Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và các mô
hình liên quan đến hành vi chấp nhận công
nghệ mới của doanh nghiệp và người tiêu dùng,
bài viết đề xuất được khung phân tích các yếu
tố ảnh hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào
kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam. Trong khung
phân tích đề xuất, bài viết đóng góp vào việc
xây dựng 4 nhóm thang đo các yếu tố ảnh
hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào bán lẻ,
bao gồm: bối cảnh công nghệ, bối cảnh cá nhân,
bối cảnh môi trường, nhận thức người sử dụng.
Đây là đóng góp quan trọng trong bối cảnh
mạng xã hội phát triển không ngừng và tác
động ngày càng mạnh mẽ đến hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam. Do đó, việc nhận thức và
hiểu rõ các yếu tố tác động, từ đó đề xuất được
các giải pháp phát triển và quản lý kinh doanh
qua mạng xã hội là rất cấp thiết ở Việt Nam.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết hợp mô hình TAM và TOE vào nghiên cứu chấp nhận mạng xã hội trong kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
86
Original Article
Intergrating TAM and TOE Models in Researching Social
Media Adoption in Businesses in Vietnam
Dang Thi Huong1,*, Luu Thi Minh Ngoc1, Nguyen Phuong Mai2
1VNU University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnan
2VNU International School, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnan
Received 27 February 2020
Revised 06 March 2020; Accepted 09 March 2020
Abstract: Social media has been growing and strongly impacting on retail businesses in Vietnam.
With the advantages of applying social media in business, online retail businesses have become
popular and effective. Based on the synthesis of the theory of social media and the models related
to technology adoption behaviours of enterprises (TAM model and TOE model), the article
proposes a research framework on factors affecting the decision to adopt social media in retail
business in Vietnam.
Keywords: Social media, retail, social media applications in business, Vietnam.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: huongdthvn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4322
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
87
Kết hợp mô hình TAM và TOE vào nghiên cứu chấp nhận
mạng xã hội trong kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam
Đặng Thị Hương1,*, Lưu Thị Minh Ngọc1, Nguyễn Phương Mai2
1Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Khoa Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 27 tháng 02 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 09 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Mạng xã hội đang ngày càng phát triển và tác động mạnh mẽ đến hoạt động bán lẻ của
các doanh nghiệp Việt Nam. Với những lợi thế của việc ứng dụng mạng xã hội vào kinh doanh,
hình thức kinh doanh bán lẻ trực tuyến trở nên phổ biến và mang lại hiệu quả. Dựa trên cơ sở tổng
hợp lý thuyết về mạng xã hội và mô hình liên quan đến hành vi chấp nhận công nghệ của doanh
nghiệp (mô hình TAM và mô hình TOE), bài viết đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố ảnh
hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam.
Từ khóa: Mạng xã hội, bán lẻ, ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh, Việt Nam.
1. Mở đầu *
Mạng xã hội được coi là ứng dụng mạng
phát triển nhanh nhất của thế kỷ XXI [1]. Mạng
xã hội ra đời tạo ra một kênh thông tin mới với
sự tương tác mạnh mẽ giữa số đông những
người dùng. Hình thức tương tác kỹ thuật số
này giúp thông tin lan truyền nhanh chóng và
hiệu quả. Tất cả mọi người đều có thể chia sẻ
thông tin một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mạng
xã hội xuất hiện đem lại nhiều tiện ích cho
người dùng như: kết nối bạn bè, chia sẻ thông
tin, duy trì các mối quan hệ, truyền thông
Trong kinh doanh, các công cụ mạng xã hội có
tác động đáng kể đến tiếp thị và quan hệ khách
hàng bằng cách cung cấp cho khách hàng thông
tin về người bán, sản phẩm hoặc dịch vụ, chăm
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: huongdthvn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4322
sóc khách hàng và cho phép tương tác thời gian
thực giữa người bán và người mua.
Tại Việt Nam, mạng xã hội đã lan truyền
mạnh mẽ trong những năm gần đây, đặc biệt là
trong lĩnh vực bán lẻ. Nhờ việc sử dụng các ứng
dụng công nghệ thông tin (CNTT) ngày càng
tăng, các nhà bán lẻ Việt Nam đã thay đổi
nhanh chóng mô hình kinh doanh truyền thống
sang phương thức kinh doanh dựa trên internet.
