Về tổ chức, cần có chủ nhiệm chương trình
và các thành viên của tổ thực hiện. Chủ nhiệm
chương trình cần được bổ nhiệm để giám sát
việc thực hiện. Chủ nhiệm chương trình nên là
một nhà quản lý cấp cao, được quyền phê duyệt
các thay đổi về thiết kế và quy cách kỹ thuật dự
án khi việc đảm bảo tính dễ xây dựng gặp vấn
đề. Nhân sự của đội ngũ thực hiện thì do yêu cầu
về việc tích hợp nhiều chuyên môn, sẽ không
hiệu quả nếu chỉ sử dụng một người để thực hiện
việc soát xét tính dễ xây dựng của một dự án.
Thay vào đó, cần có một nhóm người từ các cơ
quan khác nhau, có nền tảng kiến thức khác
nhau, để không chỉ nhận dạng được các vấn đề
mà còn đề xuất được cả các giải pháp. Tuy vậy,
cần giữ cho đội ngũ thực hiện càng nhỏ gọn càng
tốt nhưng cũng cần có các nhân sự sau: Các
chuyên gia thi công xây dựng, các nhân viên phụ
trách xây dựng của tổ chức, các nhà tư vấn, đại
diện các cơ quan ban hành luật lệ, đại diện của
người sử dụng, của nhà cung ứng, của đơn vị
bảo trì và các đơn vị khác (tùy theo dự án).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 747 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết cấu công nghệ xây dưng - Tính dễ xây dựng và nâng cao tính dễ xây dựng trong thiết kế và thi công công trình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 41 
TÍNH DỄ XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO TÍNH DỄ XÂY DỰNG TRONG 
THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG CÔNG TRÌNH 
ThS. NGUYỄN HẢI LỘC 
Kiểm toán Nhà nước 
PGS. TS. NGUYỄN THẾ QUÂN 
Trường Đại học Xây dựng 
Tóm tắt: Một giải pháp thiết kế: Kiến trúc, kết 
cấu và hệ thống kỹ thuật tạo thuận lợi cho thi 
công, tăng năng suất lao động, dễ kiểm soát chất 
lượng công trình và dễ bảo trì đang là mục tiêu 
của ngành xây dựng và các dự án đầu tư xây 
dựng. Tính dễ xây dựng mang lại cả các lợi ích 
định tính và định lượng được cho mỗi dự án và có 
thể tác động đến cả ngành xây dựng. Bài báo này 
mong muốn bàn về tính dễ xây dựng, chỉ ra các 
khó khăn đối với nhiệm vụ này và trình bày giải 
pháp thực hiện quá trình soát xét tính dễ xây 
dựng, đồng thời giới thiệu một số công cụ sử 
dụng cho nhiệm vụ này. 
Từ khóa: Dự án đầu tư xây dựng, tính dễ xây 
dựng, quá trình soát xét tính dễ xây dựng - CRP, 
thiết kế, thi công xây dựng, soát xét thiết kế, BIM. 
1. Giới thiệu 
Tính dễ xây dựng (thuật ngữ tiếng Anh tương 
đương là constructability - sử dụng phổ biến ở 
Mỹ hay buildability - sử dụng phổ biến ở Vương 
quốc Anh) là một tính chất của dự án đầu tư xây 
dựng. Trong giai đoạn thực hiện dự án, nó phản 
ánh việc hoạt động xây dựng trong dự án có thể 
được tiến hành dễ dàng và có hiệu quả về chi phí 
hay không. Trong giai đoạn vận hành, nó phản 
ánh việc công trình của dự án có thể dễ dàng bảo 
trì hay không. Việc đảm bảo và nâng cao tính dễ 
xây dựng được coi là một tiêu chí đánh giá mức 
độ thành công trong việc nâng cao giá trị của dự 
án đầu tư xây dựng. Trên thế giới, đảm bảo tính 
dễ xây dựng đã được phát triển thành một kỹ 
thuật được thực hiện trong quản lý dự án đầu tư 
xây dựng. 
