Phân loại theo Cognard thì loại dò hay gặp của chúng
tôi là type II gồm IIa, IIb và kết hợp IIa + IIb lần lượt với tần
suất 25%, 15.4% và 50%. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu Jae Sang Oh và cộng sự phân theo Cognard thì type
IIa + IIb hay gặp nhất với 39%, type IIa với 15% [5]. Nghiên
cứu Cognard C thì tần suất xuất huyết của type II là 10%,
type III là 40%, type IV là 65%, TM dẫn lưu gặp tần suất
cao nhất là TM mắt trên khi vị trí là dò xoang hang, phù hợp
với nghiên cứu chúng tôi vì tần suất gặp vị trí xoang hang
của chúng tôi cao nhất, phân loại giúp xác định nguy cơ
mỗi loại dò và quyết định ưu tiên thứ tự tắc theo đó là ưu
tiên tắc TM vỏ não có trào ngược, tiếp đến là các vị trí nguy
hiểm như lều não, tiếp đến tắc dẫn lưu TM mắt trên và cuối
cùng là tắc vị trí xoang dò [1], [4]. Julius Griauzde, khẳng
định có mối tương quan chặt chẽ giữa lâm sàng, nguy cơ
xuất huyết với phân loại Cognard.
Tiếp cận tắc lỗ dò bằng đường TM thành công
trong 76.9% (30/39) chủ yếu qua TM xo ang đá dưới
với 73.1%, xoang đá trên là 7.6%, kế tiếp là đường TM
mặt với 1.9%, đường trực tiếp bộc lộ TM 1.9% và 2
trường hợp thất bại do không tiếp cận được vị trí dò
6.7%. Với đường ĐM thành công trong 4/6 (66.7%)
thất bại 16.7% (2/6). Tiếp cận đường động mạch và
tĩnh mạch, thành công 6/7 ca(85.7%). Cognard C và
cộng sự báo cáo tiếp cận đường TM phải là lựa chọn
đầu tiên để điều trị DĐTMMCN vì khả năng tắc hoàn
toàn cao. Cùng với những quan điểm trên nghiên cứu
Cheng KM kết luận đường TM là một lựa chọn hiệu
quả trong điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng với
đường xoang đá dưới 64%, TM mắt trên 3,7%, TM thái
dương nông 3,7%, xoang liên hang 22,2% [2].
Cải thiện lâm sàng về triệu chứng của mắt và ù
tai, ghi nhận 1 tháng theo theo dõi sau can thiệp không
thấy tái xuất huyết, chất lượng sống cải thiện. Hiện nay
có nhiều trường phái điều trị dò động tĩnh mạch màng
cứng não, xu hướng mới cho thấy chỉ tắc dẫn lưu bất
thường về tĩnh mạch vỏ não và TM mắt, chứ không tắc
toàn bộ xoang như các nghiên cứu trước đó. Cần thêm
những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sâu để đánh
giá được hiệu quả điều trị.
Với biến chứng, ghi nhận có xuất huyết não não
5.7% (3/52) do không tắc được các trào ngược TM vỏ
não, dẫn đến xuất huyết do vỡ TM dẫn lưu, dẫn đến
1 trường hợp tử vong 1.9% và 2 trường hợp có tổn
thương khuyết tật thần kinh nhẹ 3.8%, đau đầu nôn
mửa sau thuyên tắc 7.8% (4/52). không có trường hợp
nào tử vong. Julius Griauzde, tỉ lệ thành công khi tắc
dò động tĩnh mạch là 94%, biến chứng thần kinh 3%
(1/34), [6], [7], [8].