Các nhà bán lẻ này đã biến gần một phần ba
dân số, tức là 30 triệu người, thành người mua
hàng trực tuyến. Theo kết quả khảo sát của
Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam
(VECOM), 48% người tiêu dùng Việt Nam
đang chuyển mua hàng từ các cửa hàng bán lẻ
và chợ bán lẻ sang các nhà bán lẻ trực tuyến;
36% công ty được khảo sát đã trả lời rằng họ
hoàn toàn nhận thức được việc mua sắm trực
tuyến và hiện đang triển khai áp dụng mạng xã
hội như một nền tảng trong kinh doanh [2]. Nhờ
sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
88
truyền thông xã hội, tổng doanh thu của thương
mại điện tử tại Việt Nam đã đạt 8 tỷ USD vào
năm 2018, tăng 30% so với năm 2017 và tăng
gấp đôi so với năm 2015 [3].
Kinh doanh bán lẻ trực tuyến đang trở nên
phổ biến hơn bao giờ hết với sự tham gia của
nhiều loại hình doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia
đình. Tuy nhiên, số công trình nghiên cứu về
việc làm thế nào để các đối tượng tham gia kinh
doanh ở Việt Nam có thể thích nghi và áp dụng
xu hướng kỹ thuật số mới trong bán lẻ lại chưa
có nhiều. Chính vì vậy, bài viết này nhằm mục
đích tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp
dụng mạng xã hội (phương tiện truyền thông xã
hội) vào kinh doanh của các nhà bán lẻ cá nhân
và hộ gia đình từ các nghiên cứu tiên nghiệm,
từ đó đề xuất khung phân tích cho vấn đề
nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam.
2. Cơ sở lý luận về ứng dụng mạng xã hội
vào kinh doanh thương mại
2.1. Mạng xã hội
Mạng xã hội (socia network) là công cụ kết
nối các thành viên có cùng sở thích trên internet
lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau
không phân biệt không gian và thời gian. Mạng
xã hội được coi là ứng dụng mạng phát triển
nhanh nhất của thế kỷ XXI và sự phát triển
chóng mặt này hiện đang được hỗ trở bởi các
tiến bộ công nghệ [1].
Kaplan and Haenlein (2010) định nghĩa
mạng xã hội là một nhóm các ứng dụng sử dụng
mạng internet để kết nối xây dựng dựa trên tư
tưởng và công nghệ của nền tảng công nghệ 2.0
cho phép người dùng có thể tạo và trao đổi
thông tin với nhau [4]. Dearborn (2014) cho
rằng mạng xã hội là “một kênh truyền thông
phổ biến, cực kỳ nhanh và rộng rãi, đã được
chứng minh là có hiệu quả cao, và được tin
dùng bởi hàng tỉ người để trao đổi và học tập về
các vấn đề cá nhân, thương hiêu, thông tin, giải
trí và các bí quyết trong cuộc sống” [5]. Có một
điểm chung giữa các định nghĩa này đó là mạng
xã hội bao gồm các hình thức truyền thông giữa
các cá nhân với nhau thông qua internet.
Hiện nay, mạng xã hội có rất nhiều hình
thức khác nhau. Kaplan và Haenlein (2019) đã
phân loại mạng xã hội thành 6 nhóm dựa trên
mức độ tự tiết lộ và hiện diện xã hội, bao gồm:
Cộng đồng sáng tạo nội dung (Youtube), mạng
kết nối xã hội (Facebook), blog và forum
(Twitter), các dự án hợp tác (Wikipedia), Thế
giới trò chơi ảo (World of war craft), Thế giới
xã hội ảo (Second life) [4] (Hình 1.1).
y
Hình 1.1. Phần trăm số người sử dụng các mạng xã hội 2018.
Nguồn: qandme.net [6].
