Kết cục thai kỳ các trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai

Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận nhóm thai phụ từ 35 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ thấp. Điều này tương đồng với một số nghiên cứu thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua. Có thể thấy, vấn đề TNSVTT không giới hạn về độ tuổi cũng như vùng cư trú. Đồng thời số liệu từ nghiên cứu này có thể góp phần nói lên thực trạng cho dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phương pháp kết thúc thai kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất là mổ lấy thai (73,3%), tiếp đến là chuyển dạ tự nhiên chiếm 25,7%. Tỷ lệ mổ lấy thai trong nghiên cứu chúng tôi khá cao so với các nghiên cứu ở Việt Nam, và cao hơn so với tỷ lệ mổ lấy thai trong dân số chung tại BVPSCT năm 2018 (46,6%). Điều này phản ánh mặt khác của việc ghi nhận TNSVTT có thể làm gia tăng can thiệp mổ lấy thai cuối thai kỳ. Tuy nhiên, khi nhìn vào tỷ lệ thai kỳ có biểu hiện kèm theo bất thường Doppler thai và/hoặc thiểu ối ở cả khi bắt đầu ghi nhận thai nhỏ lẫn kết thúc thai kỳ, chúng tôi có thể tạm lý giải lý do liên quan đến biến chứng thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung, vốn đã ghi nhận nhiều trong các nghiên cứu theo dõi lớn trong và ngoài nước trên đối tượng này. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố liên quan đến kết thúc thai kỳ trước 37 tuần và kết cục thai kỳ xấu ở trẻ sơ sinh gồm thời điểm xuất hiện, mức độ TNSVTT, có kết hợp thiểu ối và bệnh lý rối loạn tăng huyết áp thai kỳ ở mẹ. Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận điểm số Apgar thấp có thể liên quan việc TNSVTT được nhận ra hay khởi phát muộn, gợi ý có thể việc không phát hiện được hình thái tăng trưởng này kịp thời có thể làm xấu đi việc quản lý và kết thúc một thai kỳ nguy cơ. Hạn chế lớn nhất của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ, dù chúng tôi đã áp dụng các phép kiểm thích hợp về thống kê nhưng đây chưa phải là nghiên cứu có thiết kế mạnh để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến kết cục chấm dứt thai kỳ non tháng và kết cục xấu trên trẻ sơ sinh. Thực tế, các trường hợp TNSVTT không nhiều và hạn chế về thời gian thực hiện, chúng tôi buộc chọn thiết kế nghiên cứu báo cáo loạt ca. Chúng tôi quan sát một cách khách quan về cách xử trí cũng như kết cục thai kỳ và không phải là người đưa ra y lệnh trực tiếp điều trị

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết cục thai kỳ các trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 Kết cục thai kỳ các trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai Trương Mỹ Ngọc1, Đỗ Thị Minh Nguyệt1, Hồ Viết Thắng2, Trần Nhật Thăng2, Vương Thị Ngọc Lan2 1 Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ 2 Bộ môn Phụ sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả kết cục thai kỳ các trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai được chẩn đoán từ 28 đến 36 tuần tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ và khảo sát các yếu tố liên quan đến kết thúc thai kỳ trước 37 tuần và các kết cục xấu ở trẻ sơ sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu báo cáo loạt ca thực hiện từ tháng 10/2018 đến tháng 6/2019. Đối tượng nghiên cứu là tất cả phụ nữ mang thai từ 28 đến 36 tuần, được chẩn đoán thai nhỏ hơn so với tuổi thai. Thai nhỏ so với tuổi thai được định nghĩa khi có ít nhất một lần siêu âm mà ước lượng cân nặng thai dưới bách phân vị thứ 10 so với tuổi thai. Kết quả: Có 103 thai phụ được nhận vào nghiên cứu. Mổ lấy thai chiếm tỉ lệ 73,3% (95% KTC 64 - 82) với nguyên nhân chính là suy thai (59,5%). Tuổi thai trung bình lúc sinh là 36 1/7 tuần. Cân nặng lúc sinh trung bình 2.039 ± 562 g. Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân so với tuổi thai là 72,8% (95% KTC 0,64 - 0,82), tỷ lệ trẻ nhập khoa Hồi sức sơ sinh 34,0% (95% KTC 25 - 43), bệnh lý sơ sinh tổng hợp 41,0% (95% KTC 30 - 50), tỷ lệ thai chết trong tử cung 1,0%, tỷ lệ trẻ chết sau sinh 1,0%. Các yếu tố liên quan kết thúc thai kỳ trước 37 tuần và kết cục thai kỳ xấu ở trẻ sơ sinh gồm thời điểm xuất hiện, mức độ thai nhỏ so với tuổi thai, có kết hợp thiểu ối và bệnh lý rối loạn tăng huyết áp thai kỳ ở mẹ. Kết luận: Thai nhỏ so với tuổi thai có kết cục thai kỳ không thuận lợi. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho quản lý thai các trường hợp thai kỳ nguy cơ, đồng thời cung cấp thông tin cho công tác tư vấn thai phụ. Từ khóa: Thai nhỏ so với tuổi thai, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, kết cục thai kỳ, ước lượng cân thai, chấm dứt thai kỳ Obstetric and neonatal outcomes of small for gestational age pregnancy Truong My Ngoc1, Do Thi Minh Nguyet1, Ho Viet Thang2, Tran Nhat Thang2, Vuong Thi Ngoc Lan2 1 Can Tho Obstetrics and Gynecology Hospital 2 University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh city Abstract Objectives: To describe the obstetric and neonatal outcomes of small for gestational age (SGA) pregnancy diagnosed from 28 to 36 weeks at Can Tho OB/GYN Hospital and to investigate the associated factors for pregnancy termination before 37 weeks and neonatal adverse outcomes. Methods: This was a case-series performed from October 2018 to June 2019. Eligible patients were pregnant women who had SGA fetus diagnosed within their 28 to 36 weeks prenatal visits. Small for gestational age is defined as there is at least one sonographic report showing estimated fetal weight (EFW) is below the 10th percentile. Results: A total of 103 pregnant women were enrolled to the study. Cesarean section was performed in 73.3% (95% CI 64 - 82) of cases with the primary indication of fetal distress (59.5%). The mean gestational age at delivery was 36 1/7 weeks. The mean birth weight was 2039 ± 562 g. The percentage of SGA newborns was 72.8% (95% CI 0.64 - 0.82); NICU admission was 34% (95% CI 25 - 43), neonatal composite adverse events was 41% (95% CI 30 - 50), stillbirth was 1%, and neonatal mortality was 1%. The associated factors of pregnacy termination before 37 weeks and neonatal adverse events were timing of SGA detection, severity of SGA, oligohydramnios and maternal hypertension disorder. Conclusions: Small for gestational age pregnancy resulted in unfavorable outcomes. Data from this study provides evidence for the appropriate management of these high-risk pregnancies and patient counseling. Keywords: Small for gestational age, Intrauterine growth restriction, obstetric outcome, estimated fetal weight, preg- nany termination doi:10.46755/vjog.2020.1.771 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Trương Mỹ Ngọc, email: truongmyngoc89@gmail.com Nhận bài (received) 05/12/2019 - Chấp nhận đăng (accepted) 20/04/2020 NGHIÊN CỨU SẢN KHOA Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771 33Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thai nhỏ so với tuổi thai (TNSVTT) là một khái niệm mô tả tình trạng thai nhi có ước lượng cân nặng dưới bách phân vị thứ 10 (BPV10) so với tuổi thai [1]. Định nghĩa này, vốn được Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đề xuất, thật ra không được đồng thuận trên phương diện toàn cầu, và có thể không giúp phân biệt thai nhỏ do thể trạng (với sự phát triển thai phù hợp với kích thước cha, mẹ và chủng tộc) với thai với tăng trưởng trong tử cung bị giới hạn (thai phát triển nhưng không đạt được tiềm năng theo di truyền). Tuy vậy, trong chăm sóc thai kỳ, nhiều bằng chứng cho thấy thai nhỏ so với tuổi thai liên quan đến 28 - 45% thai chết lưu không rõ nguyên nhân. Sự suy giảm chức năng bánh nhau góp phần đáng kể trong sinh lý bệnh của thai nhỏ so với tuổi thai, làm gia tăng kết cục chu sinh bất lợi [2, 3]. Ngay cả khi thai kỳ gần ngày, tỷ lệ tử vong của sơ sinh nhỏ so với tuổi được sinh ở tuần 38 là 1% so với 0,2% ở trẻ có cân nặng khi sinh trong giới hạn bình thường [4]. Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ (BVPSCT) tiếp nhận khoảng 14.500 ca sinh trong năm 2017, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân đủ tháng < 2.500 g là 9,44% [5]. Tại Thành phố Cần Thơ, tới nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá kết cục sản khoa của thai kỳ TNSVTT, nhất là từ khi chúng tôi sử dụng bảng tham chiếu Shinozuka (năm 1987) để định bách phân vị cân thai. Để giúp Bác sĩ sản khoa có thêm bằng chứng y khoa, quản lý và kết thúc thai đúng thời điểm những trường hợp này, đánh giá biến chứng chu sinh, đồng thời tạo cơ sở cho những nghiên cứu chi tiết hơn xác định thời điểm và phương thức theo dõi - xử trí thích hợp, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Kết cục thai kỳ trong những trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ”. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả kết cục thai kỳ các trường hợp thai nhỏ so với tuổi thai được chẩn đoán từ 28 đến 36 tuần tại Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ. Khảo sát các yếu tố liên quan đến kết thúc thai kỳ trước 37 tuần và kết cục xấu của trẻ sơ sinh: Apgar 5 phút dưới 7 điểm, nhập khoa Hồi sức sơ sinh, bệnh lý sơ sinh tổng hợp. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu báo cáo loạt ca. Đối tượng nghiên cứu là thai phụ từ 18 tuổi, đến khám thai tại BVPSCT, mang đơn thai sống. Tiêu chuẩn nhận mẫu: tại một thời điểm khám thai bất kỳ từ 28 0/7 tuần đến 36 0/7 tuần, thai phụ được chẩn đoán thai nhỏ so với tuổi thai. Các thai phụ được tư vấn về nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: thai mang dị tật bẩm sinh, được chẩn đoán TNSVTT có liên quan đến nhiễm trùng bào thai, không xác định được tuổi thai (từ siêu âm quý 1), mất dấu, không thu thập đủ các số liệu về yếu tố liên quan và kết cục thai, thai phụ có rối loạn tâm thần. Phương pháp tiến hành: Từ tháng 10/2018 đến tháng 6/2019, kết quả siêu âm thai được trích lục từ lần khám hoặc nhập viện của tất cả thai phụ đến BVPSCT. TNSVTT được chẩn đoán khi trong khoảng tuổi thai từ 28 0/7 đến 36 0/7 tuần, có ít nhất một lần siêu âm mà ước lượng cân thai dưới bách phân vị thứ 10 (ước lượng theo công thức Shinozuka và tham chiếu cân nặng theo biểu đồ Shinozuka) [6]. Thai phụ khi chẩn đoán TNSVTT được xác định lại chính xác tuổi thai (so sánh với sổ khám và kết quả siêu âm quý 1), thăm khám lâm sàng để loại ra các trường hợp không