì
đau đầu, sốt và lơ mơ được chẩn đoán nhầm là
viêm màng não, được chọc dò thắt lưng thấy
dịch não tủy có nhiều hồng cầu và được chẩn
đoán xuất huyết dưới nhện. Trong số các túi
phình vỡ có 3 trường hợp túi phình vỡ lần thứ 2
trước khi được can thiệp phẫu thuật. Ba trường
hợp túi phình chưa vỡ nhập viện chủ yếu là do
các triệu chứng chèn ép thân não như tê và yếu
tứ chi, nuốt khó.
Hình 1: các hình ảnh chẩn đoán trước mổ. A: CT đầu không cản quang có xuất huyết dưới nhện,
xuất huyết não thất IV. B: MRI T1W, khối choáng chỗ chèn ép thân não. C: CTA có hình ảnh túi
phình dạng hình thoi. D: DSA có túi phình động mạch đốt sống hình thoi sau PICA.
Tất cả 17 trường hợp được chụp CT đầu
không cản quang, thời gian chụp sau đột quị
trung bình 34,2 giờ (sớm nhất 1 giờ và muộn
nhất 170 giờ). Xuất huyết dưới nhện 16 trường
hợp chiếm 94,1%. Xuất huyết não thất IV 13
trường hợp chiếm 76,5%, đây là dấu hiệu rất có
giá trị trong chẩn đoán xuất huyết do vỡ túi
phình tuần hoàn sau, đặc biệt là túi phình động
mạch đốt sống (Hình 1A).
Các trường hợp túi phình chưa vỡ nhập viện
vì dấu hiệu chèn ép thân não nên được chẩn
đoán ban đầu bằng MRI sọ não có tiêm
A B C D
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 68
gadolium. Cả 3 trường hợp này đều có hình ảnh
khối choáng chỗ chèn ép vùng thân não (hình
1B). Khi được tái tạo hình ảnh mạch máu cho
thấy có hình ảnh túi phình động mạch đốt sống.
Ngoài ra MRI còn cho chẩn đoán phân biệt túi
phình dạng hình thoi hay túi phình bóc tách.
MRI sọ não được chỉ định trong 11/20 trường
hợp túi phình.
Tất cả 20 trường hợp được chụp DSA mạch
não xác định chẩn đoán. Trong 17 trường hợp
túi phình vỡ thời gian chụp DSA sau vỡ trung
bình 7,7± 4,5 ngày, sớm nhất 1 ngày và muộn
nhất 17 ngày. Túi phình được xác định sự tương
quan với động mạch tiểu não sau dưới (PICA).
Trong đó, túi phình sau gốc PICA 11 trường
hợp (chiếm 55%), túi phình trước gốc PICA 1
trường hợp (5%), túi phình có gốc PICA cắm
ngay trên thành túi phình 3 trường hợp (15%)
còn lại 5 trường hợp (25%) không thấy được sự
tương quan này trên DSA hoặc do PICA bên có
túi phình thiểu sản hoặc không có (Hình 1D).
Đánh giá tình trạng bệnh nhân trước mổ
bằng phân độ Hunt- Hess. Tại thời điểm nhập
viện có 3 trường hợp Hunt- Hess độ 3 và 1
trường hợp độ 4, các bệnh nhân sẽ được hồi sức
nội khoa, khi tình trạng tốt hơn (hunt- hess 1-2)
chúng tôi mới tiến hành phẫu thuật kẹp túi
phình. Tại thời điểm trước mổ Hunt- hess độ 1
có 13 trường hợp (65%), Hunt- Hess độ 2 có 4
trường hợp (chiếm 20 %) còn lại 3 trường hợp
túi phình chưa vỡ, không có bệnh nhân nào có
tình trạng nặng trước khi phẫu thuật.
Thời điểm can thiệp phẫu thuật đối với
các bệnh nhân có túi phình vỡ trung bình là
16,5± 8,6 ngày, sớm nhất là 7 ngày và muộn
nhất là 34 ngày.
Đường mổ dùng để tiếp cận túi phình là sau
xoang sigma (retrosigmoid) 13 trường hợp
(65%), đường xuyên lồi cầu (transcondylar) 5
trường hợp (25%) và 2 trường hợp còn lại tiếp
cận động mạch đốt sống đoạn ngoài sọ trước
khi nó chui qua màng cứng ở lỗ chẩm (hình 2).