Mức độ sử dụng mạng xã hội
Sử dụng
Không sử dụng
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
89
Người dùng có nhiều lý do sử dụng mạng
xã hội khác nhau, tuy nhiên các lý do chủ yếu là
mua sắm, bán hàng, giao tiếp, học tập, cập nhật
thông tin cá nhân và chia sẻ các khoảnh khắc
trong ngày với mọi người, Tại Việt Nam,
Facebook là trang mạng xã hội có sự phát triển
nhanh chóng. Theo trào lưu của Facebook,
Twitter, ngày càng có nhiều mạng xã hội ra đời,
như Zalo, ZingMe, YuMe, Sự xuất hiện và
phát triển của mạng xã hội nói riêng, internet nói
chung đã tác động mạnh mẽ và toàn diện tới các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
2.2. Bán lẻ
Bán lẻ là một tập hợp các hoạt động kinh
doanh làm tăng giá trị cho các sản phẩm và dịch
vụ để bán cho khách hàng bằng cách liên kết
các nhà sản xuất với người tiêu dùng. Theo
Enders và Jelassi (2000), có hai mô hình bán lẻ
riêng biệt là mô hình “gạch-vữa”, được gọi là
mô hình bán lẻ truyền thống và mô hình bán lẻ
trực tuyến, dựa trên Internet [7]. Mô hình bán lẻ
truyền thống chủ yếu kinh doanh tại một cửa
hàng cụ thể nơi các nhà cung cấp tương tác trực
tiếp với khách hàng. Trong khi đó, mô hình bán
lẻ trực tuyến cho phép khách hàng truy cập
thông tin trực tuyến về các sản phẩm, đặt hàng,
phương thức thanh toán [7]. Mô hình bán lẻ
truyền thống đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi
việc sử dụng Internet vào kinh doanh ngày càng
phổ biến. Các nhà bán lẻ trực tuyến được đánh
giá là đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô cao
hơn bởi trong cùng thời điểm có thể phục vụ vài
trăm nghìn hoặc thậm chí hàng triệu khách
hàng. Hơn nữa, việc kinh doanh online không
cần sử dụng quá nhiều cơ sở hạ tầng vật chất
làm cho mô hình kinh doanh bán lẻ trực tuyến
có khả năng mở rộng cao [7].
Trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng
hiểu biết và sử dụng Internet và mạng xã hội gia
tăng, có thể giả định rằng họ sẽ có xu hướng
mua hàng qua Internet và mạng xã hội nhiều
hơn so với người tiêu dùng ngày nay, những
người quen mua sắm tại các cửa hàng thực tế
[7]. Do đó, mô hình bán lẻ trực tuyến hiển
nhiên là có nhiều cơ hội để phát triển trong
tương lai.
2.3. Mạng xã hội và kinh doanh bán lẻ
Mạng xã hội được hiểu là các hình thức
giao tiếp trực tuyến khác nhau được mọi người
sử dụng để tạo mạng, cộng đồng và tập thể, để
chia sẻ nhiều loại thông tin và nội dung khác
nhau. Kane và cộng sự (2014) mô tả mạng xã
hội là một cách tiếp cận thông tin mới thông
qua công nghệ nhằm tạo thuận lợi cho sự hợp
tác và giao tiếp giữa các cá nhân thông qua việc
sử dụng các nền tảng dựa trên Internet [8].
Mạng xã hội đồng thời hỗ trợ truyền thông trực
tuyến và truyền thông đại chúng [9]. Mạng xã
hội đang thay đổi đáng kể cách thức giao tiếp,
cộng tác, kinh doanh, tiêu thụ và tạo ra giá trị.
Mạng xã hội tạo ra nhiều cách thức giao tiếp
không chỉ giữa người bán với khách hàng mà
những phản hồi của khách hàng về sản phẩm
cũng được thông tin một cách công khai [10].
Ngày nay, khách hàng không còn là người mua
và người tiêu dùng thuần túy, mà còn là người
đóng góp cho nội dung của sản phẩm và dịch
vụ trên mạng xã hội. Do đó, mạng xã hội trở
thành một trong những phương tiện có tác động
biến đổi mạnh mẽ nhất của công nghệ thông tin
(CNTT) vào kinh doanh cả trong và ngoài
doanh nghiệp [11]. Hiện nay, mặc dù hàng triệu
người trên toàn cầu đang sử dụng mạng xã hội
cho nhiều mục tiêu khác nhau, việc ứng dụng
mạng xã hội vào kinh doanh vẫn còn ở giai
đoạn đầu và các nhà nghiên cứu mạng xã hội
vẫn chưa xác định được công nghệ nào được
phân loại là xã hội [8]. Với sự phát triển không
ngừng và đa dạng của công nghệ thông tin
(CNTT) và mạng xã hội, việc nghiên cứu tác
động và các yếu tố tác động đến ứng dụng
mạng xã hội vào kinh doanh vẫn đang là vấn đề
cần giải quyết.
2.4. Một số mô hình lý thuyết liên quan đến
hành vi chấp nhận công nghệ mới của doanh
nghiệp và người tiêu dùng
2.4.1. Lý thuyết hành động hợp lý (Theory
of Reasoned Action - TRA, Schiffman và
Kanuk, 1987)
TRA là mô hình giải thích và dự đoán ý
định hành vi trong các trường hợp chấp nhận
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
90
một hệ thống CNTT. TRA dựa trên giả định
rằng con người đưa ra những quyết định hợp lí
dựa trên những thông tin mà họ biết (Hình 1.2).
