Với từng nhóm công trình cần xây dựng mô hình
công trình điển hình của nhóm để tiến hành mô
phỏng. Đây là công việc rất quan trọng, đòi hỏi phân
tích, tổng hợp các kết quả khảo sát thực tế với số
lượng đủ lớn. Công trình điển hình cần có tính đại
diện cao cho nhóm công trình đang xét. Thực tế cho
thấy, công trình điển hình ở mỗi nước có sự khác biệt
đáng kể phụ thuộc vào đặc điểm địa phương. Với
Singapore [4], công trình văn phòng điển hình dùng
trong mô phỏng có 10 tầng, mặt bằng hình vuông diện
tích 625 m2, không có kết cấu che nắng bên ngoài và
công suất chiếu sáng là 20 W/m2. Trong khi đó, công
trình văn phòng cỡ lớn điển hình ở Philippine có 10
tầng với mặt bằng hình chữ nhật diện tích 1565 m2,
che nắng bên ngoài 1m và công suất chiếu sáng là
17,2 W/m2 [5]. Còn ở Thái Lan [6] công trình văn
phòng điển hình có 15 tầng với mặt bằng hình chữ
nhật, công suất chiếu sáng 18,4 W/m2. Các nghiên
cứu về vấn đề này chưa được thực hiện đồng bộ ở
nước ta, do đó, xây dựng mô hình công trình vẫn là
vấn đề bỏ ngỏ. Đây là việc làm cần thiết ở Việt Nam
trong thời gian tới
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 838 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kết cấu công nghệ xây dưng - Cách nhiệt cho tòa nhà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g là 
17,2 W/m2 [5]. Còn ở Thái Lan [6] công trình văn 
phòng điển hình có 15 tầng với mặt bằng hình chữ 
nhật, công suất chiếu sáng 18,4 W/m2. Các nghiên 
cứu về vấn đề này chưa được thực hiện đồng bộ ở 
nước ta, do đó, xây dựng mô hình công trình vẫn là 
vấn đề bỏ ngỏ. Đây là việc làm cần thiết ở Việt Nam 
trong thời gian tới. 
 Truyền nhiệt qua lớp vỏ công trình là một quá 
trình nhiệt động học phức tạp theo thời gian, phụ 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
46 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tiến trình nhiệt 
bên ngoài, hướng và cường độ bức xạ mặt trời thay 
đổi sẽ khiến giá trị truyền nhiệt qua lớp vỏ thay đổi và 
từ đó yêu cầu năng lượng cho việc điều hòa không 
khí cũng thay đổi theo. Cho đến nay, phương pháp 
tính toán truyền nhiệt và năng lượng tiêu thụ đã được 
nghiên cứu và phát triển và đã được chuẩn hóa. Để 
hỗ trợ cho việc tính toán, nhiều phần mềm đã được 
phát triển phục vụ cho việc tính toán tự động như 
EnergyPlus, DOE-2, eQuest, BLAST, NBSLD,... 
Trong số đó, DOE-2 và eQuest được sử dụng khá 
phổ biến. Các nghiên cứu đã cho thấy kết quả mô 
phỏng bằng các phần mềm này phù hợp với tính toán 
thủ công theo phương pháp của ASHRAE cũng như 
đo đạc kiểm chứng thực tế. Sử dụng phần mềm này 
cho phép đánh giá truyền nhiệt và năng lượng tiêu thụ 
theo từng giờ cụ thể và trung bình theo ngày, tháng 
hay năm. Đây là công cụ hữu hiệu để đánh giá ảnh 
hưởng của sự thay đổi các thông số thiết kế như vật 
liệu tường, hướng tòa nhà, của các kết cấu chắn 
nắng, ... đến tiêu thụ năng lượng của tòa nhà. Các 
nghiên cứu xây dựng công thức tính OTTV ở các 
nước Đông Nam Á cũng được thực hiện với sự hỗ trợ 
của phần mềm DOE-2. 
 Để vận hành DOE-2 cần xây dựng được cơ sở dữ 
liệu về thời tiết của khu vực nghiên cứu bao gồm các 
thông số về nhiệt độ theo giờ (8760 giờ trong một 
năm), gió, độ ẩm và bức xạ mặt trời. Chi tiết hóa dữ 
liệu thời tiết sẽ cho phép phân tích tỉ mỉ tiến trình nhiệt 
của công trình theo từng giờ trong cả năm. 
 Mô phỏng bằng phần mềm tính toán là một công 
cụ mạnh để phân tích, đánh giá OTTV trong mối 
tương quan với các thông số khác. Tuy nhiên, việc 
phân tích cần phải được thực hiện theo một quy trình 
nghiêm ngặt và với các giới hạn nhất định. Tổng kết 
kinh nghiệm mô phỏng [7] cho thấy, để phân tích 
trước tiên cần xác định rõ mục tiêu tiến hành, lựa 
chọn các biến số và khoảng biến thiên. Ở đây có thể 
đặt mục tiêu là phân tích một thành phần đã có trong 
OTTV hoặc đánh giá khả năng bổ sung thêm thành 
phần mới vào công thức tính OTTV. Nếu đặt mục tiêu 
đánh giá thành phần mới thì cần định dạng công thức 
tính mới. Tiếp theo cần xác định phương pháp phân 
tích công trình (theo khu vực được điều hòa, theo 
vùng bên ngoài, theo hướng, ...). Chạy mô phỏng có 
thể được tiến hành khi thay đổi một thông số hoặc 
một nhóm thông số tới đầu ra (nhu cầu tiêu thu năng 
lượng hàng năm, nhu cầu đỉnh, yếu tố kinh tế, ..). 
Việc chạy mô phỏng phải được thực hiện với số 
lượng đủ để có thể xây dựng mô hình hồi quy. 
Dựa trên mô hình hồi quy sẽ tiến hành lựa chọn dạng 
và các hệ số của công thức tính. 
 Và cuối cùng, để khẳng định sự phù hợp của 
công thức tính đã xây dựng nhờ phân tích thông số 
năng lượng nhờ mô hình mô phỏng, cần tiến hành 
các thí nghiệm, đo đạc thực tế tại công trình để kiểm 
chứng kết quả tính toán so với các giá trị thực tế. Việc 
áp dụng công thức tính thu được bằng mô phỏng 
cũng cần được thường xuyên đối chiếu, đánh giá. 
Qua đó, có thể đề xuất điều chỉnh các hệ số hoặc 
thêm, bớt các thành phần trong công thức. Khi đó, lại 
tiếp tục một chu kỳ nghiên cứu phân tích thông số 
năng lượng bằng mô hình mô phỏng mới nhằm dần 
hoàn thiện phương pháp tính. 
5. Kết luận 
 Giá trị truyền nhiệt tổng qua lớp vỏ được sử dụng 
rộng rãi tại nhiều nước để đánh giá công trình từ góc 
độ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy 
nhiên, việc ứng dụng ở Việt Nam còn gặp nhiều trở 
ngại do chưa thiết lập được phương pháp tính toán 
thống nhất. 
 Phân tích kinh nghiệm của các nước trong việc 
thiết lập công thức tính giá trị truyền nhiệt tổng dựa 
trên phân tích thông số năng lượng bằng mô hình mô 
phỏng cho phép đề xuất hướng xây dựng công thức 
tính giá trị truyền nhiệt tổng cho các nhóm công trình 
ở Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ có tính bức thiết 
cao, cần được thực hiện thông qua các chương trình, 
đề tài với sự tham gia rộng rãi của đội ngũ chuyên gia 
và sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Joseph C. Lam, S. C. M. Hui. “A Review of 
Building Energy Standards and Implication for 
Hong Kong”, Building Research and Information. 
Volume 24, Number 3, 1996, pp.131-140. 
[2]. “Building and Construction Authority of 
Singapore”. (2008). Code on envelope thermal 
performance for building. 
[3]. Ministry of Energy, Telecommunications and 
Posts. (1989). Guideline for Energy Efficiency in 
Buildings Malaysia. 
[4]. Turiel I., Curtis R., Levine M. “Parametric Energy 
Analysis in Support of Singapore Energy 
Conservation Standards for Commercial 
Buildings”, Proceeding of the ASEAN Conference 
on Energy Conservation in Building, Singapore, 
29-31 May 1984. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 47 
[5]. Department of Energy, Republic of the Philipines. 
(1993). “Guidelines for energy conserving design 
of building and utility systems”. 
[6]. Chirarattanon S., Rakwamsuk P., Kaewkiew J. A. 
(1989). “Proposed Building Performance Standard 
for Thailand: An Introduction and Premilinary 
Assessment of the Potential for Energy 
Management”. Proceeding of the ASEAN Special 
Sessions of the ASHRAE Far East Conference on 
Air-Conditioning in Hot Climates, Lawrence 
Berkeley Laboratory Report LBL-28639, Kuala 
Lumpur, Malaysia. 