Các vật liệu thuyên tắc được chúng tôi sử dụng
can thiệp đường tĩnh mạch là vòng xoắn kim loại (Coil)
hệ coil lớn (Coil 18 và 20) với ưu điểm tắc nhanh, thời
gian đổ đầy coil nhanh, giảm chi phí điều trị, với can thiệp
đường ĐM đơn thuần chúng tôi dùng là keo n-BCA,
Onyx. Nhiều nghiên cứu khác với cách tiếp cận đường
TM, thì vòng xoắn kim loại được xem có hiệu quả tốt
nhất cho tắc dò, với đường động mạch tắc Onyx thành
công lên đến 62,5-80%, trong khi n-BCA là 50-67%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu can thiệp nội mạch điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng não tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CAN THIỆP
NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ DÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH
MÀNG CỨNG NÃO
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Initial results of endovascular embolization for
treatment of intracranial dural arteriovenous fistulas at
Cho Ray Hospital
Lê Văn Phước*, Nguyễn Huỳnh Nhật Tuấn*, Lê Văn Khoa*
* Bệnh viện Chợ Rẫy
Objectives: Brain dural arteriovenous fistulas are connections of
the branches of dural arteries to dural veins or a venous sinus at brain.
Annually, the risk of cerebral hemorrhagic stroke is 10.5%, increasing
the risk of intracranial hemorrhage due to retrograde cortical venous
drainage. Currently, treatment options include surgery, gamma knife,
and endovascular intervention, but most clinicians consider endovascular
treatment to be the method of first choice. The purpose of this study
was to assess the efficacy and safety of endovascular intervention for
the treatment of brain dural arteriovenous fistula. Subjets and methods:
All the patients treated by endovascular intervention for the treatment
of brain dural arteriovenous fistula at Cho Ray hospital from June 2015
to January 2017. The techniques for treatment include transarterial and/
or transvenous approach, microcatheter was inserted and reached the
fistula point, embolization was performed with material agent such
as: coils, n-BCA, PVA ... The efficacy and safety were evaluated by
variants: complete, partial embolization, procedural success rate, clinical
improvement, procedural complications.
Results: 52 patients treated by endovascular intervention. The
technical success rates with complete obliteration by transvenous
approach are 76.9% (30/39) patients, technical success rates with
complete obliteration by transarterial approach are 66.7% (4/6) patients,
complete obliteration by combined transarterial and transvenous approach
6/7 (85.7%) patients, mortality rate 1/52 (1.9%), hemorrhagic stroke 3/52
(5.7%), vomiting and headache 4/52 (7.8%).
Conclusions: Endovascular intervention of brain dural
arteriovenous fistulas is a safe and effective procedure.
Key words: Brain dural arteriovenous fistulas, Cognard
classification, endovascular intervention, embolization.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201874
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dò động tĩnh mạch màng cứng não (DĐTMMCN)
là sự dò từ động mạch màng cứng vào tĩnh mạch não và
hoặc xoang tĩnh mạch màng cứng não, chiếm 10-15%
dị dạng động tĩnh mạch não. Lâm sàng phụ thuộc vào
vị trí dò, thường gặp là đỏ mắt, lồi mắt, ù tai, đau đầu,
nhìn đôi, hay các triệu chứng do biến chứng xuất huyết
não. Vị trí dò hay gặp là xoang hang, xoang ngang,
xoang sigma [3], [4]. Chẩn đoán DĐTMMCN dựa trên
chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ, tuy nhiên chụp
mạch máu số hóa xóa nền (DSA) là tiêu chuẩn vàng
trong chẩn đoán bệnh. Theo Cognard thì DĐTMMCN
với sự trào ngược vào tĩnh mạch vỏ não có nguy cơ
xuất huyết hàng năm lên đến 16%, nguy cơ xuất huyết
cao 40% đối với type III và lên đến 65% với type IV,
đặc biệt tỉ lệ tái phát xuất huyết cao nhất 35% trong hai
tuần đầu tiên sau xuất huyết lần đầu [3], [4]. Hiện nay
có 3 phương pháp điều trị là can thiệp nội mạch, phẫu
thuật và xạ phẫu, trong đó can thiệp nội mạch được lựa
chọn đầu tiên, với tỉ lệ thành công theo một số báo cáo
trên thế giới từ 80% - 90% và tỉ lệ tai biến nặng khoảng
2% - 6% [5], [9].