Các nghiên cứu về tính dễ xây dựng và giải 
pháp nâng cao tính dễ xây dựng của dự án đầu 
tư xây dựng đã được bắt đầu từ đầu những năm 
1980 tại Vương quốc Anh, sau đó là ở Mỹ. Vấn 
đề đảm bảo và nâng cao tính dễ xây dựng, từ đó, 
đã được chú trọng nhiều hơn ở các quốc gia 
khác. Ở Việt Nam, rất ít nghiên cứu hay tài liệu 
đề cập đến tính dễ xây dựng như là một yêu cầu 
chính thức đặt ra cho dự án, mặc dù, một cách tự 
nhiên, nhiều bên hữu quan dự án trong hoạt 
động của mình đã cố gắng để đạt được một hoặc 
một số khía cạnh nhất định của vấn đề này. 
Bài báo, sử dụng phương pháp phân tích và 
tổng hợp, phương pháp phân tích và tổng kết 
kinh nghiệm để làm rõ khái niệm, lợi ích của việc 
đạt được và nâng cao tính dễ xây dựng, các rào 
cản cũng như một số giải pháp từ kinh nghiệm 
quốc tế đối với việc đảm bảo và nâng cao tính dễ 
xây dựng của các dự án đầu tư xây dựng. 
2. Khái niệm tính dễ xây dựng, lợi ích của việc 
đạt được và nâng cao tính dễ xây dựng 
Với quan điểm coi tính dễ xây dựng là một 
tính chất của dự án đầu tư xây dựng, tính chất 
này phản ánh mức độ dễ dàng đối với việc tiến 
hành hoạt động xây dựng của dự án cũng như 
chất lượng của các tài liệu phục vụ hoạt động xây 
dựng [1]. Theo khái niệm này, thay vì chỉ có một 
mức tối ưu của tính dễ xây dựng, người ta chấp 
nhận có một dải giá trị cho tính dễ xây dựng, tức 
là tính dễ xây dựng có nhiều mức độ khác nhau 
chấp nhận được. 
Một khái niệm về tính dễ xây dựng được đề 
xuất từ rất sớm bởi Hiệp hội nghiên cứu và thông 
tin ngành công nghiệp xây dựng (CIRIA) của 
Vương quốc Anh từ năm 1983, trong đó tính dễ 
xây dựng được hiểu là "mức độ mà thiết kế công 
trình tạo điều kiện dễ dàng cho việc thi công xây 
dựng, phụ thuộc vào yêu cầu tổng quát của công 
trình xây dựng" [2]. Với khái niệm được đề xuất 
từ khá lâu này, tính dễ xây dựng chỉ tập trung vào 
hoạt động thi công. Các khái niệm được đề xuất 
về sau có phạm vi mở rộng hơn, trong đó tính dễ 
xây dựng bao trùm cả giai đoạn hoạch định, thiết 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 42 
kế, mua sắm, thi công tại hiện trường, giai 
đoạn vận hành, bảo trì và cả việc chấm dứt sử 
dụng công trình của dự án [3, 4]. Các khái niệm 
được đề xuất sau này lại có xu hướng không định 
nghĩa tính dễ xây dựng một cách trực tiếp mà 
thông qua việc đảm bảo tính dễ xây dựng. Một 
cách đơn giản nhất, đảm bảo tính dễ xây dựng là 
việc tích hợp các kiến thức về thiết kế và thi công 
xây dựng trong các giai đoạn đầu của quá trình 
phát triển và thực hiện dự án để đảm bảo công 
trình của dự án có thể thi công xây dựng được, 
có hiệu quả về mặt chi phí, được nhà thầu chấp 
nhận thực hiện và có thể bảo trì được [4]. Cụ thể 
hơn, đảm bảo tính dễ xây dựng là việc tích hợp 
các kiến thức và kinh nghiệm về xây dựng trong 
các giai đoạn hoạch định, đấu thầu, xây dựng, 
vận hành, bảo trì và chấm dứt sử dụng một dự án 
phù hợp với các mục tiêu tổng thể của dự án [3]. 
Ngoài việc đảm bảo việc thi công xây dựng 
được thực hiện dễ dàng và chất lượng của tài 
liệu xây dựng, việc đảm bảo và nâng cao tính dễ 
xây dựng cho dự án đầu tư xây dựng còn có thể 
mang lại nhiều lợi ích khác cho dự án. Các lợi ích 
này có thể được chia ra làm hai nhóm: Định tính 
và định lượng. Các lợi ích mang tính định tính 
chung nhất bao gồm: Tránh được các vấn đề nảy 
sinh cho dự án, cải thiện vấn đề đảm bảo an 
toàn, giảm khối lượng công tác sửa chữa, làm lại, 
nâng cao chất lượng công trình, cải thiện giao 
tiếp, tăng cường cam kết của các thành viên 
trong đội ngũ làm việc, cải thiện hoạt động quản 
lý rủi ro, nâng cao khả năng hoạt động, khả năng 
bảo trì và độ tin cậy của công trình,... Các lợi ích 
có thể định lượng được bao gồm: Giảm chi phí 
thiết kế, rút ngắn thời gian thực hiện, và giảm chi 
phí xây dựng [4, 5]. 