[7]. Deringer J.J., Busch J.F. (1992). ASEAN-USAID 
Building Energy Conservation Project. Volume I: 
Energy Standards. Final Report LBL-32380. 
Ngày nhận bài: 13/11/2015. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 25/11/2015. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
48 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
ẢNH HƯỞNG CỦA TỈ LỆ CỐT LIỆU ĐẾN TÍNH CHẤT MA SÁT GIỮA 
BÊ TÔNG VÀ THÀNH ỐNG BƠM THEO THỜI GIAN 
ThS. VŨ VĂN NHÂN, TS. NGUYỄN THẾ DƯƠNG 
Trường Đại học Duy Tân 
Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả thực nghiệm đo 
đạc thông số bơm của một số cấp phối bê tông bao 
gồm độ sụt, thông số ma sát giữa vữa bê tông và 
thành ống bơm theo thời gian lưu giữ vữa bê tông 
cũng như sự thay đổi của hàm lượng cốt liệu lớn và 
cốt liệu nhỏ. Kết quả thực nghiệm cho thấy tỉ lệ cốt 
liệu lớn và cốt liệu nhỏ trong cấp phối bê tông ảnh 
hưởng rất lớn đến tính công tác và tính dễ hay khó 
bơm của bê tông. Thí nghiệm cho thấy tỉ lệ C/(C+Đ) 
tối ưu để phục vụ công tác bơm bê tông nằm trong 
khoảng từ 0.45 đến 0.50. Mặt khác, quy luật thay đổi 
của các thông số ma sát giữa bê tông với thành ống 
bơm không đồng nhất với quy luật thay đổi của độ sụt. 
1. Mở đầu 
Bơm bê tông là một trong những biện pháp vận 
chuyển bê tông từ vị trí tập kết đến vị trí đổ bê tông, là 
một trong những biện pháp được sử dụng phổ biến 
trên thế giới và ở nước ta. Hầu như các công trình 
cao tầng, công trình cầu, công trình thủy điện, đều 
sử dụng biện pháp thi công này. Việc thi công đối với 
nhà dân tại các thành phố lớn cũng sử dụng bê tông 
thương phẩm và sử dụng biện pháp bơm. Tuy nhiên, 
trong thực tế, các kỹ sư của các trạm trộn cũng như 
kỹ sư vận hành máy bơm thường ít để ý đến việc tính 
toán thiết kế tối ưu thành phần bê tông để quá trình 
bơm được diễn ra thuận tiện nhất, an toàn nhất và tiết 
kiệm năng lượng nhất. Trong quá trình tính toán cấp 
phối phục vụ bơm, người ta thường mới chỉ để ý đến 
thông số độ sụt và thời gian lưu sụt. Tuy nhiên, một 
số nghiên cứu gần đây ở trong nước [1-3] cũng như 
quốc tế [4-7], các tác giả đã chỉ ra rằng, chỉ riêng 
thông số độ sụt chưa đủ để xác định được một loại bê 
tông dễ bơm hay khó bơm. Ngoài yếu tố độ sụt thì 
các tính chất tiếp xúc giữa bê tông và thành ống bơm 
đóng vai trò rất quan trọng. Các tính chất này bao 
gồm ngưỡng trượt ban đầu và hằng số nhớt bề mặt. 
Bê tông có ngưỡng trượt ban đầu lớn và hằng số 
nhớt bề mặt lớn là các bê tông khó bơm, ngược lại là 
bê tông dễ bơm. 
Hiện nay, khi thiết kế cấp phối bê tông các nhà 
cung cấp bê tông thương phẩm thường căn cứ vào 
các yêu cầu về cường độ và độ sụt để chọn trước 
hàm lượng xi măng, tỉ lệ N/X và tỉ lệ C/(C+Đ) để tính 
toán hàm lượng các vật liệu thành phần. Các giá trị 
này thường được chọn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, 
sau đó tiến hành các thí nghiệm đánh giá các chỉ tiêu 
chất lượng của hỗn hợp bê tông và bê tông để kiểm 
tra, điều chỉnh. Trong hỗn hợp bê tông xi măng, cốt 
liệu (bao gồm cốt liệu lớn và cốt liệu nhỏ) chiếm đến 
80-85% khối lượng, đây cũng là thành phần có tác 
động rất lớn đến tính công tác của hỗn hợp bê tông 
và cường độ của bê tông. Xét về mặt cấu trúc của 
hỗn hợp bê tông, để hỗn hợp bê tông có tính linh 
động cao thì các hạt cốt liệu phải dễ dàng trượt lên 
nhau, tức là giữa các hạt cốt liệu cần phải phải có một 
lớp màng vữa xi măng có chiều dày nhất định. Nếu 
giữ nguyên hàm lượng xi măng và tỉ lệ N/X thì khi tỉ lệ 
cốt liệu nhỏ và cốt liệu lớn trong hỗn hợp thay đổi thì 
chiều dày màng vữa này cũng thay đổi, dẫn đến tính 
công tác và tính dễ bơm của hỗn hợp cũng thay đổi. 
Cụ thể, nếu hỗn hợp có quá nhiều hàm lượng cốt liệu 
nhỏ sẽ làm tăng tỉ diện tiếp xúc bề mặt của hệ cốt 
liệu, bề dày màng vữa xi măng bao bọc sẽ mỏng đi, 
tính linh động của hỗn hợp cũng sẽ giảm đi, hỗn hợp 
khó bơm hơn. Ngược lại, nếu hỗn hợp có hàm lượng 
cốt liệu lớn quá lớn, bề dày màng vữa có thể tăng lên 
nhưng ma sát của các hạt cốt liệu lớn khi trượt lên 
nhau và ma sát của cốt liệu với thành ống bơm cũng 
tăng lên, do vậy tính linh động của hỗn hợp bê tông 
cũng kém đi và hỗn hợp cũng khó bơm hơn. Như vậy, 
tỉ lệ cốt liệu nhỏ và cốt liệu lớn cần nằm trong một giới 
hạn nhất định sao cho các tính công tác và tính dễ 
bơm của hỗn hợp bê tông đạt được là tốt nhất. Từ đó, 
có thể thấy rằng, cần thiết phải có những nghiên cứu 
cụ thể để đánh giá ảnh hưởng của tỉ lệ này đến tính 
công tác và tính dễ hay khó bơm của hỗn hợp bê 
tông, làm cơ sở cho việc lựa chọn tỉ lệ thành phần khi 
thiết kế cấp phối bê tông bơm. 
Các nghiên cứu trước đây [1-7] mới chỉ dừng lại ở 
việc đánh giá ảnh hưởng của thể tích hồ xi măng, tỉ lệ 
N/X, hàm lượng hạt mịn đến các thông số ma sát của 
bê tông bơm. Các nghiên cứu trên cũng chưa đề cập 
đến ảnh hưởng của yếu tố thời gian, là một trong 
những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến các tính chất của 
bê tông. Trong nghiên cứu này, các tác giả khảo sát 
các thông số bơm và thông số độ sụt do ảnh hưởng 
của tỉ lệ cốt liệu lớn và cốt liệu nhỏ có xét đến yếu tố 
 VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 49 
thời gian của một số cấp phối bê tông được sử dụng 
trong sản xuất bê tông thương phẩm trên địa bàn Đà 
Nẵng. Do tính chất vận chuyển hỗn hợp bê tông 
thương phẩm trong khu vực, các kết quả khảo sát 
được thực hiện cho các mốc thời gian 0 phút, 30 
phút, 60 phút và 90 phút. 
2. Thí nghiệm xác định và tính toán thông số bơm 
Các tài liệu [1-3, 6] đã trình bày một loại thí nghiệm 
mới để xác định các thông số ma sát tiếp xúc giữa bê 
tông tươi và thành ống bơm. Các thông số này bao 
gồm (1) ngưỡng trượt ban đầu τ0 là cơ sở tính toán 
áp lực cần thiết ban đầu của piston để đẩy bê tông 
bắt đầu dịch chuyển trong ống và (2) hệ số nhớt bề 
mặt η đặc trưng cho tính chất tiếp xúc bề mặt giữa bê 
tông và thành ống bơm, thể hiện quan hệ giữa lực 
bơm và vận tốc bơm (lưu lượng bơm) khi bê tông đã 
dịch chuyển trong ống. Hai thông số ma sát này bổ 
sung thêm cho thông số độ sụt giúp thiết kế thành 
phần cấp phối cũng như thiết kế bơm bê tông. Các 
thông số này được gọi là thông số bơm bê tông. 