Lý thuyết này chỉ ra rằng “ý định” là dự
đoán tốt nhất của hành vi cuối cùng và ý định
đồng thời được xác định bởi thái độ và các quy
chuẩn chủ quan.
Thái độ: cảm nhận tích cực hay tiêu cực
về việc thực hiện một hành vi và có thể được
quyết định bởi sự dự báo về kết quả của những
hành động của họ.
Chuẩn chủ quan: nhận thức của một
người rằng hầu hết những người xung quanh
cho rằng họ nên hoặc không nên thực hiện hành
động đó.
2.4.2 Mô hình chấp nhận công nghệ
(Technology Acceptance Model - TAM,
Davis, 1989)
Được chuyển thể từ mô hình TRA, TAM
được sử dụng để giải thích và dự đoán về sự
chấp nhận và sử dụng một công nghệ. TAM
được thử nghiệm và chấp nhận một cách rộng
rãi trong các nghiên cứu về lĩnh vực CNTT, đây
được coi là mô hình có giá trị tiên đoán tốt.
Trong đó, ý định sử dụng có tương quan đáng
kể tới việc sử dụng, còn các yếu tố khác ảnh
hưởng đến việc sử dụng một cách gián tiếp
thông qua ý định sử dụng [13] (Hình 1.3).
8
Hình 1.2. Mô hình TRA.
Nguồn: Schiffman và Kanuk (1987) [12].
Hình 1.3. Mô hình TAM.
Nguồn: Fres David, 1989 [13].
Biến
bên
ngoài
Sự hữu ích
cảm nhận
Sự dễ sử
dụng cảm
nhận
Thái độ
sử dụng
Ý định Thói quen
sử dụng
thực tế
Niềm tin
Sự đánh giá
Niềm tin quy chuẩn
Động cơ
Thái độ
Chuẩn chủ quan
Xu hướng hành vi
Hành
vi thực
sự
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
91
k
Mô hình TAM cũng được sử dụng để
nghiên cứu nhiều công nghệ Internet, như
World Wide Web [14], mạng nội bộ [15, 16],
thương mại di động [17], hoặc áp dụng thương
mại điện tử [18, 19].
2.4.3. Lý thuyết Công nghệ - Tổ chức - Môi
trường kinh doanh (Technology - Organization
- Environment Framework - TOE, Tornatzky và
cộng sự, 1990) [20]
TOE là một trong những khung nghiên cứu
phổ biến về hành vi chấp nhận công nghệ mới
của doanh nghiệp. Ý tưởng chung của mô hình
này là sự chấp nhận một công nghệ mới của
doanh nghiệp chịu sự chi phối của ba nhóm yếu
tố chính: Thứ nhất là yếu tố công nghệ như sự
có sẵn của công nghệ, đặc tính của công nghệ
đó; thứ hai là yếu tố tổ chức như cấu trúc tổ
chức, quy mô tổ chức, đặc điểm của tổ chức
cũng như các quá trình truyền thông trong tổ
chức đó và cuối cùng là yếu tố môi trường như
đặc tính của ngành, mức độ cạnh tranh trong
ngành, sự hỗ trợ của chính phủ, các quy định
của chính phủ,
o
Hình 1.4. Lý thuyết TOE về hành vi chấp nhận công nghệ mới.
Nguồn: (Tornatzky và cộng sự, 1990) [20].
3. Đề xuất khung phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào kinh
doanh bán lẻ
3.1. Cơ sở đề xuất
Các nghiên cứu trước đây đã xem xét tác
động trực tiếp của các yếu tố trong TAM hoặc
TOE đến việc áp dụng mạng xã hội trong các
bối cảnh khác nhau. Một số nghiên cứu tích hợp
TAM và TOE để đo lường tác động của các yếu
tố theo ngữ cảnh đến việc áp dụng dịch vụ dựa
trên công nghệ. Gần đây, Tripopsakul (2018) đã
sử dụng TAM làm biến trung gian trong nghiên
cứu mạng xã hội áp dụng như một nền tảng
kinh doanh của các doanh nhân trẻ ở Thái Lan
[10]. Mô hình nghiên cứu của Tripopsakul
(2018) được áp dụng trong bối cảnh nghiên cứu
có đặc điểm kinh tế, xã hội khá tương đồng với
môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Do đó,
trong nghiên cứu này, nhóm tác giả áp dụng mô
hình nghiên cứu từ Tripopsakul (2018) vào bối
cảnh của ngành bán lẻ Việt Nam.