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục
đích đánh giá hiệu quả và tính an toàn của can thiệp nội
mạch trong điều trị bệnh nhân DĐTMMCN.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, can thiệp,
không đối chứng. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Kết hợp đặc
điểm lâm sàng, vị trí dò và phân loại Cognard từ type IIb
trở lên hoặc type IIa nếu kèm theo ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống, được thực hiện can thiệp nội mạch
tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, bệnh viện Chợ Rẫy từ
6/2015 đến 01/2017. Phương pháp thu thập số liệu:
Các đặc điểm cá nhân, lâm sàng, phân loại Cognard,
vị trí dò, thành công kỹ thuật, mức độ tắc, biến chứng.
Thực hiện trên máy DSA Artis Zee hãng Siemens, Bệnh
viện Chợ Rẫy.
Hình 1. Minh họa phân loại dò động tĩnh mạch màng cứng theo Cognard và Borden[3]
Kỹ thuật thực hiện: BN được chụp DSA chẩn đoán
và phân loại.
Can thiệp tắc lỗ dò tiếp cận đường tĩnh mạch: Đặt
sheath 7F vào TM đùi, guiding catheter 7F cùng với
catheter 5F vào TM cảnh trong, tiếp cận vào vị trí dò
xoang, ưu tiên theo thứ tự tắc đó là tắc dẫn lưu TM sâu,
tắc dội ngược vào các TM vỏ não, tắc TM mắt và sau
cùng tắc xoang TM, vị trí mà động mạch màng cứng dò
vào bằng vòng xoắn kim loại (Coils).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Can thiệp tắc lỗ dò tiếp cận đường động mạch:
Đặt sheath 6F vào ĐM đùi, guiding catheter 6F vào ĐM
cảnh, đưa vi ống thông vào nhánh động mạch tiệm cận
vị trí xoang màng cứng có lỗ dò. Chụp qua vi ống thông
để khẳng định đúng vị trí và lưu lượng dò. Tiến hành
bơm tắc bằng Onyx và hoặc n-BCA. Chụp kiểm tra qua
đường động mạch. Rút toàn bộ ống thông ra ngoài, rút
sheath và băng ép bẹn 24 giờ [2], [4].
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm mẫu: Với 52 bệnh nhân được chọn,
tuổi trung bình 56,4 ± 16,8. Tỉ lệ nữ/nam: 3,5/1. Triệu
chứng lâm sàng trước can thiệp: Đỏ và lồi mắt là 84.6%,
âm thổi ở mắt, ù tai 32.7%, liệt vận nhãn 13.5%, nhìn
đôi giảm thị lực 36.9%, xuất huyết não 25.7%.
2. Vị trí dò và phân loại dò: Có 13/52 ca dò bên
phải và 16/52 dò bên trái và 23/52 dò hai bên, hay gặp
nhất là vị trí xoang hang 41/52(78.8%) ca, xoang ngang
và xích ma 6/52(11.5%) ca, vị trí khác 5/52 (9.6%) ca,
được chúng tôi phân loại theo bảng sau:
Bảng 1: Đặc điểm phân loại bệnh theo Cognard
Phân loại Cognard n Tỷ lệ (%)
Type I 0 0
Type
IIa 13 25
IIb 8 15.4
IIa+IIb 26 50
Type III 3 5.8
Type IV 2 3.8
3. Điều trị can thiệp nội mạch:
Bảng 2. Đặc điểm can thiệp nội mạch
Đường tiếp cận Vật liệu tắc n
Tỷ lệ
(%)
Tắc hoàn toàn
n (%)
Tắc không
hoàn toàn
n(%)
Thất bại
n/(%)
Đường tĩnh mạch
Coil
39 75 30(76.9) 7(23.3) 2(6.7)
Đường động mạch
n-BCA
6 11.5 4(66.7) 1(16.7) 1(16.7)
Kết hợp đường
ĐM+TM
Coil, n-BCA,
Onyx
7
13.5 6(85.7) 1(14.3) 0(0)
- Thành công kỹ thuật với tắc được lỗ dò hoàn
toàn là 76.9% (30/39) bằng đường TM., thành 4/6
(66.7%) đường động mạch, kết hợp đường động mạch
và TM với tỉ lệ thành công 6/7 (85.7%), thất bại không
tắc được lỗ dò là 5.8% (3/52), tỉ lệ chung tắc được lỗ dò
là 94.2%. Trong tiếp cận lỗ dò bằng đường TM, thường
qua TM xoang đá dưới để vào xoang tĩnh mạch chiếm
ưu thế với 73.1%, xoang đá trên là 7.6%, kế tiếp là
đường TM mặt với 1.9%, đường trực tiếp bộc lộ TM
mắt 1.9% và 2 trường hợp thất bại do không tiếp cận
được vị trí dò 6.7%.