Ứng suất trượt tại mặt tiếp xúc bê tông - thành ống 
khi bê tông dịch chuyển được tính [1-4]: 
  0= + (1) 
trong đó: 
 τ (Pa) là ứng suất trượt tại mặt tiếp xúc; 
 τ0 (Pa) là ngưỡng trượt ở mặt tiếp xúc; 
η (Pa.s/m) là hằng số nhớt; 
 (m/s) là vận tốc trượt tương đối giữa bê tông và 
thành ống. 
Trong trường hợp bê tông là dòng chảy đều, nếu 
xác định được các thông số 0 và  thì có thể xác 
định được áp lực bơm và lưu lượng bơm tương ứng. 
Trong trường hợp không phải là dòng chảy đều, các 
thông số này cho biết tính dễ bơm hay khó bơm của 
bê tông. 
2.1 Nguyên lý thí nghiệm 
Nguyên lý thí nghiệm, trình tự, thao tác thí nghiệm 
và xử lý kết quả được trình bày kỹ trong các tài liệu [2, 
6]. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu tóm tắt nguyên lý. Sự 
tiếp xúc giữa bê tông và thành ống bơm được mô 
phỏng lại theo sự tiếp xúc của một ống kim loại quay 
đều trong môi trường bê tông. Sự quay của trục được 
tạo ra và điều khiển bằng máy khuấy cơ học (hình 1a). 
Máy khuấy có thể ghi lại được tốc độ quay và mô men 
xoắn tương ứng. Tốc độ quay thay đổi theo thời gian 
được điều khiển bằng phần mềm. Bê tông đựng trong 
thùng chứa có đường kính 30 cm (hình 1b, c). Xi lanh 
hình trụ bằng thép có đường kính 106 mm, cao 100 
mm (hình 1b). Các thông số của thiết bị được tham 
khảo dựa trên cơ sở các nghiên cứu trong tài liệu [6]. 
Để đo đạc và tính toán các thông số ma sát, thí 
nghiệm được tiến hành ở 8 tốc độ quay khác nhau, từ 
12 vòng/phút đến 96 vòng/phút, gồm hai chu kỳ: Chu 
kỳ tăng tốc và chu kỳ giảm tốc. Mục đích của chu kỳ 
tăng tốc nhằm tạo ra lớp vữa giới hạn (lớp bôi trơn), 
mục đích của chu kỳ giảm tốc để xác định trị số mô 
men xoắn phục vụ cho việc tính toán các thông số ma 
sát của bê tông. Trong chu kỳ tăng tốc, vận tốc quay 
của xi lanh được tăng tuyến tính từ 0 đến 96 
vòng/phút trong thời gian 3 phút. Trong chu kỳ giảm 
tốc thì vận tốc quay được lập trình cho giảm dần ở 
các cấp tốc độ khác nhau (96, 84, 72, 60, 48, 36, 24, 
12 vòng/phút). 
 Mỗi thí nghiệm được thực hiện hai bước. Tại 
bước 1, bê tông được lấp đầy nửa bình chứa sao cho 
chỉ có mặt dưới của ống trụ được tiếp xúc với bê tông 
(hình 1b). Tại bước 2, bê tông được lấp đến cao độ 
mặt trên của ống, đảm bảo toàn bộ thành đứng tiếp 
xúc được với bê tông (hình 1c). Do quy luật phân bố 
ứng suất tiếp ở mặt đáy bê tông khó xác định nên 
trong thí nghiệm này, các thông số tiếp xúc giữa bê 
tông và thành ống được tính toán theo các giá trị ở 
bước 2 trừ đi các giá trị ở bước 1. 
Hình 1. Bộ dụng cụ thí nghiệm đo ma sát tiếp xúc giữa bê tông tươi và mặt ống thép (tại phòng thí nghiệm Xây dựng, 
Đại học Duy Tân). (a) Đầu khuấy cơ-điện. (b) Xi lanh quay và thùng chứa, bê tông được đổ vừa tiếp xúc mặt đáy bình. 
(c) Bình chứa đầy bê tông và xi lanh quay trong bê tông. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
50 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
2.2 Nguyên lý tính toán 
Gọi T1 và T2 là các mô men xoắn tương ứng ở 
các bước 1 và 2 với mỗi tốc độ quay Ω áp đặt vào 
trục. Mô men xoắn tác dụng trên mặt đứng của xi lanh 
là  2 1T T T . Từ mô men xoắn tính được ứng suất 
tiếp xúc giữa xi lanh và bê tông tươi: 
 2(2 ) 2
T T
R Rh R h
 
  (2) 
trong đó R và h lần lượt là bán kính và chiều cao của 
xi lanh. 
Tốc độ tiếp tuyến Vt tại mặt đứng của xi lanh 
được tính như sau: 
 2V R Rt     (3) 
trong đó: 
 là vận tốc góc tính theo rad/s; 
 là vận tốc góc tính theo vòng/s (  2 ). 
Ngưỡng trượt đơn vị ở mặt tiếp xúc được tính: 
 00 22
T
R h
 (4) 
Hệ số nhớt đơn vị  ở mặt tiếp xúc được tính: 
  
2
2 3
12
2 (2 )
Td
d dTR h
dV dd R R ht
 
 
 
 
   
 (5) 
Lưu ý rằng trong công thức (5), /dT d chính là 
độ dốc tức thời của đường quan hệT  xác định từ 
số liệu thực nghiệm. Các phép đo với bê tông thông 
thường cho thấy quan hệ này có thể xấp xỉ tuyến tính. 
Do vậy /dT d là độ dốc của đường quan hệ T  . 
Nếu đơn vị của các đại lượng chiều dài là mét, các 
đại lượng lực là Newton thì đơn vị của hệ số nhớt bề 
mặt là Pa.s/m. 
3. Cấp phối bê tông thí nghiệm 
Vật liệu chế tạo hỗn hợp bê tông thí nghiệm gồm: 
+ Xi măng Kim Đỉnh PCB40; 
+ Cát vàng, Mdl = 2.9, đảm bảo các yêu cầu 
theo TCVN 7570-2006; 
+ Đá dăm Dmax = 20mm, đảm bảo các yêu cầu 
theo TCVN 7570-2006; 
+ Phụ gia Sika Plast 257; 
+ Nước sạch. 
Bảng 1. Các loại cấp phối bê tông 
Thành phần vật liệu cho 1m3 bê 
tông C Đ0.5x1 Đ 1x2 C/(C+Đ) 
Tên cấp 
phối 
(kg) (kg) (kg) % 
C35 633 176.25 998.75 35 
C40 722 160.80 911.20 40 
C45 799 147.15 833.85 45 
C47 834 141.75 803.25 47 
C48 851 138.90 787.10 48 
C50 886 133.50 756.50 50 
C55 973 120.00 680.00 55 
C60 1064 106.35 602.65 60 
Thành phần cố định cho 1m3 bê tông gồm có: Xi 
măng (X) 450 kg; nước (N) 171 lít, tỉ lệ N/X=0.38; phụ 
gia 1.0 lít/100 kg X. Các thành phần còn lại như bảng 
1. Các cấp phối được chế tạo đáp ứng các yêu cầu 
theo [8]. 8 loại cấp phối có ký hiệu: C35, C40, C45, 
C47,C48, C50, C55, C60. 
Mục tiêu của bài báo là đi khảo sát sự thay đổi của 
các thông số ma sát khi thay đổi tỉ lệ cốt liệu lớn và 
cốt liệu nhỏ trong cấp phối bê tông có xét đến yếu tố 
thời gian. Do vậy các cấp phối bê tông được điều 
chỉnh tỉ lệ C/(C+Đ) thay đổi, nhóm nghiên cứu lựa 
chọn tỉ lệ C/(C+Đ) hiện đang được sử dụng phổ biến 
cho các cấp phối bê tông thương phẩm là từ 45% đến 
48% và mở rộng đến tỉ lệ 35% và 60%. Thời gian thí 
nghiệm đo đạc các thông số ma sát ở các mốc thời 
điểm 0 phút, 30 phút, 60 phút, 90 phút sau khi trộn 
hỗn hợp bê tông. 
4. Kết quả thí nghiệm 
Sau khi thực hiện thí nghiệm, kết quả thí nghiệm 
được tính toán và phân tích một cách nhanh chóng 
nhờ phần mềm “Pumping Parameters Calculation” 
[9]. Tập hợp kết quả thí nghiệm cho 8 cấp phối trên ở 
các thời điểm thí nghiệm khác nhau được trình bày ở 
bảng 2. 
 VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 51 
Bảng 2. Kết quả thí nghiệm. 