Hình 2: Thắt động mạch đốt sống ngoài sọ.
Phương pháp loại bỏ túi phình: kẹp tắc 2
đầu túi phình 15 trường hợp (75%), chỉ kẹp tắc
đầu gần túi phình đoạn động mạch đốt sống
trong sọ 3 trường hợp (15%) và hai trường hợp
còn lại kẹp tắc động mạch đốt sống mang túi
phình đoạn ngoài sọ (10%).
Sau khi ra viện tình trạng tốt (GOS 4 - 5) có
13 trường hợp (65%), trung bình (GOS 3) có 4
trường hợp (20%), xấu (GOS 2) 1 trường hợp
(5%), tử vong 2 trường hợp (10%).
Biến chứng sau mổ thường gặp nhất là liệt
dây thần kinh sọ thấp. Liệt thần kinh sọ thấp
mức độ nặng 4 trường hợp (20%), mức độ trung
bình 5 trường hợp (25%) và không liệt hoặc liệt
ở mức độ nhẹ 11 trường hợp (55%). Trong quá
trình theo dõi 9 trường hợp liệt thần kinh sọ
thấp mức độ trung bình và nặng sẽ hồi phục
sang mức độ nhẹ trung bình 1,8 ± 1 tháng (sớm
nhất là 2 tuần và lâu nhất là 3 tháng), bệnh nhân
có thể nuốt được mà không cần trợ giúp.
Một số biến chứng khác gồm có viêm phổi
sau mổ 3 trường hợp (15%), liệt nửa người
(15%), viêm màng não 1 trường hợp (5%), dò
dịch não tủy qua vết mổ 1 trường hợp (5%), 1
trường hợp (5%) đầu nước cần phải đặt V-P
shunt.
DSA mạch máu não hoặc CTA mạch máu
não được chụp kiểm tra 18/20 trường hợp. Phim
kiểm tra cho thấy tất cả túi phình được kẹp tắc
hoàn toàn, trong đó thấy được PICA chiếm
61,1% (hình 3).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 69
Hình 3: Bảo tồn PICA sau kẹp tắc động mạch đốt
sống.
Quá trình theo dõi được thực hiện 16 trường
hợp / 18 trường hợp mổ sống, đạt 94,1%, có một
trường hợp bệnh nhân không quay lại tái khám,
một trường hợp bệnh nhân tử vong do nguyên
nhân bệnh lý khác. Thời gian theo dõi trung
bình 18,7 tháng (ngắn nhất 1 tháng và dài nhất
59 tháng). Trong quá trình theo dõi tình trạng
tốt (GOS 4 – 5) 14 trường hợp (chiếm tỷ lệ 14/18
= 77,8%, do 2 ca ra viện tốt nhưng không quay
lại tái khám) và có thêm 1 trường hợp tử vong.
BÀN LUẬN
Trong 20 trường hợp của chúng tôi hầu hết
các trường hợp được chỉ định do túi phình đã
vỡ. Một số trường hợp còn lại túi phình chưa vỡ
nhưng có triệu chứng chèn ép thân não được chỉ
định phẫu thuật.
Phẫu thuật loại bỏ túi phình là phương pháp
xâm lấn hơn so với can thiệp nội mạch, tuy
nhiên hiệu quả điều trị lâu dài triệt để hơn.
Ngoài ra, trong điều kiện hiện tại phẫu thuật có
chi phí thấp hơn nhiều so với can thiệp nội
mạch, nên phù hợp với tình hình kinh tế đại đa
số người dân nước ta. Do đó trong chọn lọc
bệnh để phẫu thuật chúng tôi chỉ tiến hành ở
những bệnh nhân có tình trạng lâm sàng tương
đối tốt để có khả năng chịu được cuộc mổ để có
tiên lượng tốt sau mổ. Nếu như tình trạng bệnh
nhân lúc nhập viện nặng (Hunt-Hess 3-4) chúng
tôi sẽ điều trị nội khoa nếu bệnh nhân có cải
thiện khá hơn, Hunt hess 1-2 thì chúng tôi mới
tiến hành phẫu thuật. Trong 20 trường hợp này
đều có Hunt- Hess trước mổ dưới 3.