 Việc đảm bảo và nâng cao tính dễ xây dựng 
cho dự án đầu tư xây dựng không chỉ mang lại lợi 
ích cho chủ đầu tư và nhà thầu, mà còn mang lại 
lợi ích cho đơn vị thiết kế. Các lợi ích điển hình 
nhất bao gồm việc cải thiện mối quan hệ với chủ 
đầu tư và nhà thầu, ít dính líu vào khiếu nại, kiện 
cáo và tạo dựng danh tiếng tốt hơn [6]. 
3. Sự cần thiết đảm bảo tính dễ xây dựng và 
rào cản cho việc đảm bảo và nâng cao tính dễ 
xây dựng trong dự án đầu tư xây dựng 
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, 
mức độ phức tạp của các dự án ngày càng tăng 
lên, các công trình xây dựng lớn và phức tạp 
ngày càng nhiều. Nguyên nhân làm tăng độ phức 
tạp của dự án có nhiều, có thể kể đến các 
nguyên nhân chính như khoa học và công nghệ 
phát triển không ngừng, các vật liệu mới ngày 
càng được giới thiệu nhiều hơn, sự thay đổi, đa 
dạng hóa và phức tạp dần lên của các quy định, 
tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế và xây dựng, hay 
sự khác nhau trong các nội dung đào tạo nghề 
thiết kế và thi công ở các nơi khác nhau.... 
Những điều này dẫn đến việc một nhà chuyên 
môn xây dựng không thể có được đầy đủ kiến 
thức cần thiết để thực hiện toàn bộ các công việc 
hoạch định, thiết kế và xây dựng một dự toán [7]. 
Nhiều nhà thiết kế lại không có đủ kinh nghiệm thi 
công cần thiết, ngoài ra, do những yêu cầu về 
phân chia gói thầu, việc tích hợp kiến thức xây 
dựng vào giai đoạn đầu của dự án là rất khó [3]. 
Ở Việt Nam, do các quy định pháp luật hiện 
hành, xu thế sử dụng phương thức thực hiện dự 
án truyền thống dạng Thiết kế - Đấu thầu - Xây 
dựng là rất phổ biến, việc tách riêng các giai đoạn 
thiết kế và thi công làm giảm khả năng tích hợp 
kiến thức và kinh nghiệm thi công vào giai đoạn 
thiết kế. Từ đó, nếu các dự án không có sự tham 
gia của nhiều bên từ chủ đầu tư, các nhà tư vấn, 
các nhà cung cấp, các đơn vị thiết kế và xây 
dựng (đơn vị trực tiếp sử dụng sản phẩm thiết kế) 
trong việc trao đổi kiến thức trong giai đoạn trước 
xây dựng để đưa ra được giải pháp thiết kế tốt 
nhất, thì dự án thường hay gặp vấn đề về trong 
giai đoạn thi công và vận hành công trình sau 
này. Đó là lý do dẫn đến việc yêu cầu đảm bảo 
tính dễ xây dựng ngày càng cần được coi trọng 
trong các dự án đầu tư xây dựng hiện nay. 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 43 
Hình 1. Xung đột giữa các bộ môn thiết kế khiến không đảm bảo tính dễ xây dựng 
Nguồn:  
Tuy nhiên, việc đảm bảo tính dễ xây dựng 
cũng gặp những rào cản nhất định trong các 
doanh nghiệp xây dựng, cả ở cấp doanh nghiệp 
cũng như trong từng dự án. Các nghiên cứu 
trước đã chỉ ra rất nhiều rào cản chung trong 
việc tiếp cận tính dễ xây dựng đối với các bên 
tham gia vào ngành xây dựng, các rào cản 
riêng cho chủ đầu tư, đơn vị thiết kế, đơn vị thi 
công xây dựng, các nhà cung cấp, kể cả cơ 
quan ban hành các tiêu chuẩn, quy định quản lý 
đầu tư xây dựng [8]. Cũng do khó khăn trong 
việc chứng minh một cách định lượng lợi ích 
của việc đảm bảo tính dễ xây dựng, cũng ít nhà 
nghiên cứu thực hiện các nghiên cứu triển khai 
về nội dung này. 18 rào cản điển hình được 
tổng kết trong bảng 1. 