Thời gian lưu vữa bê tông Loại BT Thông số bơm 00 phút 30 phút 60 phút 90 phút 
SN (cm) 18 17 15 10 
0 (Pa) 87.89 122.89 78.12 125.80 
C35 
 (Pa.s/m) 391.39 493.05 549.72 804.36 
SN (cm) 19 18 15.5 11 
0 (Pa) 59.11 84.02 58.96 94.64 
C40 
 (Pa.s/m) 329.08 433.09 505.72 708.41 
SN (cm) 20 19 16 12 
0 (Pa) 48.17 63.61 46.61 68.89 
C45 
 (Pa.s/m) 321.24 415.51 465.36 620.28 
SN (cm) 21 19 17 13 
0 (Pa) 42.9 49.28 41.95 54.91 
C47 
 (Pa.s/m) 305.66 367.2 423.48 558.59 
SN (cm) 21 19 17 14 
0 (Pa) 40.26 44.22 36.74 46.28 
C48 
 (Pa.s/m) 277.77 346.5 415.87 540.4 
SN (cm) 19 18 16 13 
0 (Pa) 46.42 60.60 45.93 65.07 
C50 
 (Pa.s/m) 322.09 395.23 454.73 594.34 
SN (cm) 17 15 12 7 
0 (Pa) 50.17 64.74 49.74 78.37 
C55 
 (Pa.s/m) 334.24 418.63 482.17 630.57 
SN (cm) 17 15 10 5 
0 (Pa) 58.58 69.42 50.33 81.84 
C60 
 (Pa.s/m) 368.17 440.87 497.15 659.03 
Nhận xét: 
 Độ sụt của bê tông cao nhất khi tỉ lệ C/(C+Đ) từ 
45% đến 48%. Độ sụt giảm dần theo thời gian lưu sụt 
(hình 2a và hình 3a). Sự thay đổi độ sụt của các cấp 
phối có xu hướng gần như nhau (hình 3a). Mất sụt xảy 
ra rất nghiêm trọng ở thời điểm sau 60 phút đến 90 
phút sau khi chế tạo hỗn hợp bê tông. Hình 2a cho 
thấy với cấp phối bê tông có tỉ lệ C/(C+Đ) ≤ 40%, độ 
sụt sau thời điểm 90 phút còn lại khá thấp (SN=10-
11cm). Đối với cấp phối bê tông có tỉ lệ C/(C+Đ) từ 
55% trở lên thì sự mất mát độ sụt còn lớn hơn. Đến 
thời điểm 90 phút, độ sụt chỉ còn lại khoảng 5 - 7cm, 
không đảm bảo tính công tác của hỗn hợp bê tông 
bơm. Có thể giải thích như sau: Phụ gia siêu dẻo 
thường chỉ có tác dụng trong khoảng thời gian từ lúc 
bắt đầu trộn hỗn hợp bê tông đến thời điểm 60 phút 
[10]. Sau thời gian này tác động của phụ gia hầu như 
không đáng kể dẫn đến độ sụt sẽ giảm đi đáng kể. Mặt 
khác, đối với bê tông có tỉ lệ C/(C+Đ), tức là hàm 
lượng cát cao thì tỉ diện tiếp xúc của cốt liệu lớn dẫn 
đến màng hồ xi măng bao bọc xung quanh cốt liệu 
mỏng do vậy độ sụt của hỗn hợp bê tông thấp. Đối với 
bê tông có hàm lượng hạt thô lớn thì tính linh động 
cũng giảm do sự ma sát giữa các cốt liệu lớn với nhau 
lớn. Như vậy để đảm bảo tính công tác của hỗn hợp 
bê tông bơm theo thời gian thi công cũng nên khống 
chế tỉ lệ C/(C+Đ) trong khoảng từ trên 40% đến 50%. 
 Giá trị ngưỡng trượt 0 có xu hướng tăng ở thời 
điểm 30 phút so với ban đầu (khi phụ gia chưa hoạt 
tác dụng hoàn toàn), sau đó giảm xuống ở thời điểm 
60 phút và tăng trở lại ở thời điểm 90 phút (hình 2b). 
Sự giảm của thông số độ sụt ở thời điểm 60 phút có 
nghĩa là bê tông dễ được đẩy đi hơn, cho thấy xu 
hướng biến đổi khác với sự biến đổi của thông số độ 
sụt (thông số độ sụt ở thời điểm này giảm so với thời 
điểm ban đầu cho suy luận là bê tông sẽ khó bơm 
hơn). 
 Hằng số nhớt bề mặt  có xu hướng tăng theo thời 
gian lưu vữa (hình 2c). Tốc độ tăng nhanh thể hiện 
trong thời gian từ 60 đến 90 phút. Có nghĩa là theo thời 
gian, cùng một áp lực bơm thì bê tông sẽ được bơm 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
52 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
với lưu lượng thấp hơn. Xu hướng biến đổi này cũng 
gần với xu hướng mất độ sụt một cách liên tục theo 
thời gian. Tuy nhiên, khi xem xét các cấp phối có cùng 
một giá trị độ sụt thì giá trị các thông số ma sát lại khác 
nhau đáng kể. Ví dụ cấp phối C40 và cấp phối C50 có 
giá trị độ sụt bằng 19 cm nhưng các giá trị ngưỡng 
trượt ban đầu và hằng số nhớt bề mặt khác biệt nhau 
rất lớn. Như vậy có thể thấy rằng chỉ tiêu độ sụt không 
phản ánh hoàn toàn được tính chất dễ hay khó bơm 
của hỗn hợp bê tông. Đây là vấn đề cần lưu tâm khi 
hiện nay các cấp phối bê tông bơm chủ yếu được thiết 
kế theo yêu cầu về độ sụt. 
Quy luật tăng, giảm của các thông số ma sát 
theo thời gian như trên có thể giải thích theo cơ chế tác 
động của phụ gia: Thời điểm từ 0 phút đến 30 phút, tác 
dụng của phụ gia chưa hoàn toàn nên 0 và  tăng 
lên; thời điểm từ 30 phút đến 60 phút lúc này phụ gia 
gần như có tác dụng hoàn toàn nên 0 giảm đi đáng kể 
và  tăng chậm hơn; sau thời điểm 60 phút tác dụng 
của phụ gia hầu như không còn đáng kể nên 0 và  
tăng nhanh hơn. Tuy nhiên ngoài yếu tố thời gian, còn 
có thể kể đến sự bốc hơi nước trong quá trình lưu vữa. 
Yếu tố này chưa được xem xét trong nghiên cứu này. 
Vẫn theo các hình 2a, 2b và 2c, chúng ta thấy vị trí 
cao thấp của các đường0 và  là giống nhau giữa 
các loại cấp phối. Tức là đối với một cấp phối thì nếu 
ngưỡng trượt ban đầu lớn thì hằng số nhớt bề mặt 
cũng lớn. Tuy nhiên, thứ tự các đường độ sụt lại 
không giống với thứ tự các đường thông số ma sát. 
Điều đó khẳng định thêm lần nữa rằng thông số độ 
sụt không phản ánh hết được tính dễ bơm hay khó 
bơm của bê tông. 
Thực tế trong quá trình bơm, giá trị 0 ảnh hưởng 
đến áp lực khởi động ban đầu để đẩy bê tông trượt đi. 
Khi hệ thống đã hoạt động ổn định thì  lại quyết định 
đến lưu lượng bơm khi áp lực bơm không đổi. Do đó, 
giá trị này thông thường được quan tâm hơn trong tính 
toán và sẽ quyết định đến tốc độ thi công hoặc/ và chi 
phí nhiên liệu cho máy bơm. Theo bảng 2 và 3, sự gia 
tăng của giá trị  chủ yếu xảy ra ở sau thời điểm 60 
phút đến 90 phút, độ lớn và mức độ thay đổi của  tùy 
theo loại cấp phối với tỉ lệ C/(C+Đ) khác nhau. Như 
vậy, có thể thấy rằng với các hỗn hợp bê tông có thời 
gian thi công kéo dài sau 60 phút thì tỉ lệ C/(C+Đ) có 
tác động chủ yếu dẫn đến sự gia tăng về độ lớn của  . 
Số liệu kết quả thí nghiệm xác định các thông số ma 
sát của các loại cấp phối bê tông thể hiện ở bảng 2 và 
các hình 3b, 3c cho thấy sự thay đổi đáng kể của các 
thông số ma sát của bê tông khi tỉ lệ C/(C+Đ) thay đổi. 