3.2. Khung nghiên cứu đề xuất
Khung nghiên cứu đề xuất được trình bày
trong hình 1.5, bao gồm ba biến độc lập trích
xuất từ khung TOE và hai biến TAM làm các
biến trung gian. Yếu tố phụ thuộc là quyết định
áp dụng mạng xã hội như một nền tảng kinh
doanh. Các cấu trúc của mô hình nghiên cứu
được phát triển như sau.
Môi trường bên
ngoài
Đặc trưng ngành và
cấu trúc thị trường
Cơ sở hạ tầng hỗ trợ
công nghệ
Quy định của chính
phủ
Tổ chức
Các cấu trúc kết nối
chính thức và phi
chính thức
Các quá trình giao
tiếp
Quy mô
Sự trì chệ
Ra quyết định
đổi mới công
nghệ
Công nghệ
Sự sẵn sàng
Đặc điểm
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
92
l
Hình 1.5. Khung nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận
mạng xã hội trong kinh doanh bán lẻ.
Nguồn: nhóm tác giả đề xuất.
● Bối cảnh công nghệ
Bối cảnh công nghệ, nói chung, đề cập đến
ứng dụng hoặc đối tượng của việc áp dụng công
nghệ mới [21]. Bối cảnh công nghệ bao gồm
các công nghệ bên trong và bên ngoài có liên
quan đến công ty bao gồm cả thiết bị cũng như
quy trình [20]. Nhiều học giả đã nghiên cứu và
xác nhận tầm quan trọng của một loạt các cấu
trúc bậc một và bậc hai ảnh hưởng đến bối cảnh
công nghệ. Những yếu tố này bao gồm (i) lợi
thế tương đối (mức độ mà một công nghệ được
coi là tốt hơn so với ý tưởng mà nó thay thế);
(ii) tính tương thích (mức độ mà một công nghệ
được coi là phù hợp với các giá trị hiện có, kinh
nghiệm trong quá khứ và nhu cầu của những
người chấp nhận tiềm năng); (iii) độ phức tạp
(mức độ mà một công nghệ được coi là tương
đối khó hiểu và sử dụng); (iv) khả năng dùng
thử (mức độ mà một công nghệ có thể được thử
nghiệm trên cơ sở hạn chế); và (v) khả năng
quan sát (mức độ mà các kết quả của công nghệ
có thể nhìn thấy đối với người khác).
Bối cảnh công nghệ được cho là không
chỉ có tác động trực tiếp đến việc áp dụng
CNTT, mạng xã hội, thương mại điện tử [18],
mà còn tác động gián tiếp thông qua các biến số
nhận thức về sự dễ sử dụng (PEOU) và nhận
thức tính hữu dụng (PU) của những người chấp
nhận tiềm năng [10]. Trong nghiên cứu này,
PEOU và PU được coi là trung gian của mối
quan hệ giữa bối cảnh công nghệ và việc áp
dụng mạng xã hội của các nhà bán lẻ cá nhân và
hộ gia đình. Người ta cho rằng bối cảnh công
nghệ càng thuận lợi, người chấp nhận càng dễ
dàng và hữu ích hơn về việc sử dụng mạng xã
hội trong kinh doanh.
Bối cảnh công nghệ
Lợi thế tương đối
Độ phức tạp
Khả năng tương thích
Khả năng dùng thử
Khả năng quan sát
Bối cảnh tổ chức
● Sự tự tin cảm nhận
● Sáng tạo cá nhân
● Kinh nghiệm về công nghệ
thông tin
Nhận thức người
sử dụng
Bối cảnh môi trường
● Áp lực cạnh tranh
● Áp lực khách hàng
● Áp lực xã hội
Nhận thức
tính hữu ích
Nhận thức dễ
sử dụng
Áp dụng mạng
xã hội trong
kinh doanh
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
93
● Bối cảnh tổ chức
Bối cảnh tổ chức được xác định là các
nguồn lực có sẵn để hỗ trợ sự chấp nhận mạng
xã hội. Các tiêu chí này bao gồm quy mô và
phạm vi doanh nghiệp, hỗ trợ của quản lý cấp
cao, văn hóa tổ chức, sự phức tạp của cơ cấu
quản lý được đo lường theo góc độ tập trung
hóa, chính thức hóa, liên ngành; và chất lượng
và tính sẵn có của nguồn nhân lực của công ty
[22-24], tính sáng tạo của các nhà quản lý
[25, 26], sự tự tin cảm nhận và kinh nghiệm
công nghệ trước đó [27].