Bảng 1. Các rào cản điển hình đối với việc đảm bảo tính dễ xây dựng của dự án đầu tư xây dựng 
STT Rào cản Giải thích 
1 Thỏa mãn với hiện trạng Đã thỏa mãn với thành quả thu được, không hứng 
thú với những cái mới hoặc không có thời gian 
dành cho các vấn đề chiến lược. 
2 Không sẵn sàng trong việc đầu tư 
thêm tiền và nỗ lực trong giai đoạn 
đầu của dự án 
Tập trung chủ yếu vào lợi nhuận ngắn hạn; Các 
khoản đầu tư thêm bị hạn chế bởi các quy định trói 
buộc 
3 Hạn chế của các loại hợp đồng trọn 
gói cạnh tranh 
Ỷ lại vào các loại hợp đồng trọn gói, không sẵn 
sàng xem xét các cách tiếp cận khác, các quy định 
về trao hợp đồng gây hạn chế 
4 Tổ chức thiết kế thiếu kinh nghiệm thi 
công 
Kiến thức thi công không được đánh giá cao đối 
với nhân sự thiết kế; ít cơ hội tham quan thực tế 
công trường xây dựng 
5 Người thiết kế quan niệm rằng họ đã 
làm điều này 
Các thủ tục, quy trình soát xét thiết kế được coi là 
đủ cho việc đảm bảo tính dễ xây dựng 
6 Thiếu sự tôn trọng lẫn nhau giữa thiết 
kế và thi công 
Mối quan hệ nhân sự thiên về hướng đối địch/thiếu 
tôn trọng lẫn nhau; các nhân viên chỉ tương tác tối 
thiểu 
7 Số liệu đầu vào cho hoạt động xây 
dựng được yêu cầu quá muộn nên 
không còn giá trị 
Không có yêu cầu/nhu cầu sớm; chỉ tập trung vào 
việc soát xét lại các bản vẽ đã hoàn chỉnh 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 44 
STT Rào cản Giải thích 
8 Niềm tin về việc đảm bảo tính dễ xây 
dựng không mang lại lợi ích gì 
Từ chối áp dụng cho đến khi các lợi ích được 
chứng tỏ 
9 Chủ đầu tư thiết hiểu biết về hoạt 
động đảm bảo tính dễ xây dựng 
Không có hiểu biết đủ rộng về các nỗ lực và vấn đề 
đối với việc đảm bảo tính dễ xây dựng 
10 Các mục tiêu thiết kế và kết quả đo 
lường thành quả bị lệch hướng 
Thúc đẩy việc đạt được các mục tiêu giảm thiểu chi 
phí thiết kế nhưng lại làm tăng chi phí dự án 
11 Chủ đầu tư quan niệm rằng họ đã làm 
điều này 
Thỏa mãn với các nỗ lực hiện tại, không có mong 
muốn cải thiện hoặc tăng hiệu quả, không có 
chuẩn mực so sánh 
12 Không có cam kết thực sự đối với việc 
đảm bảo tính dễ xây dựng 
Chỉ sử dụng tính dễ xây dựng như một công cụ 
đánh bóng tên tuổi; việc đảm bảo tính dễ xây dựng 
thực sự không nằm trong văn hóa doanh nghiệp 
13 Thiết kế thiết hiểu biết về hoạt động 
đảm bảo tính dễ xây dựng 
Không có hiểu biết đủ rộng về các nỗ lực và vấn đề 
đối với việc đảm bảo tính dễ xây dựng 
14 Kỹ năng giao tiếp của đơn vị thi công 
kém 
Không thể hiện được rõ ý tưởng cho dự án 
15 Thiếu các tài liệu và các bài học kinh 
nghiệm có thể tham khảo 
Không có hệ thống cung cấp tư liệu hoặc các phương 
pháp hiệu quả để lấy lại các bài học kinh nghiệm; 
nhanh chóng để "đóng hồ sơ" dự án 
16 Thiếu hợp tác và phát triển đội ngũ Không có phương pháp xây dựng đội ngũ 
17 Đóng góp của đơn vị thi công không 
đúng thời điểm 
Thiếu tính chủ động, chỉ chú trọng vào soát xét các 
bản vẽ đã hoàn chỉnh 
18 Không có nhân sự phù hợp Không có nhân sự được giao trách nhiệm phù hợp 
Nguồn: [8] 
Trong số các rào cản trên, rào cản đầu tiên là 
rào cản quan trọng nhất đối với việc đảm bảo và 
nâng cao tính dễ xây dựng của dự án đầu tư xây 
dựng. Có thể thấy rằng các rào cản trên cũng tồn 
tại khá phổ biến ở Việt Nam. 