phù hợp tiêu chuẩn chọn mẫu. Những thai phụ thỏa tiêu chí chọn mẫu được trình bày về nghiên cứu, nếu đồng ý tham gia nghiên cứu, sẽ ký giấy đồng ý tham gia và bắt đầu buổi phỏng vấn. Thời gian phỏng vấn khoảng 10 - 15 phút đối với mỗi thai phụ, bao gồm hỏi bệnh sử, tiền căn bệnh lý nội khoa; tiền căn sản khoa, đặc biệt tiền căn liên quan đến kết cục thai kỳ xấu ở các lần mang thai trước và kết quả các lần khám thai. Các trường hợp được nhận vào nghiên cứu được tiếp tục theo dõi khám thai định kỳ theo phác đồ bệnh viện. Theo đó, thai phụ được theo dõi và làm các đánh giá sức khỏe thai, bao gồm đo non-stress test, siêu âm thai với đánh giá Doppler nhiều lần trước khi kết thúc thai kỳ. Thời điểm kết thúc thai kỳ được xử trí theo phác đồ bệnh viện, tùy thuộc vào tình trạng thai phụ và sức khỏe của thai nhi. Nghiên cứu quan sát và chỉ ghi nhận lại kết cục bao gồm thời điểm kết thúc thai kỳ, phương pháp sinh, lí do mổ lấy thai, biến chứng sau sinh của mẹ, bên cạnh đó là tình trạng trẻ sau sinh: tuổi thai, điểm Apgar, cân nặng, giới tính, nhập khoa NICU, thời gian nằm viện, bệnh lý sơ sinh kèm theo. Nghiên cứu được thông qua Hội đồng Đạo đức Đại học Y Dược TPHCM và Hội đồng khoa học Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. 34 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ tháng 10/2018 đến 6/2019, có tổng cộng 103 thai kỳ tuổi thai từ 28 0/7 – 36 6/7 tuần được quan sát trong nghiên cứu này. Bảng 1. Đặc điểm nền của đối tượng tham gia nghiên cứu Đặc điểm Tổng (n = 103) Tỷ lệ (%) Tuổi mẹ < 35 tuổi ≥ 35 tuổi 82 21 79,6 20,4 Tăng huyết áp mạn 3 2,9 Bệnh lý tim mạch 1 1,0 Bệnh lý tuyến giáp 5 4,8 Tiền căn tiền sản giật 1 1,0 Đa số thai phụ trong độ tuổi sinh sản (< 35 tuổi), trung bình 29,3 ± 5,5 tuổi (thấp nhất 18 tuổi, cao nhất 42 tuổi). Có 01 trường hợp thai phụ có bệnh tim bẩm sinh nặng (biến chứng suy tim, tăng áp động mạch phổi, NYHA độ III) và 01 thai phụ có tiền căn sản khoa xấu (tiền sản giật nặng được kết thúc thai kỳ ở tuổi thai 28 tuần). Bảng 2. Đặc điểm thai kỳ tại thời điểm chẩn đoán thai nhỏ so với tuổi thai. Đặc điểm Tổng(n = 103) Tỷ lệ (%) Hoàn cảnh phát hiện Khám thai định kỳ Tăng huyết áp Chuyển dạ sinh Thai máy ít Thiểu ối Nhau tiền đạo ra huyết 52 23 16 8 3 1 50,5 22,3 15,5 7,8 2,9 1,0 Tuổi thai chẩn đoán TNSVTT < 32 tuần ≥ 32 tuần 19 84 18,4 81,6 Mức độ TNSVTT Trung bình Nặng 93 10 90,3 9,7 Thiểu ối Không Có 88 15 85,4 14,6 Bất thường động mạch rốn Không Tăng trở kháng AREDV 75 26 2 72,8 25,2 2,0 Bất thường động mạch não giữa Không Có 76 27 73,8 26,2 Chỉ số CPR dưới bách phân vị thứ 5 Không Có 67 36 65,1 34,9 Bất thường siêu âm khác Không Nhau tiền đạo Nhau bong non U xơ tử cung Dây rốn 1 động mạch Ngôi mông 84 4 3 3 1 8 81,5 3,9 2,9 2,9 1,0 7,8 Xử trí TNSVTT Theo dõi tiếp thai kỳ Kết thúc thai kỳ 86 17 83,5 16,5 Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771 35 Hoàn cảnh ghi nhận TNSVTT đa số là trong quá trình khám thai định kỳ. Khi đó, có thể đã có biểu hiện tăng huyết áp (14 trường hợp biểu hiện tiền sản giật không dấu hiệu nặng, 04 trường hợp có dấu hiệu nặng, 04 trường hợp xuất hiện kèm hội chứng HELLP, 01 trường hợp sản giật ngoại viện). Có 15,5% thai phụ chuyển dạ sinh và được ghi nhận TNSVTT tại thời điểm nhập viện. TNSVTT trước 32 tuần được chẩn đoán chiếm 18,5%. Tại Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ, ước lượng cân nặng thai được tính theo công thức Shinozuka và so với bảng tham