- Biến chứng: xuất huyết não 5.7% (3/52) dẫn đến
1 trường hợp tử vong 1.9% và 2 trường hợp có tổn
thương khuyết tật thần kinh nhẹ 3.8%, đau đầu nôn
mửa 7.8% (4/52).
- Vật liệu thuyên tắc: Với can thiệp đường tĩnh
mạch là vòng xoắn kim loại (Coil) hệ coil lớn: coil 18
(GDC, Microvention coil) và coil 20 (Penumbra Coil),
với đường động mạch là n-BCA, Onyx.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu chúng tôi gặp nhiều ở người
lớn tuổi, tuổi trung bình là bình 56,4 ± 16,8, tỉ lệ nữ/nam:
3.5/1. Theo nghiên cứu Jae Sang Oh tuổi trung bình là
62 tuổi, trong đó nữ giới hay gặp, nếu so với nam là 2/1,
theo Cognard, tuổi trung bình trong bệnh lý này hay gặp
là 62,4 tuổi [4], [5].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201876
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Về đặc điểm lâm sàng: Đỏ và lồi mắt là 84.6%
(44/52), âm thổi ở mắt, ù tai 32.7% (17/52), liệt vận
nhãn 13.5% (7/52), nhìn đôi giảm thị lực 36.9% (19/52),
xuất huyết 25.7%(13.4), có 13/52 ca dò bên phải và
16/52 dò bên trái và 23/52 dò hai bên, hay gặp nhất là
vị trí xoang hang 41/52 ca(78.8%) ca.
Phân loại theo Cognard thì loại dò hay gặp của chúng
tôi là type II gồm IIa, IIb và kết hợp IIa + IIb lần lượt với tần
suất 25%, 15.4% và 50%. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu Jae Sang Oh và cộng sự phân theo Cognard thì type
IIa + IIb hay gặp nhất với 39%, type IIa với 15% [5]. Nghiên
cứu Cognard C thì tần suất xuất huyết của type II là 10%,
type III là 40%, type IV là 65%, TM dẫn lưu gặp tần suất
cao nhất là TM mắt trên khi vị trí là dò xoang hang, phù hợp
với nghiên cứu chúng tôi vì tần suất gặp vị trí xoang hang
của chúng tôi cao nhất, phân loại giúp xác định nguy cơ
mỗi loại dò và quyết định ưu tiên thứ tự tắc theo đó là ưu
tiên tắc TM vỏ não có trào ngược, tiếp đến là các vị trí nguy
hiểm như lều não, tiếp đến tắc dẫn lưu TM mắt trên và cuối
cùng là tắc vị trí xoang dò [1], [4]. Julius Griauzde, khẳng
định có mối tương quan chặt chẽ giữa lâm sàng, nguy cơ
xuất huyết với phân loại Cognard.
Tiếp cận tắc lỗ dò bằng đường TM thành công
trong 76.9% (30/39) chủ yếu qua TM xo ang đá dưới
với 73.1%, xoang đá trên là 7.6%, kế tiếp là đường TM
mặt với 1.9%, đường trực tiếp bộc lộ TM 1.9% và 2
trường hợp thất bại do không tiếp cận được vị trí dò
6.7%. Với đường ĐM thành công trong 4/6 (66.7%)
thất bại 16.7% (2/6). Tiếp cận đường động mạch và
tĩnh mạch, thành công 6/7 ca(85.7%). Cognard C và
cộng sự báo cáo tiếp cận đường TM phải là lựa chọn
đầu tiên để điều trị DĐTMMCN vì khả năng tắc hoàn
toàn cao. Cùng với những quan điểm trên nghiên cứu
Cheng KM kết luận đường TM là một lựa chọn hiệu
quả trong điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng với
đường xoang đá dưới 64%, TM mắt trên 3,7%, TM thái
dương nông 3,7%, xoang liên hang 22,2% [2].