4. Giải pháp đảm bảo và nâng cao tính dễ xây 
dựng trong thiết kế và thi công xây dựng 
công trình 
Trong thực tế, có nhiều hoạt động đã được 
thực hiện trong các dự án đầu tư xây dựng đóng 
góp vào việc đảm bảo tính dễ xây dựng. Các 
nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng, để đảm bảo và 
nâng cao tính dễ xây dựng, hoạt động thiết kế 
cần tuân thủ các nguyên tắc sau [3]: 
- Thiết kế và lựa chọn nhà thầu phải cân nhắc 
đến hoạt động xây dựng sẽ được tiến hành; 
- Thiết kế phải được tổ chức để đảm bảo việc 
xây dựng có thể thực hiện một cách hiệu quả; 
- Thiết kế cần tạo điều kiện thuận lợi cho chế 
tạo, vận chuyển và lắp dựng; 
- Thiết kế phải thúc đẩy việc sử dụng tối ưu 
các nguồn lực; 
- Thiết kế phải hỗ trợ hoạt động xây dựng 
trong điều kiện thời tiết khó khăn; 
- Quy cách xây dựng phải được phát triển 
theo hướng làm đơn giản hóa hoạt động thi công. 
Có nhiều cách thức khác nhau để thực hiện 
các kỹ thuật đảm bảo và nâng cao tính dễ xây 
dựng của dự án đầu tư xây dựng tuân thủ các 
nguyên tắc trên. Một nghiên cứu ở nước ngoài 
cho thấy, các cách thức được thực hiện bao gồm: 
Soát xét lại thiết kế, họp dự án và hoạt động quản 
lý giá trị. Tuy nhiên, các thức đảm bảo và nâng 
cao tính dễ xây dựng tốt nhất là việc thực hiện 
một quá trình soát xét tính dễ xây dựng (formal 
constructability review process - CRP). 
Một quá trình soát xét tính dễ xây dựng điển 
hình cần được tổ chức bộ máy và nguồn lực một 
cách phù hợp và được thực hiện theo một trình 
tự xác định. Hầu hết các tổ chức thực hiện việc 
soát xét đảm bảo tính dễ xây dựng nhiều lần tại 
các giai đoạn khác nhau của dự án. Đối với các 
dự án xây dựng đường tại Mỹ, người ta đề xuất 
soát xét tại các giai đoạn đạt được 30%, 60%, và 
95% khối lượng thiết kế. Nói chung, việc soát xét 
được thực hiện ở các giai đoạn đầu của dự án có 
khả năng tốt hơn trong việc đem lại các lợi ích 
giảm thiểu chậm trễ và chi phí cho dự án. 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 45 
Về tổ chức, cần có chủ nhiệm chương trình 
và các thành viên của tổ thực hiện. Chủ nhiệm 
chương trình cần được bổ nhiệm để giám sát 
việc thực hiện. Chủ nhiệm chương trình nên là 
một nhà quản lý cấp cao, được quyền phê duyệt 
các thay đổi về thiết kế và quy cách kỹ thuật dự 
án khi việc đảm bảo tính dễ xây dựng gặp vấn 
đề. Nhân sự của đội ngũ thực hiện thì do yêu cầu 
về việc tích hợp nhiều chuyên môn, sẽ không 
hiệu quả nếu chỉ sử dụng một người để thực hiện 
việc soát xét tính dễ xây dựng của một dự án. 