Chọn lựa thời điểm phẫu thuật đối với túi
phình tuần hoàn sau nói chung và túi phình
động mạch đốt sống còn có nhiều điểm khác so
với các túi phình thông thường thuộc tuần hoàn
trước. Một đặc điểm quan trọng là động mạch
đốt sống đoạn nằm hố sọ sau chật hẹp, liên
quan đến các cấu trúc quan trọng như hành não,
cầu não, các dây thần kinh sọ (VII. IX, X, XI).
Những ngày đầu sau xuất huyết dưới nhện não
phù nhiều, trong khi mổ đòi hỏi phải vén não
do đó dễ làm tổn thương các cấu trúc não và
thần kinh lân cận. Phẫu thuật càng sớm thì tỷ lệ
biến chứng và tử vong sau mổ càng cao. Hầu hết
các tác giả đều cho rằng mổ sau 7 ngày là thời
điểm thích hợp nhất (3,4). Tất cả các trường hợp
chúng tôi nghiên cứu được tiến hành phẫu thuật
sau 7 ngày kể từ lần vỡ túi phình gần nhất.
Chọn lựa đường mổ tiếp cận túi phình vị trí
này cũng phải đảm bảo được nguyên tắc cơ bản
là có thể khống chế đầu gần (proximal control)
và tiếp cận được túi phình. Đường mổ dưới
chẩm sau xoang sigma (retrosigmoid) và đường
mổ xuyên lồi cầu (transcondylar) được dùng để
tiếp cận túi phình vị trí này. Mỗi đường mổ có
những ưu điểm và nhược điểm riêng. Hai yếu tố
quyết định chính chọn lựa đường mổ là khoảng
cách túi phình so với bờ lỗ chẩm và khoảng cách
túi phình so với đường giữa (càng gần đường
giữa túi phình càng nằm phía trước thân não).
Đường mổ xuyên lồi cầu cho thấy có nhiều ưu
điểm hơn đối với túi phình loại này, có thể
khống chế được động mạch nuôi từ bên ngoài
sọ, tiếp cận được túi phình thấp sát bờ lỗ chẩm
hoặc cho tiếp cận ra phía trước thân não tốt hơn.
Tuy nhiên, đường mổ này đòi hỏi phải mất
nhiều thời gian và ít quen thuộc với nhiều phẫu
thuật viên. Đường mổ dưới chẩm sau xoang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 70
sigma quen thuộc với hầu hết các phẫu thuật
viên thần kinh, thời gian mở sọ nhanh, ít mất
máu. Tuy nhiên, đường mổ này chỉ áp dụng cho
những túi phình có vị trí cao hơn bờ lỗ chẩm 1
cm và cách đường giữa ít nhất 0,5 cm trên phim
mạch máu não(3,4,6). Ngoài ra trong nghiên cứu
chúng tôi còn có 2 trường hợp kẹp tắc động
mạch túi phình đoạn ngoài sọ. Đây là những
trường hợp được đánh giá không thể kẹp tắc hai
đầu túi phình, thay vì kẹp tắc đầu gần trong sọ
chúng tôi bóc tách động mạch đốt sống tại vị trí
trước khi chui vào màng cứng tại lỗ chẩm trên
cung sau C1, tại đây động mạch đốt sống mang
túi phình bị thắt bỏ để giảm nguy cơ xuất huyết
lại do vỡ túi phình.
Kẹp tắc động mạch đốt sống một bên có thể
thực hiện được mà không gây biến chứng, tuy
nhiên phải đảm bảo PICA phải được bảo tồn để
tránh nhồi máu các nhánh xuyên thân não và
tuần hoàn bàng hệ với động mạch đốt sống đối
bên, bàng hệ với tuần hoàn trước phải tốt (6). Để
đánh giá tuần hoàn bàng hệ này dựa vào hình
ảnh DSA và thủ thuật tắc thử động mạch đốt
sống trong khi chụp DSA (baloon test), đánh giá
khả năng dung nạp của bệnh nhân khi tắc một
động mạch đốt sống. Đối với túi phình sau gốc
PICA thì không cần làm test tắc thử chỉ cần
đánh giá hình ảnh động mạch đốt sống đối bên
và tuần hoàn trước. Túi phình vị trí này sẽ ưu
tiên được kẹp tắc hai đầu vì sẽ loại bỏ hoàn toàn
túi phình. túi phình trước gốc PICA cũng được
kẹp tắc hai đầu, tuy nhiên cần phải đánh giá khả
năng dung nạp trước vì sau tắc, PICA lúc này sẽ
nhận máu từ động mạch đốt sống đối bên.