chiếu tương ứng. TNSVTT nặng dưới bách phân vị thứ 3 chiếm tỷ lệ thấp (9,7%), so với các trường hợp còn lại từ bách phân vị thứ 3 - 10 (Bảng 2). Kèm theo cân nặng, thai kỳ được đánh giá các tiêu chí khác như: kèm thiểu ối (14,6%), siêu âm Doppler thai bất thường (27,1%). Nếu dùng chỉ số não nhau (CPR) để đánh giá, tỷ lệ siêu âm Doppler thai bất thường gia tăng lên 34,9% ở thời điểm chẩn đoán TNSVTT. Các bất thường siêu âm thai kèm theo khi chẩn đoán TNSVTT bao gồm: nhau tiền đạo, nhau bong non, mẹ có u xơ tử cung, ngôi mông và dây rốn 1 động mạch. Cả 3 trường hợp nhau bong non đều xuất hiện trong bệnh cảnh mẹ có tiền sản giật. Đa số thai kỳ được tiếp tục theo dõi theo phác đồ bệnh viện. Tỷ lệ kết thúc thai kỳ ngay khi chẩn đoán TNS- VTT là do suy thai, chuyển dạ sinh, thiểu ối và vết mổ lấy thai kèm theo bất thường, với tuổi thai dao động từ 30 5/7 tuần đến 35 5/7 tuần. Khi tiếp tục theo dõi, đa số thai kỳ kết thúc bằng mổ lấy thai (chỉ có 101 trường hợp sinh tại BVPSCT). Nguyên nhân mổ lấy thai chiếm tỷ lệ cao nhất là suy thai, tiếp đến là vết mổ lấy thai cũ, ngôi mông kèm theo bất thường, tiền sản giật nặng, thiểu ối. Bảng 3. Kết cục thai kỳ liên quan đến mẹ Đặc điểm Tổng (n = 103) Tỷ lệ (%) Phương pháp sanh Mổ lấy thai Sanh ngả âm đạo 74 29 73,3 26,7 Băng huyết sau sanh 1 1,0 Nhiễm trùng sau sanh 2 2,0 Bảng 4. Đặc điểm thai kỳ ở thời điểm kết thúc thai kỳ Đặc điểm Tổng (n = 101) Tỷ lệ (%) Thiểu ối 19 18,8 Bất thường động mạch rốn - Tăng trở kháng - AREDV 18 4 17,8 4,0 Bất thường động mạch não giữa 40 39,6 Giảm CPR 37 36,6 Biểu đồ tim thai - Bất thường - Không làm 36 4 35,6 4,0 Liệu pháp Corticoid 49 47,6 Thời gian theo dõi (ngày) Trung bình 16,9 ± 17,6 ngắn nhất 0, dài nhất 78 Tại thời điểm kết thúc thai kỳ, các biểu hiện đi kèm của TNSVTT gia tăng như thiểu ối (18,8%), bất thường Doppler thai (39,6%), biểu đồ tim thai bất thường Bảng 5. Kết cục thai kỳ liên quan đến con Đặc điểm Tổng (n = 103) Tỷ lệ (%) Tuổi thai kết thúc thai kì (tuần) Trung bình 36,1 ± 2,1 tuần (28,4 – 40,6 tuần) Cân nặng sơ sinh (gram) Trung bình 2039 ± 562 (800 – 3100) Phân nhóm tuổi thai lúc sinh < 32 tuần 32 tuần – 36 tuần 6 ngày > 37 tuần 8 55 40 7,8 53,4 38,8 Giới tính Nam Nữ 49 54 47,6 52,4 Thai chết trong tử cung 1 1,0 Tử vong sau sanh 1 1,0 Dù tỷ lệ thai kỳ được kết thúc non tháng cao, chúng tôi cũng ghi nhận được 2 trường hợp thai quá ngày dự sanh (40 6/7 tuần). Bệnh cạnh đó, không nhiều trẻ sơ sinh rất non < 32 tuần, chiếm 7,8%. Khi dùng chuẩn Inter- growth 21st cho cân nặng lúc sinh (phân theo giới tính), có tới 72,8% đạt tiêu chuẩn trẻ nhẹ cân so với tuổi. Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771 36 Bảng 6. Kết cục thai kỳ của trẻ sơ sinh tại bệnh viện Đặc điểm Tổng số (n = 100) Tỷ lệ (%) KTC 95% Apgar 5 phút < 7 điểm 13 13,0 0,06 - 0,12 Nhập NICU 34 34,0 0,25 - 0,43 Bệnh lý sơ sinh tổng hợp 41 41,0 0,3 - 0,5 Trong 100 thai kỳ sinh sống, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ trẻ sơ sinh nhập NICU và các bệnh lý sơ sinh tổng hợp, được định nghĩa là có một trong các vấn đề sau: nhiễm trùng huyết, đặt nội khí quản 24 giờ, hồi sức tim - phổi, hạ đường huyết, loạn sản phế quản phổi, sử dụng surfac- tant, cơn thở nhanh thoáng qua của trẻ sơ sinh, viêm ruột hoại tử, tăng áp phổi, co giật, bệnh não thiếu máu cục bộ thiếu oxy, tử vong sơ sinh. Bảng 7. Phân tích các đặc điểm liên quan chấm dứt thai kỳ ở tuổi thai < 37 tuần Đặc điểm CDTK < 37 