Thay vào đó, cần có một nhóm người từ các cơ 
quan khác nhau, có nền tảng kiến thức khác 
nhau, để không chỉ nhận dạng được các vấn đề 
mà còn đề xuất được cả các giải pháp. Tuy vậy, 
cần giữ cho đội ngũ thực hiện càng nhỏ gọn càng 
tốt nhưng cũng cần có các nhân sự sau: Các 
chuyên gia thi công xây dựng, các nhân viên phụ 
trách xây dựng của tổ chức, các nhà tư vấn, đại 
diện các cơ quan ban hành luật lệ, đại diện của 
người sử dụng, của nhà cung ứng, của đơn vị 
bảo trì và các đơn vị khác (tùy theo dự án). 
Nguồn lực cần thiết cho hoạt động soát xét 
bao gồm con người, vốn và thời gian. Nói chung, 
các chi phí bỏ ra thêm cho việc thực hiện hoạt 
động soát xét sau này sẽ được bù đắp bởi các 
khoản tiết kiệm được do giảm thiểu các thay đổi 
sau này. Thời gian bỏ ra cho hoạt động soát xét 
cũng sẽ được bù lại bởi tốc độ thi công nhanh 
hơn do đảm bảo tính dễ xây dựng ở giai đoạn 
sau. 
Quá trình soát xét được thực hiện thông qua 
ba bước: Tổ chức cuộc họp để soát xét, đo lường 
kết quả và lợi ích của việc soát xét và soát xét 
sau khi xây dựng. Độ dài của một cuộc họp soát 
xét phải đủ để có thể hoàn chỉnh một hoạt động 
soát xét tính dễ xây dựng. Việc soát xét phải cân 
nhắc đến cả kết quả soát xét và các quyết định từ 
các giai đoạn trước để đảm bảo dự án vẫn tuân 
thủ các yêu cầu về mục tiêu đã đặt ra. Việc đo 
lường kết quả và lợi ích của việc soát xét được 
thực hiện ngay trong cuộc họp để đánh giá và 
đưa ra quyết định. Số liệu thống kê từ các dự án 
đường ở bang Washington của Mỹ cho thấy lợi 
ích bằng tiền do hoạt động soát xét mang lại cho 
dự án khá cao, với tỷ suất lợi ích trên chi phí từ 
2.10 đến 2.29 lần. Việc soát xét sau giai đoạn xây 
dựng (mặc dù được gọi như thế, nhưng người ta 
khuyến khích thực hiện trước khi hoạt động xây 
dựng kết thúc thực sự, ví dụ khi đạt được 90% 
kết quả thực hiện) cho phép các bên hạn chế lặp 
lại các sai lỗi làm tăng chi phí và kéo dài thời gian 
dự án, cung cấp các bài học kinh nghiệm cho 
tương lai [4]. 
Công cụ sử dụng cho quá trình soát xét tính 
dễ xây dựng khá nhiều. Các công cụ này được 
chia ra làm ba nhóm, bao gồm các công cụ về 
chính sách/quá trình (policy/process-based tools - 
13 công cụ), các công cụ mô hình hóa (modeling 
tools - 10 công cụ) và các công cụ dựa trên công 
nghệ (technology-based - 4 công cụ). Các công 
cụ về chính sách/quá trình là các công cụ được 
sử dụng để hiểu và giao tiếp tính dễ xây dựng, 
không có hình thái vật chất và thường tồn tại 
trong các tài liệu, phương pháp, nội dung thực 
hiện. Các công cụ mô hình hóa là các công cụ 
dùng để thực hiện và đo lường tính dễ xây dựng, 
bao gồm 10 công cụ phổ biến. Các công cụ dựa 
trên công nghệ là các công cụ dựa trên các thiết 
bị đo lường vật lý, thường là các máy tính điện tử 
hiện đại. Các tiến bộ khoa học công nghệ về máy 
tính điện tử đã cải thiện đáng kể việc mô hình 
hóa dự án, từ đó cải thiện các vấn đề về tính dễ 
xây dựng. 
Hiện nay, với sự xuất hiện của Mô hình thông 
tin công trình (Building Information Modelling), 
giới xây dựng có thêm một công cụ mới để thực 
hiện các hoạt động đảm bảo và nâng cao tính dễ 
xây dựng cho các dự án đầu tư xây dựng. BIM 
cho phép mô phỏng 3 chiều công trình và các bộ 
phận của nó, từ đó phát hiện được các xung đột 
giữa các bộ phận, bộ môn thiết kế. BIM có khả 
năng hỗ trợ việc tiến hành hoạt động xây dựng 
ảo trên mô hình trước khi tiến hành xây dựng thật 
ngoài hiện trường, từ đó kiểm tra được tính khả 
thi và hợp lý của các công nghệ, hoạt động xây 
dựng. BIM tạo môi trường cho phép nhà thầu thi 
công chia sẻ kinh nghiệm xây dựng của họ với 
nhà thầu thiết kế. Từ đó, BIM tạo điều kiện dễ 
dàng để tích hợp các quá trình thiết kế và thi 
công, từ đó mang lại kết quả công trình tốt hơn, 
với chi phí nhỏ hơn và giảm thời gian xây dựng. 