Sự tự tin cảm nhận được định nghĩa là sự tự
tin của một cá nhân về khả năng thực hiện hành
vi của mình và dự đoán ý định sử dụng một loạt
các sản phẩm công nghệ tiên tiến [28, 29]. Do
đó, một cá nhân tự tin sử dụng máy tính và
Internet có xu hướng chấp nhận Internet
nhiều hơn.
Một người đổi mới sáng tạo có thể áp dụng
công nghệ mới, hoặc hệ thống mới nhanh hơn
những người khác trong các tình huống xã hội
tương tự [30]. Một người sáng tạo là người cố
gắng giải quyết vấn đề bằng cách cố gắng thay
đổi cấu trúc bên trong [31]. Các nghiên cứu của
Fityan và Huseynov (2018), Ghobakhloo và
Hong Tang (2013) khẳng định rằng khi các chủ
doanh nghiệp càng sáng tạo thì ý định chấp
nhận phương tiện truyền thông xã hội của họ sẽ
càng cao [25, 26].
Hơn nữa, việc áp dụng CNTT, dịch vụ điện
tử hay hệ thống dựa trên Internet mới cũng phụ
thuộc vào trải nghiệm của người dùng với công
nghệ hay hệ thống. Các nghiên cứu trước đây
đã chứng minh rằng kinh nghiệm sử dụngcông
nghệ có tác động tích cực đến việc áp dụng
điện toán đám mây [27], mạng xã hội trong
kinh doanh [10]. Một số nghiên cứu đã xem xét
tác động gián tiếp của kinh nghiệm sử dụng
công nghệ đối với quyết định áp dụng hệ thống
dựa trên công nghệ thông qua các biến trung
gian là nhận thức tính hữu dụng và nhận thức
tính dễ sử dụng. Những người có kinh nghiệm
trước đây về thương mại điện tử thường linh
hoạt hơn và có thể đơn giản hóa sự phức tạp
của nó để cải thiện nhận thức về tính hữu dụng
[32-34].
● Bối cảnh môi trường
Bối cảnh môi trường đại diện cho bối cảnh
mà công ty tiến hành kinh doanh và chịu ảnh
hưởng của ngành nghề kinh doanh, đối thủ cạnh
tranh, khả năng của công ty trong việc truy cập
các nguồn tài nguyên do chính phủ và cá nhân
bên ngoài cung cấp [35]. Nó bao gồm áp lực từ
các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và xã hội
[10]. Các nghiên cứu khác đã chứng minh rằng
khi bối cảnh môi trường thuận lợi, các công ty
có nhiều khả năng chấp nhận thương mại điện
tử [36], mạng xã hội [37].
● Nhận thức hữu ích, Nhận thức dễ sử dụng
Nhận thức hữu ích (PU) và Nhận thức dễ sử
dụng (PEOU) là hai thành phần chính của TAM
xác định ý định và việc áp dụng thực tế của một
ứng dụng dựa trên công nghệ nhất định. Nhận
thức hữu ích (PU) xác định xác suất chủ quan
của người dùng tiềm năng rằng việc sử dụng
một ứng dụng cụ thể sẽ cải thiện các hoạt động
[13]. Nó cung cấp các cách thức để chẩn đoán
việc ý định sử dụng và việc sử dụng thực tế.
Trong khi đó, nhận thức dễ sử dụng (PEOU) đo
lường đánh giá của người sử dụng tiềm năng về
những nỗ lực cần thiết khi áp dụng một ứng
dụng dựa trên công nghệ. PEOU là một cấu trúc
riêng biệt nhưng có liên quan đến PU; nó tác
động đến tính hữu ích trong thời gian ngắn vì
sự cải thiện của nó đóng góp tích cực vào kết
quả và xác định PU. Kết quả thực nghiệm xác
nhận mối quan hệ tích cực giữa tính dễ sử dụng
và thái độ đối với việc sử dụng và cho thấy
PEOU là yếu tố quyết định chính được chứng
minh về ý định của người dùng trong việc áp
dụng CNTT [38], thương mại điện tử và thương
mại xã hội [18], mạng xã hội [10].