Các giá trị thông số 0 và  đạt giá trị nhỏ nhất ở các tỉ 
lệ 47% và 48%. Khi tăng tỉ lệ này lên dần đến 60% hay 
giảm dần xuống đến 35% thì giá trị thông số 0 và  
cũng tăng dần lên và đạt giá trị rất lớn ở các tỉ lệ 40% 
và 35%. Điều này chứng tỏ khi hỗn hợp bê tông có quá 
nhiều cốt liệu lớn (đá dăm) hoặc quá nhiều cốt liệu nhỏ 
(cát) thì cũng trở nên khó bơm hơn. Qua các biểu đồ 
(hình 3a, 3b, 3c) cũng có thể thấy rằng tỉ lệ C/(C+Đ) tối 
ưu để hỗn hợp bê tông có độ sụt lớn và các thông số 
ma sát nhỏ, bê tông linh động và dễ bơm hơn nằm 
trong khoảng từ 45% đến 50%. 
Hình 2. Quan hệ giữa các thông số độ sụt, ma sát và thời gian lưu vữa 
 VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 53 
Hình 3. Quan hệ giữa các thông số đột sụt và ma sát theo thời gian và theo tỉ lệ C/(C+Đ) 
4. Kết luận 
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực 
nghiệm về tính chất lưu biến và ma sát của bê tông 
thương phẩm phụ thuộc vào thời gian lưu vữa, đồng 
thời đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu lớn và 
cốt liệu nhỏ đến các tính chất này. Một số kết luận có 
thể rút ra như sau: 
 Đối với hỗn hợp bê tông thí nghiệm, khi thời gian 
lưu sụt kéo dài đến thời điểm 90 phút thì tác động của 
phụ gia siêu dẻo ở hàm lượng 1.0 lít/100 kgX là không 
đáng kể, lúc này yếu tố ảnh hưởng đến tính chất ma 
sát của bê tông là tỉ lệ giữa cốt liệu lớn và cốt liệu nhỏ 
trong cấp phối bê tông. 
 Hàm lượng cốt liệu lớn và cốt liệu nhỏ trong cấp 
phối bê tông có tác động rất lớn đến tính chất ma sát 
của bê tông bơm. Đối với bê tông sử dụng trong thí 
nghiệm thì tỉ lệ C/(C+Đ) nằm trong khoảng từ 45% đến 
50% là phù hợp nhất để đảm bảo tính dễ bơm cũng 
như tính công tác của bê tông. 
 Thông số độ sụt không đủ phản ánh hết được tính 
dễ bơm hay khó bơm của hỗn hợp bê tông. Sự tăng 
lên hay giảm xuống của các thông số ma sát phản ánh 
tính dễ hay khó bơm của hỗn hợp bê tông không tuân 
theo quy luật tăng, giảm của độ sụt. Do vậy, cần thiết 
bổ sung thí nghiệm đo các thông số ma sát để nghiên 
cứu, đánh giá tác động của các thành phần cấp phối 
bê tông đến tính chất ma sát của bê tông bơm. Từ đó 
có cơ sở xây dựng chỉ dẫn cụ thể thiết kế cấp phối bê 
tông bơm, bổ sung cho chỉ dẫn thiết kế hỗn hợp bê 
tông bơm hiện nay vốn hầu hết mới chỉ dừng lại ở 
phép đo đột sụt. 
Lời cảm ơn 
 Bài báo này được thực hiện trong khuôn khổ của 
đề tài NCKH cấp trường, mang mã số 3497/QĐ-ĐHDT-
64 tại Đại học Duy Tân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Thế Dương, Đỗ Vũ Thảo Quyên, Phan 
Đình Thoại, Huỳnh Quốc Minh Đức (2014), “Ảnh 
hưởng của hồ xi măng và tỉ lệ n/x đến tính chất 
ma sát giữa bê tông và thành ống bơm bằng 
thép”, Tạp chí Khoa học công nghệ Xây dựng, 
Bộ Xây dựng, số 08/2014, trang 72-76. 
[2]. Đỗ Vũ Thảo Quyên, Nguyễn Thế Dương, Huỳnh 
Quốc Minh Đức, Phan Đình Thoại (2014), “Thí 
nghiệm đo các thông số ma sát tiếp xúc bê tông 
và thành ống bơm”. Tạp chí Khoa học Công 
nghệ Duy Tân, 11/2014, trang 70-75. 
[3]. Nguyễn Thế Dương, Ngô Tiến Tùng, Phạm 
Quang Nhật (2012), "Ma sát và cách xác định 
ma sát của bê tông tươi trong thành ống bơm", 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Duy Tân, số 4. 
[4]. Kaplan, Denis. (2000). Pompage des Bétons, 
Etudes et recherches des laboratoires des Ponts 
et Chaussées, vol. 36. ISBN : 2-7208-2010-5. 
[5]. Chapdelaine, Fédéric. (2007). Étude 
fondamentale et pratique sur le pompage du 
béton (Nghiên cứu cơ sở và thực nghiệm bơm bê 
tông), Luận văn Tiến sỹ, Faculté des études 
supérieures de l'Université Laval, Canada. 
[6]. T.T. Ngo, E.H. Kadri, R. Bennacer, F. Cussigh, Use 
of tribometer to estimate interface friction and 
concrete boundary layer composition during the fluid 
concrete pumping, Construction and Building 
Materials, Volume 24, Issue 7, July 2010, Pages 
1253-1261, ISSN 0950-0618, 
[7]. Dimitri Feys, Kamal H. Khayat, Aurelien Perez-
Schell, Rami Khatib, Prediction of pumping pressure 
by means of new tribometer for highly-workable 
concrete, Cement and Concrete Composites, 
Volume 57, March 2015, Pages 102-115, ISSN 
0958-9465, 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
54 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
[8]. TCVN 9340:2012, Hỗn hợp bê tông trộn sẵn – 
Yêu cầu cơ bản đánh giá chất lượng và nghiệm 
thu, Tiêu chuẩn Việt Nam. 
[9]. Nguyễn Thế Dương (2015), “Phần mềm Pumping 
Parameters Calculation tính toán thông số ma 
sát bê tông tươi - thành ống thép". Tạp chí Khoa 
học Công nghệ Duy Tân (2) 15, 06/2015, trang 
69-75. 
[10]. N. Spiratos, M. Page, N. Mailvaganam, V.M. 
Malhotra, C. Jolicoeur. Phụ gia siêu dẻo – 
Nguyên lý cơ bản công nghệ và ứng dụng thực 
tiễn. Quebec, Canada, 2006, trang 96. 
Ngày nhận bài: 09/11/2015. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 25/11/2015. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 55 
 CHIẾN LƯỢC GIẢM NHẸ VÀ THÍCH ỨNG TRONG KIẾN TRÚC 
 ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
TS.KTS. LÊ CHIẾN THẮNG 
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 
ThS. NGUYỄN SƠN LÂM 
Viện KHCN Xây dựng 
Tóm tắt: Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã bắt đầu cho 
thấy những hệ lụy trong mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh 
vực xây dựng. Ứng phó BĐKH đã trở thành một trong 
những vấn đề quan tâm chính trong thiết kế kiến trúc. 
Nhiều xu hướng kiến trúc thân thiện với môi trường đã 
có những đóng góp tích cực với các chiến lược giảm 
nhẹ và thích ứng khác nhau hướng tới tính bền vững 
trong môi trường xây dựng. Bài báo sẽ trình bày các 
chiến lượng giảm nhẹ và thích ứng trong các xu 
hướng kiến trúc đó. 
1. Tổng quan về BĐKH và ảnh hưởng của BĐKH 
trong lĩnh vực xây dựng 
BĐKH đang tác động đáng kể đến các thành 
phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ 
sinh thái tự nhiên và đến hoạt động và quản lý của 
các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và 
phúc lợi của con người. Sự thay đổi trạng thái của khí 
hậu trung bình trong khoảng thời gian dài (thường vài 
thập kỷ hoặc dài hơn) có thể gây ra sự biến đổi trên 
quy mô toàn cầu và sự thay đổi trong toàn bộ hệ 
thống khí hậu trái đất. Biến đổi khí hậu có thể do quá 
trình tự nhiên bên trong, các tác động bên ngoài hoặc 
do các hoạt động của con người (trong khai thác và 
sử dụng tự nhiên) làm thay đổi thành phần khí quyển. 
Ảnh hưởng của BĐKH tới nhà và công trình xây dựng 
dưới nhiều hình thức khác nhau. Mưa axít, bão lốc, 
nước biển dâng,phá hủy, ăn mòn, làm hư hỏng các 
công trình kiến trúc. 