Trường hợp túi phình có PICA xuất phát ngay
trên thành túi phình thì nguyên tắc điều trị là
phải kẹp tắc hai đầu sau đó bypass cắm lại
PICA, tuy nhiên điều kiện tại khoa chúng tôi
chưa thực hiện được loại bypass này nên để
giảm nguy cơ vỡ túi phình chúng tôi chỉ tắc đầu
gần túi phình (trong sọ hoặc ngoài sọ), chờ cho
túi phình bị huyết khối tắc dần và hình thành
dần bàng hệ sau khi PICA tắc dần theo túi
phình. Khi tắc chỉ tắc đầu gần túi phình dạng
hình thoi thì vẫn còn một tỷ lệ nhỏ túi phình vỡ
lại, và nguy cơ bị huyết tắc do huyết khối hình
thành trong lòng túi phình trôi theo dòng máu(3,
4).
Biến chứng sau mổ thường gặp đối với túi
phình vị trí này là liệt dây thần kinh sọ thấp.
Theo Hisam thì mức độ liệt thần kinh sọ thấp
chia ra thành các mức độ: không liệt, liệt nhẹ
(bệnh nhân chỉ khàn giọng và các chức năng
nuốt bình thường), liệt trung bình (không nuốt
được cần phải hỗ trợ nuôi ăn qua thông dạ dày
hoặc mở dạ dày nuôi ăn) và liệt nặng (không thở
được do tắc đường hô hấp trên, cần phải thở
qua nội khí quản hoặc mở khí quản). Đối với
tổn thương một bên thường chỉ liệt ở mức độ
nhẹ hoặc trung bình và hầu hết điều sẽ hồi phục
sau đó hoặc phản xạ nuốt được bù trừ bởi bên
đối diện.)1] Trong các trường hợp liệt thần kinh
sọ thấp của chúng tôi kể cả mức độ nặng cũng
đều hồi phục sang mức độ nhẹ và thời gian hồi
phục này tối đa là 3 tháng. Do biến chứng này
có thể tắc đường thở nên tất cả các trường hợp
sau mổ chúng tôi lưu nội khí quản ít nhất 24 giờ
sau đó đánh giá tình trạng tri giác và các dấu
thần kinh khu trú khác trước khi rút nội khí
quản. Có 1 trường hợp tắc đường thở khi rút nội
khí quản sau 7 ngày, chúng tôi tiến hành mở khí
quản và chờ đợi sự bù trừ và hồi phục dần.
Tỷ lệ tử vong và di chứng nặng 15%. Trường
hợp tử vong thứ nhất do tổn thương vùng thân
não do vén tiểu não quá mức trong quá trình
phẫu thuật. Trường hợp này do có sự thay đổi
của đường đi động mạch đốt sống, động mạch
đốt sống bên mang túi phình đi lệch nhiều về
phía đối diện do đó trong quá trình tiếp cận kẹp
đầu xa túi phình đã vén não nhiều. Những
trường hợp này không nhất thiết phải kẹp tắc
hai đầu túi phình mà chỉ cần kẹp đầu gần sẽ an
toàn hơn và cũng tác dụng làm tắc túi phình.
Trường hợp tử vong còn lại do trong quá trình
phẫu thuật làm tổn thương nhiều dây thần kinh
sọ thấp trong lúc bóc tách và tiếp cận túi phình
sau mổ bị liệt thần kinh sọ thấp nặng gây viêm
phổi hít và không đáp ứng với điều trị. Do đó
cần phải đánh giá mức độ tổn thương thần kinh
sọ thấp sau mổ, nếu cần lưu nội khí quản lâu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 71
hơn hoặc phải mở khí quản. Các trường hợp liệt
dây thần kinh sọ thấp mức độ trung bình, bệnh
nhân được nuôi ăn bằng sonde dạ dày chờ đến
khi chức năng nuốt được hồi phục.