Trong nghiên cứu này, PEOU dự kiến sẽ
ảnh hưởng tích cực đến PU và hai yếu tố cũng
được cho là có ảnh hưởng tích cực đến việc áp
dụng mạng xã hội như một nền tảng kinh doanh
của các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình.
4. Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và các mô
hình liên quan đến hành vi chấp nhận công
nghệ mới của doanh nghiệp và người tiêu dùng,
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
94
bài viết đề xuất được khung phân tích các yếu
tố ảnh hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào
kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam. Trong khung
phân tích đề xuất, bài viết đóng góp vào việc
xây dựng 4 nhóm thang đo các yếu tố ảnh
hưởng đến ứng dụng mạng xã hội vào bán lẻ,
bao gồm: bối cảnh công nghệ, bối cảnh cá nhân,
bối cảnh môi trường, nhận thức người sử dụng.
Đây là đóng góp quan trọng trong bối cảnh
mạng xã hội phát triển không ngừng và tác
động ngày càng mạnh mẽ đến hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam. Do đó, việc nhận thức và
hiểu rõ các yếu tố tác động, từ đó đề xuất được
các giải pháp phát triển và quản lý kinh doanh
qua mạng xã hội là rất cấp thiết ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
[1] A.A. Heyam, “The influence of social networks
on students’ academic performance”, Journal of
Emerging Trends in Computing and information
Sciences 5(3) (2014) 200 - 205.
[2] Vietnam E-commerce Association, The Vietnam
E-Business Index 2019, Hanoi, 2019.
[3] Vietnam E-commerce Association, The Vietnam
E-Business Index 2018, Hanoi, 2018.
[4] A.M. Kaplan, M. Haenlein, “Users of the world,
unite! The challenges and opportunities of social
media”, Business Horizons 53(1) (2010) 59-68.
[5] E. Dearborn, My official definition of social media,
Effect of Social Media on Academic Performance of
Students in Ghanaian University: A case study of
University of Ghana, Legon, 2018.
[6] Qandme.net.
https://qandme.net/en/report/vietnam-social-
network-popularity-2018.html/, 2010 (accessed 10
November 2019).
[7] A. Enders, T. Jelassi, “The converging business
models of Internet and bricks-and-mortar
retailers”, European Management Journal 18
(2000) 542-550.
[8] G.C. Kane, M. Alavi, G. Labianca, S.P. Borgatti,
“What's different about social media networks? A
framework and research agenda”, MIS quarterly,
38(1) (2014) 275-304.
[9] X. Chen, K. Madhavan, M. Vorvoreanu, “A Web-
Based Tool for Collaborative Social Media Data
Analysis”, IEEE Third International Conference
on Cloud and Green Computing, 2013,
pp. 383-388.
[10] S. Tripopsakul, “Social media adoption as a
business platform: An integrated tam-Toe
framework”, Polish Journal of Environmental
Studies 18 (2018) 350-362.
[11] S. Aral, C. Dellarocas, D. Godes, “Introduction to
the Special Issue-Social Media and Business
Transformation: A Framework for Research”,
Information System Research 24(1) (2013) 3-13.
https://doi.org/10.1287/isre.1120.0470.
[12] Schiffman, Kanuk, Consumer behavior, Prentice-
Hall international Editions, 3rd ed, 1987.
[13] F.D. Davis, “Perceived usefulness, perceived ease
of use and user acceptance of information
technology”, MIS Quarterly, 13(2) (1989)
319-340.
[14] A.L. Lederer, D.J. Maupin, M.P. Sena, Y.L.
Zhuang, “The technology acceptance model and
the World Wide Web: Decision Support System
29 (2000) 269-282
[15] S.S. Alam, “Adoption of internet in Malaysian
SMEs”, Journal of Small Business and Enterprise
Development 16(2) (2009) 240-255.
[16] S. Alam, M. Noor, “ICT adoption in small and
medium enterprises: An empirical evidence of
service sectors in Malaysia”, International Journal
of Business and Management 4(2) (2009)
112-125.
[17] K. Yang, “Exploring factors affecting the
adoption of mobile commerce in
Singapore”, Telematics and Informatics 22(3)
(2005) 257-277.
[18] S.S. Alam, M.Y. Ali, M.F.M. Jani, “An empirical
study of factors affecting electronic commerce
adoption among smes in Malaysia”, Journal of
Business Economics and Management 12 (2011)
375-399.