Để ứng phó với những mối đe dọa và đáp ứng 
nhu cầu phát triển bền vững, phương pháp tiếp cận 
mới trong thiết kế và thi công xây dựng là điều kiện 
bắt buộc, trong đó phải đồng thời giải quyết các yêu 
cầu phức tạp của môi trường với các nguồn tài 
nguyên hữu hạn của trái đất và nhu cầu xã hội và kinh 
tế đương đại. Khái niệm mới về thiết kế tích hợp với 
việc sử dụng năng lượng bền vững đã được phát 
triển, kết hợp với trách nhiệm với môi trường với 
chiến lược giảm nhẹ các tác động do con người tạo 
ra và thích ứng các điều kiện khí hậu. 
Các hệ thống tự nhiên thích ứng với hệ sinh thái 
là một trong những hướng giải pháp giúp các tòa nhà 
và công trình tồn tại thân thiện với môi trường sống. 
Trong thiên nhiên, mọi sinh vật sống trong quá trình 
tiến hóa, phải phản ứng với các điều kiện thay đổi mà 
không làm suy giảm nguồn lực của mình và thay đổi 
trạng thái cân bằng của hệ sinh thái của bản thân. 
Trong bối cảnh đang phải đối mặt với tốc độ gia tăng 
nhanh chóng và cường độ thay đổi lớn hiện nay, thái 
độ “thích ứng” của môi trường xây dựng bằng nhận 
thức và ứng xử tạo nên cơ sở lý thuyết cho việc thiết 
kế xây dựng trong tương lai. Muốn phát triển thịnh 
vượng, con người cần phải học lại cách bắt chước 
các hệ thống trao đổi chất thích ứng có hiệu quả cao 
trong tự nhiên, kết hợp với công nghệ hiện tại và 
tương lai để có thể thiết kế “bền vững” nhất. 
2. Chiến lược giảm nhẹ và thích ứng trong thiết kế 
kiến trúc 
Nguyên nhân của BĐKH chính là do các hoạt 
động sinh hoạt và sản xuất của con người. Phát thải 
từ công trình xây dựng chiếm gần một nửa lượng 
CO2 trong khí quyển còn tổng năng lượng tiêu thụ cho 
công trình chiếm tới gần 50% [6]. Nói cách khác, sử 
dụng năng lượng trong công trình là “một nửa nguyên 
nhân” gây ra BĐKH. Để hạn chế tác động tiêu cực 
của BĐKH, cần phải có sự chung tay của mọi cộng 
đồng, quốc gia nhằm đưa ra các phương án chung có 
thể thực hiện trên phạm vi toàn cầu. Biến đổi khí hậu 
là do một quá trình lâu dài tác động của con người tạo 
nên, muốn khắc phục được BĐKH cũng phải là một 
quá trình khắc phục lâu dài. 
Vì vậy, thiết kế và xây dựng nhà và công trình 
hiện nay đòi hỏi có hiệu quả năng lượng cao, giảm 
tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhằm cố gắng đưa 
nồng độ CO2 trong khí quyển trở về mức 350 ppm 
của năm 1990 được xem như một bước “đẩy lùi 
BĐKH”. Trong gần 20 năm qua, nhiều nước trên thế 
giới đã đi theo hướng này và đã đạt kết quả cao. Tại 
Mỹ năm 2006 có 5.000 tòa nhà, năm 2010 có 100.000 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
56 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
tòa nhà và 1 triệu ngôi nhà ở đơn lẻ được cấp chứng 
chỉ Công trình xanh, giảm được trung bình từ 30% 
đến 50% tổng tiêu thụ năng lượng điện và nước sạch. 
Tại Kuala Lumpur, Malaysia có tòa nhà văn phòng 
Putrajaya, giảm được khoảng 60% (còn 100 
kWh/m2/năm) và có thể tiếp tục giảm tới 80% năng 
lượng trong thời gian tới. Như vậy việc xây dựng các 
tòa nhà giảm 30 - 50% năng lượng tiêu thụ là hoàn 
toàn có thể thực hiện được [2]. 
Để làm được như vậy, kiến trúc sư cần phải thay 
đổi phương thức làm việc, phương pháp thiết kế, đề 
cao thiết kế tích hợp, trong đó kiến trúc sư chỉ là một 
phần của một hệ thống trong thiết kế và xây dựng 
công trình từ giai đoạn ban đầu tới quá trình phá hủy 
hoặc tái chế. Công ước khung của Liên hợp quốc về 
BĐKH (UNFCCC) sử dụng hai thuật ngữ quan trọng 
là giảm nhẹ và thích ứng. 
2.1 Chiến lược giảm nhẹ 
Giảm nhẹ là nhằm giảm lượng khí thải để hạn chế 
sự ấm lên toàn cầu hoặc “tránh mất khả năng kiểm 
soát” hay phát triển “thân thiện với khí hậu” bằng cách 
giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Giảm nhẹ đóng vai 
trò quan trọng trong việc làm chậm tốc độ biến đổi 
của khí hậu. Hệ thống khí hậu đã thực sự bị biến đổi 
và quá trình này sẽ tiếp tục trong thời gian dài tiếp 
theo, do đó chiến lược giảm nhẹ sẽ phải được thực 
hiện liên tục và lâu dài. 
Để thực hiện chiến lược giảm nhẹ, cần phải áp 
dụng nhiều giải pháp như giảm phát thải khí gây hiệu 
ứng nhà kính thông qua giảm mức tiêu hao nguyên 
nhiên liệu, giảm hoặc thay thế các loại nhiên liệu hóa 
thạch bằng nguồn năng lượng tái tạo, ứng dụng các 
giải pháp thiết kế và xây dựng mới và cải tạo nhà và 
công trình nhằm sử dụng năng lượng tiết kiệm và 
hiệu quả, phát triển đô thị xanh và công trình xanh, 
chuyển đổi nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu đầu vào 
theo hướng phát thải carbon thấp trong sản xuất vật 
liệu và xây dựng công trình, ứng dụng công nghệ hiệu 
quả để xử lý nước thải, rác thải cho các đô thị và 
điểm dân cư,... 
2.2 Chiến lược thích ứng 
Thích ứng là “kiểm soát những gì không thể tránh 
được” để phát triển “an toàn cho khí hậu” bằng cách 
giảm nhẹ khả năng làm tổn hại trực tiếp và gián tiếp 
tới các cấp độ của BĐKH. Chiến lược thích ứng có 
nghĩa là phải có điều chỉnh để thích ứng với sự biến 
đổi không thể tránh khỏi của khí hậu thông qua việc 
hạn chế tối đa xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình 
và duy trì hệ sinh thái lành mạnh. Quan trọng hơn, 
chiến lược thích ứng không làm hỏng những nỗ lực 
giảm nhẹ để ổn định phát thải khí nhà kính đến mức 
chấp nhận được. Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi 
khí hậu (IPCC 2008) đã định nghĩa bốn loại thích ứng 
như sau: 
 Thích ứng chủ động: Thích ứng diễn ra trước 
khi tác động thực tế BĐKH xảy ra. Thích ứng như vậy 
là một biện pháp chặn trước để ngăn chặn hoặc giảm 
nhẹ những tác động có thể của BĐKH. Thích ứng 
trước sẽ bịt các lỗ hổng trong hệ thống tự nhiên và 
nhân tạo cũng như gia tăng các chi phí và lợi ích của 
hành động so với không hành động. 
 Thích ứng theo hoạch định: Thích ứng là kết 
quả của một quyết định chính sách có chủ ý, dựa trên 
một nhận thức rằng điều kiện đã thay đổi hoặc muốn 
thay đổi và hành động đó là cần thiết để trở lại, để 
duy trì hoặc đạt được một trạng thái mong muốn. 
 Thích ứng phản ứng: Thích ứng diễn ra sau 
tác động của BĐKH. 
 Thích ứng tự phát: Thích ứng mà không tạo ra 
một phản ứng có ý thức đối với khí hậu mà được khởi 
động bởi những thay đổi trong các hệ thống sinh thái tự 
nhiên hoặc thay đổi trong các hệ thống phúc lợi xã hội [6]. 
Việc áp dụng rộng rãi các công nghệ tiên tiến 
trong quá trình thiết kế thích ứng có thể chứng minh 
hiệu quả giảm mức tiêu thụ và lượng khí thải, đặc biệt 
là trong lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, căn cứ vào 
kịch bản BĐKH đã được xây dựng, hoạt động giảm 
nhẹ dài hạn cần phải được kết hợp với chiến lược 
thích ứng ngắn hạn để bảo đảm sự phát triển bền 
vững liên tục. Để thỏa mãn thách thức trong tương 
lai, cần phải có những kỹ thuật trong công trình để có 
thể thay đổi thích ứng theo các điều kiện thay đổi như 
nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, mưa... Thực tế sự vận hành 
của tòa nhà thích ứng chỉ đơn giản là mở rộng các ý 
tưởng và nguyên tắc phù hợp với các đề xuất của 
Darwin, đó là khả năng tồn tại phụ thuộc vào khả 
năng thích ứng với sự thay đổi môi trường. Nhìn vào 
hệ thống tự nhiên, có thể nhận ra rằng tất cả sinh vật 
sống đã phát triển các cơ chế thích nghi để giúp 
chống lại điều kiện khí hậu thường xuyên thay đổi 
theo từng hoàn cảnh. Các loài có thể thích ứng với 
những thay đổi trong môi trường sẽ tồn tại trong khi 
các loài không thể thích ứng sẽ sớm bị đào thải. 
 VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 57 
3. Các xu hướng kiến trúc với chiến lược giảm 
nhẹ và thích ứng 
Kiến trúc thân thiện với môi trường đã xuất hiện 
từ lâu trong các công trình truyền thống trên thế giới. 
Nhưng cùng với những vấn đề về năng lượng và khí 
hậu trong thế kỷ 20, nghiên cứu và thực hành thiết kế 
kiến trúc và xã hội đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể 
của môi trường, sinh thái. Nhiều xu hướng kiến trúc 
thân thiện với môi trường ra đời, mỗi xu hướng tuy có 
mục đích chung nhưng đều có hướng đi riêng theo 
tên gọi của nó. 
3.1 Kiến trúc sinh thái 
Kiến trúc sinh thái bao gồm 3 nhánh chính, đó là 
kiến trúc sinh thái công nghệ thấp (low-tech), công 
nghệ cao (high-tech) hoặc công nghệ sinh thái (eco-
tech) và chiết trung. Trong đó kiến trúc sinh thái công 
nghệ thấp là kiến trúc thời kỳ đầu, đơn giản với các 
giải pháp thiết kế theo điều kiện khí hậu của khu vực. 
Kiến trúc sinh thái này sử dụng vật liệu tự nhiên như: 
Đất, đá, gỗ, tranh, tretheo kinh nghiệm xây dựng 
truyền thống. Ngược lại là kiến trúc sinh thái công 
nghệ cao được biểu hiện dưới dạng các tổ hợp công 
trình đa năng kính thép quy mô lớn và các hệ thống 
kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả sử dụng năng 
lượng tối đa. Giữa hai trường phái kiến trúc sinh thái 
trên là kiến trúc sinh thái chiết trung, trong đó kết hợp 
công nghệ vật liệu mới và kỹ thuật xây dựng cao 
nhưng vẫn sử dụng những kinh nghiệm truyền thống 
để ứng xử hài hòa với khí hậu và môi trường [1]. 
Hệ sinh thái là khái niệm cơ bản làm cơ sở tiếp 
cận kiến trúc vào sinh thái. Kiến trúc sinh thái bảo tồn 
sự bền vững của hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh 
học của khu vực xây dựng, đô thị và lãnh thổ, khôi 
phục các hệ sinh thái bị tổn thương, tài nguyên thiên 
nhiên, sinh thái nhân văn. Mặc dù có 3 nhánh cơ bản 
với phương pháp thiết kế khác nhau, chiến lược giảm 
nhẹ hướng tránh sử dụng năng lượng phi tái tạo, sử 
dụng vật liệu tái chế và phát thải độc hại thấp. Trong 
khi đó, chiến lược thích ứng chủ động tạo ra các môi 
trường tự nhiên trong công trình và khu vực, bù đắp 
và phục hồi một phần môi trường tự nhiên bị mất đi 
do quá trình xây dựng tạo nên, tận dụng các điều kiện 
tự nhiên thuận lợi phù hợp với hệ sinh thái và khí hậu 
địa phương. 
3.2 Kiến trúc môi trường 
Môi trường là tập hợp tất cả các thành phần của 
thế giới vật chất bao quanh, bao gồm các chất vô cơ, 
hữu cơ, khí hậu, có khả năng tác động đến sự tồn tại 
và phát triển của mỗi sinh vật. Ngoài môi trường thiên 
nhiên còn có môi trường xã hội, môi trường nhân văn 
(tổng thể các mối quan hệ giữa con người, cộng 
đồng, thể chế chính trị, kinh tế, xã hội) và cả các môi 
trường nhân tạo. Mục tiêu của kiến trúc môi trường là 
tạo lập môi trường vệ sinh, lành mạnh thích ứng với 
các loại sinh vật; bảo vệ môi trường sống của con 
người và sinh vật trong hệ sinh thái và giảm nhẹ, khắc 
phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Các nguyên tắc 
của kiến trúc môi trường bao gồm: Tạo dựng môi 
trường trong nhà lành mạnh tiện nghi; hiệu quả năng 
lượng; sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường sinh 
thái; gắn kết hình dạng công trình kiến trúc với địa 
điểm; môi trường khu vực và khí hậu và thiết kế đạt 
hiệu quả, bền vững, dễ dàng tháo dỡ khi hết tuổi thọ 
công trình. 
3.3 Kiến trúc sinh khí hậu 
Kiến trúc sinh khí hậu được James Marston Fitch 
đề cập trong bài báo “Mối quan tâm kiến trúc trong 
thiết kế khí hậu” vào năm 1948. Nhưng anh em Victor 
và Aladar Olgyay mới được coi là những người tiên 
phong trong lĩnh vực này khi đưa kiến trúc sinh khí 
hậu thành môn khoa học với cuốn sách “Tiếp cận sinh 
khí hậu vào kiến trúc” năm 1953. 
Kiến trúc sinh khí hậu quan tâm xem xét đến các 
điều kiện khí hậu đặc trưng của địa điểm nhằm thiết 
kế những công trình phù hợp với các điều kiện đặc 
trưng đó. Do đó, kiến trúc sư phải xem xét các yếu tố 
như điều kiện tiện nghi con người (tiện nghi nhiệt, thị 
giác,) cũng như các yếu tố khí hậu như nắng, gió, 
độ ẩm,...nhằm tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên 
thuận lợi và giảm các điều kiện bất lợi để tạo điều 
kiện sống tiện nghi cho con người trong các công 
trình, qua đó giảm sử dụng năng lượng, tiết kiệm kinh 
phí đầu tư và vận hành, giảm ô nhiễm môi trường [3]. 
3.4 Kiến trúc xanh 
Kiến trúc xanh là xu hướng thiết kế hướng tới việc 
tạo ra công trình thân thiện với môi trường trong suốt 
vòng đời của công trình từ quá trình lựa chọn địa điểm, 
thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và tháo dỡ. 
Các nguyên tắc thiết kế công trình xanh bao gồm: 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
58 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 
- Phân tích khí hậu địa phương và địa điểm xây 
dựng: Phân tích địa chất, lựa chọn địa điểm xây 
dựng, các công trình và vật thể bao quanh, khí hậu 
địa phương, hướng tiếp cận và hướng của khu đất, 
các yếu tố địa hình, ưu nhược điểm của các nguồn tài 
nguyên và các loại hình sinh thái bền vững cùng với 
mối quan hệ về thời gian và cường độ sử dụng. 
- Hệ thống kết cấu linh hoạt và thích ứng: Kiểm 
soát các đặc điểm của kết cấu (tạm thời hoặc vĩnh 
cửu), khả năng liên kết với các thành phần nội thất, 
kết cấu vỏ bao che công trình, các hệ thống kỹ thuật 
và hiệu quả thẩm mỹ. 
- Vật liệu xây dựng xanh: Sản phẩm tiền chế và 
tiêu chuẩn hóa, kết cấu phù hợp, vật liệu hoàn thiện, 
chi phí, thi công, có nguồn gốc thực vật, phương pháp 
trồng trọt (vật liệu tự nhiên), năng lượng biểu hiện, 
thành phần tái chế và tái sử dụng, mức độ độc hại, 
- Kết cấu lớp vỏ bao che công trình: Hoạt động 
như một bộ lọc năng động và tương tác giữa môi 
trường bên trong và bên ngoài để kiểm soát các dòng 
năng lượng, trực tiếp hoặc gián tiếp. 
- Năng lượng tái tạo: Tích hợp trong cấu trúc của 
tòa nhà có thể khai thác trực tiếp các nguồn năng 
lượng tại chỗ hoặc trong khu vực tập trung mà không 
gây hoặc gây ít tác động tới môi trường sinh thái. 
- Hệ thống HVAC: Cung cấp các điều kiện tiện 
nghi cho người sử dụng về nhiệt, chất lượng không 
khí, sử dụng các kỹ thuật hoàn toàn thụ động, điều 
chỉnh cơ khí hoặc hệ thống lai. 
- Sử dụng nước: Hệ thống và chiến lược thu 
nước, lưu trữ, phân phối, sử dụng, tái chế và tái sử 
dụng nước (nước mưa, nước xám) [6]. 