Ngoài ra, BIM còn cho phép thử nghiệm các giải 
pháp thiết kế và thi công khác nhau, để giúp việc 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 46 
ra quyết định lựa chọn dễ dàng hơn [13] và vô số 
các lợi ích khác có liên quan đến việc đảm bảo và 
nâng cao tính dễ xây dựng của dự án đầu tư xây 
dựng. 
5. Kết luận 
Có thể nói rằng, việc đảm bảo và nâng cao 
tính dễ xây dựng là rất quan trọng trong việc thực 
hiện các dự án đầu tư xây dựng, nhất là các dự 
án lớn và phức tạp. Trong thực tế ngành xây 
dựng cả trong nước và quốc tế hiện nay, có 
nhiều rào cản gây khó khăn cho vấn đề này. Các 
tổ chức thực hiện dự án đầu tư xây dựng cần 
nhận thức rõ hơn về vấn đề này, tiến tới áp dụng 
các công cụ, quá trình hỗ trợ việc đảm bảo và 
nâng cao tính dễ xây dựng trong các dự án của 
mình. Việc tiến hành quá trình soát xét tính dễ 
xây dựng một cách chính thức cho các dự án lớn 
và phức tạp là việc nên làm, song song với việc 
ứng dụng các công nghệ tiên tiến như BIM để hỗ 
trợ. Tuy nhiên, có một số vấn đề đặt ra đối với 
việc thực hiện các quá trình soát xét này mà 
người thực hiện phải cân nhắc để đảm bảo thực 
hiện các quá trình này hiệu quả và thành công, 
đó là thời điểm tiến hành, nhân sự tham gia tiến 
hành, vấn đề chính cần tập trung trong việc soát 
xét và cách thức thực hiện. Các nội dung này 
trong điều kiện ngành xây dựng Việt Nam sẽ 
được xem xét trong các nghiên cứu tiếp theo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Dunston, P.S., J.A. Gambatese, and J.F. 
McManus, Benefit-cost model for highway 
department constructibility reviews, in 82nd 
Annual Meeting of the Transportation Research 
Board (TRB). 2003: Washington, D.C. 
[2] CIRIA, Buildability: An Assessment. 1983, 
Construction Industry Research and Information 
Association London. 
[3] Rajendran, S., Constructability Review Process – 
A Summary of Literature, in Constructability 
concepts and practice, J.A. Gambatese, J.B. 
Pocock, and P.S. Dunston, Editors. 2007, ASCE. 
[4] Hancher, D.E. and P.M. Goodrum, 
Constructability Issues and Review Processes, in 
Constructability concepts and practice, J.A. 
Gambatese, J.B. Pocock, and P.S. Dunston, 
Editors. 2007, ASCE. 
[5] Russell, J.S., J.G. Gugel, and M.W. Radtke, 
Comparative analysis of three constructability 
approaches. Journal of construction engineering 
and management, 1994. 120(1): p. 180-195. 
[6] Arditi, D., A. Elhassan, and Y.C. Toklu, 
Constructability Analysis in the Design Firm. 
Journal of construction engineering and 
management, 2002: p. 117. 
[7] Uhlik, F.T. and G.V. Lores, Assessment of 
constructability practices among general 
contractors. Journal of Architectural 
Engineering, 1998. 4(3): p. 113-123. 
[8] O'Connor, J.T. and S.J. Miller, Barriers to 
constructability implementation. Journal of 
Performance of Constructed Facilities, 1994. 
8(2): p. 110-128. 
[9] Gambatese, J.A., J.B. Pocock, and P.S. 
Dunston. Constructability concepts and practice. 
2007: ASCE. 
Ngày nhận bài: 24/2/2016 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 27/5/2015. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1462764256nguyenhailoc_3979.pdf 1462764256nguyenhailoc_3979.pdf