Ngoài 3 trường hợp sau mổ xấu còn lại tỷ lệ
có GOS 4-5 là 65% và GOS 3 là 20%, đây là tỷ lệ
khá cao và và có thể chấp nhận được. Trong
những trường hợp có GOS 3 có 3 trường hợp liệt
dây thần kinh sọ thấp sau mổ cần phải hỗ trợ
nuôi ăn và như đã nói trên thì biến chứng này sẽ
hồi phục.
Trong quá trình theo dõi cho thấy không
trường hợp nào túi phình vỡ lại. Có 3 bệnh nhân
có GOS 3 đều cải thiện sang GOS 4 -5, chỉ trừ
một trường GOS 3 do yếu nửa người là không
hồi phục (do tổn thương nhồi máu PICA).
Không có trường hợp nào diễn tiến xấu hơn
trong quá trình theo dõi ngoại trừ 1 trường hợp
sau mổ có GOS 2 tử vong.
KẾT LUẬN
Túi phình động mạch đốt sống dạng hình
thoi là túi phình khá hiếm gặp, tuy nhiên cũng
như túi phình nội sọ khác cũng có nguy cơ vỡ,
và khi đã vỡ thì tỷ lệ vỡ lại cao và một số trường
hợp có huyết khối lòng túi phình có thể gây
chèn ép thân não cho nên cần phải can thiệp loại
bỏ túi phình.
Bệnh lý này có thể điều trị được bằng phẫu
thuật tắc động mạch mang túi phình, với kết
quả điều trị có GOS lúc ra viện tốt đạt 65% và
sau thời gian theo dõi tỷ lệ GOS 4-5 chiếm 77,8%
Biến chứng thường gặp nhất là liệt dây thần
kinh sọ thấp sau mổ, do đó cần phải đánh giá
mức độ liệt sau mổ để chọn thời điểm rút nội
khí quản thích hợp hoặc mở khí quản để tránh
biến chứng viêm phổi hít. Tuy nhiên biến chứng
này đa số sẽ hồi phục trong vòng 3 tháng sau
mổ nhờ sự hồi phục và cơ chế bù trừ của các
dây thần kinh sọ thấp đối bên.
Các biến chứng như nhồi máu, thiếu máu
não, huyết tắc não, tái thông túi phình, đặc biệt
là vỡ túi phình lại chưa thấy trong quá trình
theo dõi, nhất là đối với các trường hợp chỉ kẹp
tắc đầu gần túi phình nên chúng tôi cần phải
theo dõi thời gian lâu dài và với số lượng bệnh
nhiều hơn. Nhưng với tỷ lệ vỡ lại túi phình 83%
trong năm đầu tiên đối với túi phình đã vỡ
không điều trị thì với kết quả này có thể kết luận
túi phình động mạch đốt sống dạng túi có thể
điều trị được bằng kẹp tắc động mạch mang túi
phình với kết quả sau mổ có thể chấp nhận
được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-khayate H, Beshay J. Manner D, White J (2005). Vertebral
artery- posteriorinferior cerebellar artery aneurysms: Clinical
and lower cranial nerve outcome in 52 patients. Neurosurgery
56: 2-11
2. Andol T, Shirakami S, Nakasmisa T (1992). Clinical of analysis of
a series of vertebral artery aneurysm cases. Neurosurgery 31:
987- 993.
3. Hoh LB, (2004) Vertebral artery, posterior inferior cerebellar
artery, and vertebrobasilar junction aneurysms. In: Youman,
Neurological Surgery, 5th edition, pp 2007-2023, Saunder, New
York.
4. Kobayashi S, Goel A, Hongo K (1997). Verteral Artery
Aneurysm. In Neurosurgery of Complex Tumors & Vascular
Lesion, pp: 114- 125, Churchill Livingstone, New York.
5. Komota RJ, Mocco J, Solomon RA (2008). Guidelines for the
surgical treatment of unruptured intracranial aneurysms: the
first annual J. Lawrence poll memorial reaearch symposium-
controversies in the management of the cerebral aneurysms.
Neurosurgery 62: 183–194.
6. Rhoton AL J (2000). The far- lateral approach anh its
transcondylar, supracondylar and paracondylar extensions.
Neurosurgery supplement 47: S197- S209
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kep_dong_mach_mang_tui_phinh_trong_dieu_tri_tui_phinh_dong_m.pdf