3.5 Kiến trúc phỏng sinh học 
Kiến trúc phỏng sinh nghiên cứu thực tiễn tốt nhất 
từ thiên nhiên và áp dụng vào thiết kế và quy trình giải 
quyết các vấn đề của con người dựa trên sự hoàn 
thiện kỹ năng sinh tồn của các loài sinh vật trong quá 
trình tồn tại lâu dài trên trái đất bằng cách thích ứng 
với môi trường để đảm bảo thức ăn và nơi trú ẩn mà 
không cần sử dụng nhiên liệu hóa thạch hoặc tạo ra 
chất gây tổn hại đến hệ sinh thái. Ngược lại với các 
công nghệ của con người, mọi hệ thống và kết cấu tự 
nhiên luôn hoạt động thống nhất dựa trên nguồn năng 
lượng trực tiếp và gián tiếp từ mặt trời để tương tác 
với địa hóa của trái đất để duy trì mọi hệ thống tái tạo 
sinh học. Công trình "phỏng sinh học" là nơi có sự 
phối hợp linh hoạt các thành phần góp phần vào sự 
trao đổi chất và cuộc sống của các sinh vật sống – là 
phương pháp thiết kế dựa trên sự kết hợp của mọi 
lĩnh vực chuyên môn liên quan với nhau, các tòa nhà 
được so sánh với sinh vật sống có khả năng đối phó 
với khí hậu và địa hình và tiện nghi mà không cần sử 
dụng các dạng năng lượng phi tái tạo. 
Có nhiều dạng phỏng sinh học như phỏng sinh 
học cấu trúc (lá sen, vây cá mập,), vận động (bay, 
bơi,..), kết cấu (treo, màng, vỏ,..), khí hậu (tổ mối), 
Các dạng phỏng sinh học có những đặc điểm, tiềm 
năng đa dạng cho phép áp dụng ở nhiều hình thức 
khác nhau trong lĩnh vực thiết kế xây dựng, nhằm làm 
cho công trình giống như các thực thể tồn tại bền 
vững trong tự nhiên [5]. Thông qua đó, công trình sẽ 
giảm tác động tiêu cực tới khí hậu và hệ sinh thái của 
khu vực. 
3.6 Kiến trúc hiệu quả năng lượng 
Mục tiêu của kiến trúc hiệu quả năng lượng là làm 
cho công trình tiêu thụ ít năng lượng có nguồn gốc 
hoá thạch, không phát thải khí CO2 (carbon neutral) 
hoặc phát thải rất thấp, khai thác tối đa năng lượng tự 
nhiên, năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học trong 
tất cả các quá trình hoạt động của toà nhà thi công 
xây dựng, chế tạo cấu kiện, vật liệu đến quá trình vận 
hành công trình (sưởi ấm, làm mát, chiếu sáng, giao 
thông, các thiết bị phục vụ cho công việc và sinh 
sống), quá trình bảo dưỡng cho đến khi cải tạo, phá 
dỡ, huỷ bỏ hoặc sử dụng lại một phần công trình [3]. 
3.7 Kiến trúc thích ứng 
Kiến trúc thích ứng phải có tính thích ứng và linh 
hoạt. Cụ thể là thích ứng với điều kiện khí hậu địa 
phương, thích ứng với quy mô đô thị và hạ tầng kỹ 
thuật đô thị, thích ứng và linh hoạt với sự phát triển 
công nghệ Kiến trúc thích ứng đề cao tính linh hoạt và 
ứng dụng công nghệ mới trong thiết kế nhằm đáp ứng 
sự thay đổi trong tương lai do sự phát triển của công 
nghệ nhanh và đa dạng dẫn tới phương thức làm 
việc, sinh hoạt của con người liên tục thay đổi da 
dạng [4]. Một ví dụ điển hình là hiện nay với sự phát 
triển của kỹ thuật số, con người đã thay đổi phương 
pháp làm việc và sinh hoạt, mô hình “sống và làm việc 
trong cùng một địa điểm” đang hình thành trong nhiều 
lĩnh vực và khu vực đô thị, tương phản hoàn toàn với 
phương pháp làm việc và lối sống truyền thống, từ đó 
dẫn tới sự thay đổi trong thiết kế quy hoạch và kiến 
 VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 59 
trúc truyền thống với sự phân biệt rõ ràng chức năng 
làm việc, ở, thương mại, giải trí, 
3.8 Ứng dụng chiến lược giảm nhẹ và thích ứng ở 
Việt Nam 
Trong nhiều năm trở lại đây, các xu hướng kiến 
trúc trên đã được nhiều Kiến trúc sư Việt Nam quan 
tâm. Các xu hướng kiến trúc xanh với mối quan tâm 
tới các vấn đề năng lượng và môi trường ở Việt Nam 
đang được phát triển và đã đạt được những thành 
công bước đầu, dần tiến tới hiện thực hóa các chiến 
lược và chương trình của Nhà nước nhằm giảm nhẹ 
và thích ứng với BĐKH. Các chiến lược thiết kế đa 
dạng được áp dụng, từ các giải pháp sinh thái công 
nghệ thấp tới các giải pháp công trình xanh công 
nghệ cao tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng 
tái tạo tại chỗ, tái chế chất thải, tái sử dụng 
nước,Các loại hình công trình xanh cũng phát triển 
đa dạng từ dạng nhà ở thấp tầng tới các trung tâm 
thương mại cao tầng. Tuy nhiên, sự phát triển các 
chiến lược giảm nhẹ và thích ứng này mới chỉ đang ở 
giai đoạn khởi đầu. Trong tương lai, để đạt hiệu quả 
cao hơn, các chiến lược này cần phải được áp dụng 
ở cấp đô thị với sự phát triển các đô thị thông minh 
nơi mà tổng thể đô thị trở thành một cơ thể xanh với 
các công trình kiến trúc xanh là những bộ phận không 
thể tách rời. Để làm được điều đó không chỉ có sự nỗ 
lực của các nhà thiết kế xây dựng mà còn của mọi 
tầng lớp trong xã hội. 
Hình 1. Tòa nhà OneUN đạt chứng chỉ Vàng 
(nguồn: VGBC) 
4. Kết luận 
Áp lực phải có những thay đổi căn bản trong 
phương pháp thiết kế đã dẫn tới sự ra đời nhiều xu 
hướng thiết kế với những sự quan tâm khác nhau 
nhưng nói chung đều hướng tới các vấn đề về năng 
lượng, môi trường, sinh thái, các nguồn tài nguyên, 
chất và phát thải. Các xu hướng thiết kế trên đều có 
các chiến lược thích ứng và giảm nhẹ theo nhiều 
cách với các cấp độ và mối quan tâm khác nhau. Các 
giải pháp thiết kế cũng mang tính chất tổng thể và 
đồng bộ từ quy hoạch đô thị, thiết kế kiến trúc, kết 
cấu, hệ thống kỹ thuật, vật liệu, biện pháp thi công, 
bảo dưỡng và vận hành. Tuy nhiên, xu hướng kiến 
trúc nào cũng có những nhược điểm của nó do đó 
cần có các chiến lược, chương trình cũng như biện 
pháp khác ngoài công tác thiết kế. Các chiến lược 
giảm nhẹ và thích ứng phải được thực hiện liên tục, 
đồng bộ và được hỗ trợ từ mọi mặt trong xã hội mới 
mong đạt được mục tiêu dài hạn trong tương lai, đóng 
góp vào việc ứng phó BĐKH hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Việt Châu (2011), “Kiến trúc sinh thái – 
kiến trúc phát triển bền vững”, Tạp chí Kiến trúc – 
Hội Kiến trúc sư Việt Nam. 
[2]. Phạm Đức Nguyên (2008), “Kiến trúc bền vững – 
kiến trúc thế kỷ 21”, Tạp chí Kiến trúc – Hội Kiến 
trúc sư Việt Nam. 
[3]. Phạm Đức Nguyên (2010), “Kiến trúc sinh khí 
hậu”, NXB Xây dựng. 
[4]. Phạm Đức Nguyên, “Biến đổi khí hậu với thiết kế 
kiến trúc các công trình có hiệu quả năng lượng”. 
[5]. Petra Gruber. (2011), Biomimetics in architecture. 
Springer Publishing Company. 
[6]. Sergio Altomonte. (2008), “Climate Change and 
Architecture: Mitigation and Adaptation 
Strategies for a Sustainable Development”, Jounal 
of Sustainable Development, Vol.1,No.1. 
Ngày nhận bài: 09/11/2015. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 25/11/2015. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 14521375453_phan2_vat_lieu_xay_dung_moi_truong_7347.pdf 14521375453_phan2_vat_lieu_xay_dung_moi_truong_7347.pdf