tuần Giá trị kỳ vọng HR KTC 95% p** Thời điểm chẩn đoán TNSVTT Trước 32 tuần Sau 32 tuần 15 48 6,04 56,9 1 0,18 0,095 - 0,36 < 0,001 Mức độ TNSVTT Trung bình Nặng 9 54 2,81 60,19 1 2,59 1,13 - 5,9 0,025 Thiểu ối Không Có 49 14 57,4 5,6 1 2,4 1,2 - 4,8 0,014 Rối loạn huyết áp trong thai kỳ Không Có 36 27 54,6 8,4 1 4,8 2,6 - 8,8 < 0,001 ** HR: Harzard ratio. Mô hình hồi quy Cox Để khảo sát các yếu tố liên quan đến nguy cơ kết thúc thai kỳ non tháng cũng như kết cục sơ sinh xấu, chúng tôi tiến hành phân tích đơn biến và phân tích đa biến bằng hồi quy Cox để đánh giá tác động của các đặc điểm thai kỳ lên những kết cục này. Hình 1. Các yếu tố liên quan đến kết cục xấu ở trẻ sơ sinh. 4. BÀN LUẬN Trong mức độ nghiên cứu quan sát rất hạn chế, chúng tôi nhận thấy TNSVTT là một vấn đề vẫn thời sự hiện nay. Hoàn cảnh phát hiện đa số là tình cờ. Việc sử dụng siêu âm ước lượng cân thai, theo dõi cân nặng trên biểu đồ tăng trưởng và các chỉ số Doppler thai ngày càng nhiều có thể giúp gia tăng ghi nhận TNSVTT, tuy vậy cần được sử dụng với bảng tham chiếu phù hợp cho dân số địa phương. Chúng tôi sử dụng chuẩn Shinozuka tại BVPSCT và nghiên cứu này đã cho thấy những khác biệt so với thực hành áp dụng chuẩn Hadlock tại nhiều Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771 37 địa phương khác. Điều này có thể cho thấy kỳ vọng của chuẩn Hadlock tại một thời điểm tuổi thai lớn hơn nhiều Shinozuka, và có thể không phù hợp. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Trang [7] đã ghi nhận điều này trước đây trên dân số khám thai bình thường của bệnh viện Từ Dũ. So với nghiên cứu của Thạch Thảo Đan Thanh - Bệnh viện Từ Dũ hay của Lê Thị Kiều Trang tại Bệnh viện Hùng Vương (đều áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán thai chậm tăng trưởng là khi cân nặng thai dưới bách phân vị thứ 10 theo Hadlock), tỷ lệ nhóm TNSVTT nặng (dưới bách phân vị thứ 3) cao hơn nhiều nghiên cứu của chúng tôi (lần lượt là 45,4% và 67,7%) [8, 9]. Tỷ lệ trẻ sơ sinh thật sự nhẹ cân so với tuổi khá cao ở nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, nếu nghiên cứu này được phát triển thành một đoàn hệ tiến cứu cỡ mẫu đủ lớn, chúng tôi có thể chứng minh được khả năng dự đoán tốt hơn trẻ sơ sinh nhẹ cân khi khám và theo dõi thai với biểu đồ chuẩn Shinozuka. Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận nhóm thai phụ từ 35 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ thấp. Điều này tương đồng với một số nghiên cứu thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua. Có thể thấy, vấn đề TNSVTT không giới hạn về độ tuổi cũng như vùng cư trú. Đồng thời số liệu từ nghiên cứu này có thể góp phần nói lên thực trạng cho dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phương pháp kết thúc thai kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất là mổ lấy thai (73,3%), tiếp đến là chuyển dạ tự nhiên chiếm 25,7%. Tỷ lệ mổ lấy thai trong nghiên cứu chúng tôi khá cao so với các nghiên cứu ở Việt Nam, và cao hơn so với tỷ lệ mổ lấy thai trong dân số chung tại BVPSCT năm 2018 (46,6%). Điều này phản ánh mặt khác của việc ghi nhận TNSVTT có thể làm gia tăng can thiệp mổ lấy thai cuối thai kỳ. Tuy nhiên, khi nhìn vào tỷ lệ thai kỳ có biểu hiện kèm theo bất thường Doppler thai và/hoặc thiểu ối ở cả khi bắt đầu ghi nhận thai nhỏ lẫn kết thúc thai kỳ, chúng tôi có thể tạm lý giải lý do liên quan đến biến chứng thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung, vốn đã ghi nhận nhiều trong các nghiên cứu theo dõi lớn trong và ngoài nước trên đối tượng này. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố liên quan đến kết thúc thai kỳ trước 37 tuần và kết cục thai kỳ xấu ở trẻ sơ sinh gồm thời điểm xuất hiện, mức độ TNS- VTT, có kết hợp thiểu ối và bệnh lý rối loạn tăng huyết áp thai kỳ ở mẹ. Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận điểm số Apgar thấp có thể liên quan việc TNSVTT được nhận ra hay khởi phát muộn, gợi ý có thể việc không phát hiện được hình thái tăng trưởng này kịp thời có thể làm xấu đi việc quản lý và kết thúc một thai kỳ nguy cơ. Hạn chế lớn nhất của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ, dù chúng tôi đã áp dụng các phép kiểm thích hợp về thống kê nhưng đây chưa phải là nghiên cứu có thiết kế mạnh để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến kết cục chấm dứt thai kỳ non tháng và kết cục xấu trên trẻ sơ sinh. Thực tế, các trường hợp TNSVTT không nhiều và hạn chế về thời gian thực hiện, chúng tôi buộc chọn thiết kế nghiên cứu báo cáo loạt ca. Chúng tôi quan sát một cách khách quan về cách xử trí cũng như kết cục thai kỳ và không phải là người đưa ra y lệnh trực tiếp điều trị 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu cho thấy thai nhỏ so với tuổi thai có kết cục thai kỳ không thuận lợi, bao gồm sinh non, nhẹ cân so với tuổi thai, với Apgar xấu, nguy cơ nhập NICU điều trị, bệnh lý sơ sinh tổng hợp Những thông tin này bước đầu giúp bác sĩ tại BVPSCT tư vấn phù hợp cho thai phụ và gia đình nguy cơ trẻ sơ sinh có thể gặp phải, sự cần thiết quản lý theo dõi cũng như lựa chọn thời điểm và phương pháp kết thúc thai kỳ thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cunningham, Leveno, Bloom, Spong & Dash. Williams obstetrics; 25e; Mcgraw-hill 2018. 2. Chauhan, Suneet P., et al. Neonatal morbidity of small- and large-for-gestational-age neonates born at term in uncomplicated pregnancies. Obstetrics and Gynecology 2017; 130.3: 511. 3. Figueras, Francesc; Gratacos, Eduard. Stage‐based approach to the management of fetal growth restric- tion. Prenatal Diagnosis, 2014, 34.7: 655-659. 4. Gabbe, Niebyl, Simpson, Landon, Galan, Jauniaux & Grobman; Obstetrics: normal and problem pregnancies; Elsevier Health Sciences; 2016. 5. Lâm Đức Tâm. Nghiên cứu tỉ lệ và yếu tố liên quan trẻ sơ sinh nhẹ cân đủ tháng tại bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2017. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. 6. Shinozuka, Norio, et al. Formulas for fetal weight esti- mation by ultrasound measurements based on neonatal specific gravities and volumes. American Journal of Ob- stetrics and Gynecology, 1987, 157.5: 1140-1145. 7. Nguyễn Xuân Trang. Xây dựng biểu đồ phát triển thai nhi trong tử cung qua các số đo siêu âm. Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP. HCM. 2013. 15(1), 71-80. 8. Lê Thị Kiều Trang. Kết cục thai kỳ thai suy dinh dưỡng từ 34 tuần nhập viện bệnh viện Hùng Vương. 2018. Tạp chí Y học 22(1), 55-59. 9. Thạch Thảo Đan Thanh. Kết cục thai chậm tăng trưởng trong tử cung có chỉ định chấm dứt thai kỳ tại bệnh viện Từ Dũ. 2017. Tạp chí Y học 21(1). Trương Mỹ Ngọc và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):32-37. doi: 10.46755/vjog.2020.1.771

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_cuc_thai_ky_cac_truong_hop_thai_nho_so_voi_tuoi_thai.pdf
Tài liệu liên quan