Cải thiện lâm sàng về triệu chứng của mắt và ù
tai, ghi nhận 1 tháng theo theo dõi sau can thiệp không
thấy tái xuất huyết, chất lượng sống cải thiện. Hiện nay
có nhiều trường phái điều trị dò động tĩnh mạch màng
cứng não, xu hướng mới cho thấy chỉ tắc dẫn lưu bất
thường về tĩnh mạch vỏ não và TM mắt, chứ không tắc
toàn bộ xoang như các nghiên cứu trước đó. Cần thêm
những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sâu để đánh
giá được hiệu quả điều trị.
Với biến chứng, ghi nhận có xuất huyết não não
5.7% (3/52) do không tắc được các trào ngược TM vỏ
não, dẫn đến xuất huyết do vỡ TM dẫn lưu, dẫn đến
1 trường hợp tử vong 1.9% và 2 trường hợp có tổn
thương khuyết tật thần kinh nhẹ 3.8%, đau đầu nôn
mửa sau thuyên tắc 7.8% (4/52). không có trường hợp
nào tử vong. Julius Griauzde, tỉ lệ thành công khi tắc
dò động tĩnh mạch là 94%, biến chứng thần kinh 3%
(1/34), [6], [7], [8].
Các vật liệu thuyên tắc được chúng tôi sử dụng
can thiệp đường tĩnh mạch là vòng xoắn kim loại (Coil)
hệ coil lớn (Coil 18 và 20) với ưu điểm tắc nhanh, thời
gian đổ đầy coil nhanh, giảm chi phí điều trị, với can thiệp
đường ĐM đơn thuần chúng tôi dùng là keo n-BCA,
Onyx. Nhiều nghiên cứu khác với cách tiếp cận đường
TM, thì vòng xoắn kim loại được xem có hiệu quả tốt
nhất cho tắc dò, với đường động mạch tắc Onyx thành
công lên đến 62,5-80%, trong khi n-BCA là 50-67%.
MINH HỌA TRƯỜNG HỢP
Hình 2. BN Phùng Thị X. nữ, 69 tuổi. DĐTMMCN, Cognard type IIa, tiếp cận đường TM, hình DSA trước và sau điều
trị (Nguồn: Bệnh viện Chợ Rẫy).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 77
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3. BN Phạm Thị Q. nữ, 62 tuổi. DĐTMMCN, Cognard type IIa + IIb, dội ngược TM màng não giữa và TM sâu
(mũi tên xanh), tiếp cận đường TM, hình DSA trước và sau tắc (Nguồn: Bệnh viện Chợ Rẫy).
Hình 4. BN Trần Thị M. nữ, 57 tuổi. DĐTMMCN, Cognard type IIa + IIb, dội ngược TM màng não giữa (mũi tên đỏ),
tiếp cận đường TM mặt (mũi tên xanh), vị trí vi ống thông trong xoang hang (mũi tên đen) (Nguồn: Bệnh viện Chợ Rẫy).
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 52 trường hợp can thiệp nội mạch điều trị dò động tĩnh mạch màng cứng não chúng tôi thấy rằng
đây là một phương pháp điều trị với hiệu quả tốt, thành công kỹ thuật cao, tỉ lệ tai biến và biến chứng thủ thuật thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Borden Jonathan A (1995). A proposed classification for spinal and cranial dural arteriovenous fistulous
malformations and implications for treatment. Journal of Neurosurgery. 82 (2).
2. Cheng KM, Chan ML, Cheung YL, et al (2003). Transvenous embolisation of dural carotid-cavernous fistulas
by multiple venous routes: a series of 27 cases. Neurochirurgica. 145 (1).