[19] J. Lee, J. Runge, S. Baek, S. Shek, “Adoption of
Internet technologies in small businesses”, PACIS
2001 Proc, 2001.
[20] L.G. Tornatzky, M. Fleischer, A.K. Chakrabarti,
“The processes of technological innovation.
Issues in organization and management series”,
Lexington Books 1990.
Processes-Technol, Innov-Organ/, 1990 (accessed
10 June 2013.
[21] S.K. Lippert, C. Govindarajulu, Technological,
Organizational and Environmental Antecedents to
Web Services Adoption, 2006.
[22] A. Jeyaraj, J.W. Rottman, C. Mary, “A review of
the predictors, linkages, and biases in IT
innovation adoption research”, Journal of
Information Technology 21(1) (2006) 1-23.
https://doi.org/ 10.1057/palgrave.jit.2000056.
D.T. Huong et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 86-95
95
[23] S. Bruque, J. Moyano, “Organisational
determinants of information technology adoption
and implementation in SMEs: The case of family
and cooperative firms”, Technovation 27 (2007)
241-253.
[24] M. Tarafdar, S.D. Vaidya, “Challenges in the
adoption of E-Commerce technologies in India:
The role of organizational factors”, International
Journal of Information Management 26 (2006)
428-441.
[25] A. Fityan, F. Huseynov, “Factors Affecting the
Adoption of Social Media as a Marketing Tool:
A Case Study of Turkish Small and Medium ‑
Sized Enterprises”, Operating in Textile
Manufacturing Sector, Önetim Ekon, Ve
Pazarlama Araştırmaları Derg, 2018.
[26] M. Ghobakhloo, S. Hong Tang, “The role of
owner/manager in adoption of electronic
commerce in small businesses: The case of
developing countries”, Journal of Small Business
Enterprise 20 (2013) 754-787.
[27] Y. Alshamaila, S. Papagiannidis, F. Li, “Cloud
computing adoption by SMEs in the north east of
England: A multi-perspective framework”,
Journal of Enterprise Information Management
26(3) (2013) 250-275.
[28] A. Bandura, “Self-efficacy mechanism in human
agency”, American Psychologist 37(2) (1982)
122-147. https://doi.org/10.1037/0003-
066X.37.2.122.
[29] T. Hill, N.D. Smith, M.F. Mann, “Communicating
innovations: Convincing computer phobics to
adopt innovative technologies”, Advances in
consumer research, Association for Consumer
Research, North America, 1985.
[30] A. Marcati, G. Guido, A.M. Peluso, “The role of
SME entrepreneurs’ innovativeness and
personality in the adoption of innovations”,
Research Policy 37(9) (2008) 1579-1590.
https://doi.org/10.1016/j.respol.2008.06.004.
[31] J.Y. Thong, C.S. Yap, “CEO characteristics,
organizational characteristics and information
technology adoption in small businesses”, Omega
23 (1995) 429-442.
[32] S. Agarwal, J. Prasad, “Are individual differences
germane to the acceptance of new information
technologies?” Decision Sciences 30(2) (1999)
361-391.
[33] P. Chau, “An empirical assessment of a modified
technology acceptance model”, Journal of
Management Information Systems 13(2) (1996)
185-204.
[34] H.O. Awa, O. Ukoha, B.C. Emecheta,
“Integrating TAM and TOE frameoworks and
expanding their characteristic constructs for
E-commerce adoption by SMEs”, Proceedings of
Informing Science & IT Education Conference
(InSITE), 2012.
[35] S.K. Lippert, C. Govindarajulu, “Technological,
Organizational and Environmental Antecedents to
Web Services Adoption, Research Gate 6(1)
(2006) 146-157.
[36] S.S. Alam, A.A. Khatibi, H.B. Ismail, I. Ahmad,
“Perceived Benefits of E-Commerce Adoption in
the Electronic Manufacturing Companies in
Malaysia”, Journal Social Sciences 1(3) (2005)
188-193.
[37] Andzulis, J. Mick, N.G. Panagopoulos, A. Rapp,
“A Review of Social Media and Implications for
the Sales Process”, Journal of Personal Selling
and Sales Management 32(3) (2012) 305-316.
https://doi.org/10.2753/PSS0885-3134320302.
[38] V. Venkatesh, F.D. Davis, “A Theoretical
Extension of the Technology Acceptance Model:
Four Longitudinal Field Studies”, Management
Science 46 (2000) 186-204.
P
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_hop_mo_hinh_tam_va_toe_vao_nghien_cuu_chap_nhan_mang_xa.pdf