3. Cognard C, Gobin P, Pierol L et al (2010). Cerebral dural arteriovenous fistulas: clinical and angiographic
correlation with a revised classification of venous drainage. Journal of Neurosurgery, 58, 62-68.
4. Cognard C, Januel A C, et al (2010). Endovascular Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas with
Cortical Venous Drainage: New Management Using Onyx. Neuroradiol.
5. Jae Sang Oh, Seok Mann, Hyok Jin Oh, et al (2016). Endovascular Treatment of Dural Arteriovenous Fistulas:
Single Center Experience. Neurosurg, 59, 17-25.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201878
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
6. Julius Griauzde, Joseph J Gemmete, Aditya S Pandey, Neeraj Chaudhary (2016). Dural carotid cavernous
fistulas: endovascular treatment and assessment of the correlation between clinical symptoms and the Cognard
classification system. J NeuroIntervent, 10.
7. Panagiotis Zogopoulos, Hajime Nakamura, Tomohiko Ozaki, et al (2015). Endovascular Treatment of
Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas -Clinical and Radiographic Outcome Over A Long-Term Follow-Up. J
Neurol Neurosurg.1(1).
8. Saraf R, Shrivastara M, Siddhathar W, et al (2010). Endovascular Treatment of Dural Arteriovenous Fistulas:
Single Center Experience. Neuro India, 58, 62-68.
9. Venturi C, Bracco S, Cerase A, et al (2003). Endovascular treatment of a cavernous sinus dural arteriovenous
fistula by transvenous embolisation through the superior ophthalmic vein via cannulation of a frontal vein.
Neuroradiology. 45 (8).
TÓM TẮT
Mục tiêu: Dò động tĩnh mạch màng cứng não (DĐTMMCN) là dò từ động mạch vào tĩnh mạch màng cứng và hoặc xoang
tĩnh mạch màng cứng tại não. Nguy cơ đột quỵ xuất huyết não hàng năm lên đến 10,5% khi có dội ngược vào tĩnh mạch vỏ não
[3], [4]. Hiện can thiệp nội mạch được xem là lựa chọn hàng đầu trong điều trị [3]. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm
đánh giá hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật can thiệp nội mạch trong điều trị DĐTMMCN.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được can thiệp nội mạch dò động tĩnh mạch màng cứng não tại bệnh viện Chợ
Rẫy từ tháng 06/2015 đến tháng 01/2017, với kỹ thuật thực hiện: tiếp cận ống thông qua đường tĩnh mạch và/hoặc đường động
mạch, nút mạch chọn lọc với nhiều loại vật liệu nút mạch: coils, n-BCA, PVA, ... Hiệu quả và độ an toàn được đánh giá dựa vào
các biến: nút hoàn toàn, nút bán phần, tỉ lệ thành công thủ thuật, cải thiện lâm sàng, biến chứng thủ thuật.
Kết quả: Có 52 bệnh nhân được can thiệp nội mạch điều trị DĐTMMCN. Thành công kỹ thuật với nút hoàn toàn lỗ dò
bằng đường tĩnh mạch (TM) là 30/39 (76,9%) trường hợp, bằng đường động mạch (ĐM) là 4/6 (66,7%) trường hợp, kết hợp
đường ĐM và TM 6/7 (85,7%) trường hợp, tử vong 1/52 (1,9%), xuất huyết não 3/52 (5,7%), đau đầu nôn mửa 4/52 (7,8%).
Kết luận: Điều trị DĐTMMCN bằng kỹ thuật can thiệp nội mạch là kỹ thuật an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Dò động tĩnh mạch màng cứng não, phân loại Cognard, can thiệp nội mạch, nút mạch.
Người liên hệ: Lê Văn Phước, khoa CĐHA bệnh viện Chợ Rẫy, email: phuocbvcr@yahoo.com
Ngày nhận bài 15.6.2018. Ngày chấp nhận đăng: 20.7.2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_buoc_dau_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_do_dong_tinh_ma.pdf