Một số ý kiến cho rằng phẫu trường với tư
thế nằm sấp khó quan sát hơn nghiêng trái do
đảo ngược mốc giải phẫu. Tuy nhiên, với kinh
nghiệm cắt thực quản qua mở ngực kinh điển và
112 trường hợp nội soi ngực tư thế nghiêng trái,
chúng tôi không gặp khó khăn gì đáng kể khi
xác định các mốc giải phẫu và thực hiện kỹ thuật
phẫu tích thực quản và vét hạch.
Trong mổ, chúng tôi không gặp tai biến nào
phải chuyển mổ mở như chảy máu hay tổn
thương tạng như đã được thông báo trong y
văn(6).
Biến chứng sau mổ trong nhóm bệnh nhân
của chúng tôi gồm 2 trường hợp viêm phổi sau
mổ, điều trị nội khoa khỏi lần lượt sau 7 và 11
ngày. Hai trường hợp khàn tiếng sau mổ giảm
dần. Một trường hợp xì miệng nối thực quản dạ
dày ở cổ, ngày thứ 6 sau mổ, điều trị nội khoa
khỏi mà không phải can thiệp lại. Một trường
hợp hẹp miệng nối thực quản ống dạ dày sau
mổ hơn 2 tháng, được điều trị bằng nội soi nong
hẹp, sau nong bệnh nhân ăn uống tốt, hết nghẹn.
Một trường hợp rò dưỡng chấp khoang màng
phổi phải, mở ngực khâu thắt ống ngực sau mổ 2
tuần, sau đó bệnh nhân ổn định, hết rò.
Kết quả điều trị phẫu thuật của chúng tôi
ban đầu có thể chấp nhận được so với những
nghiên cứu đã được thông báo trong y văn
(bảng 2).
Một số nghiên cứu so sánh cắt thực quản nội
soi với 2 tư thế nghiêng và sấp cho thấy không
có sự khác biệt về lượng máu mất trong mổ, số
hạch nạo được và tỷ lệ biến chứng, ngoại trừ thời
gian mổ của nhóm nằm sấp là ngắn hơn có ý
nghĩa thống kê(5). Bước đầu chúng tôi chưa ghi
nhận có sự khác biệt về thời gian mổ cũng như
tỷ lệ biến chứng, tử vong của tư thế nằm sấp so
với nghiêng. Đặc biệt cần đánh giá kết quả lâu
dài của phương pháp về mặt ung thư học với
nhóm bệnh nghiên cứu đủ lớn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 63 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp điều trị ung thư thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 277
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CẮT THỰC QUẢN NỘI SOI NGỰC PHẢI
TƯ THẾ NẰM SẤP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN
Lâm Việt Trung*, Đoàn Ngọc Giao*, Trần Phùng Dũng Tiến*, Trần Vũ Đức*, Đỗ Trọng Khanh*,
Nguyễn Huy Giang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhận xét bước đầu tính khả thi và hiệu quả cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp điều
trị ung thư thực quản tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp: Từ 05.2011 đến 01.2012, tại khoa ngoại Tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy, 21 bệnh nhân nam ung
thư thực quản được cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp, tuổi trung bình 55,4. Các thông số được
đánh giá gồm: thời gian mổ, lượng máu mất, biến chứng, thời gian nằm viện sau mổ.
Kết quả: 13 trường hợp u nằm ở 1/3 giữa (61,9%), 8 u ở 1/3 dưới (38,1%). Mô bệnh học: 100% trường hợp
là ung thư tế bào gai. T2: 2 (9,5%), T3: 19 (90,5%). N0: 9 (42,9%), N1: 12 (57,1%). Giai đoạn IIa: 9 (42,9%), III:
12 (57,1%). Thời gian mổ trung bình 315,7 phút. Không có trường hợp nào tử vong. Biến chứng 5 trường hợp: 2
trường hợp viêm phổi sau mổ, 1 trường hợp rò miệng nối thực quản dạ dày ở cổ được điều trị bảo tồn, 1 trường
hợp hẹp miệng nối điều trị bằng nong và một trường hợp rò dưỡng chấp. Số ngày nằm viện trung bình 9,3 ngày.
Kết luận: Cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp là kỹ thuật an toàn, hiệu quả và có thể sử dụng
thường quy trong điều trị ung thư thực quản.
Từ khóa: cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp, điều trị ung thư thực quản
ABSTRACT
INITIAL RESULTS OF RIGHT THORACOSCOPIC ESOPHAGECTOMY IN PRONE POSITION FOR
ESOPHAGEAL CANCER
Lam Viet Trung, Doan Ngoc Giao, Tran Phung Dung Tien, Tran Vu Duc, Do Trong Khanh,
Nguyen Huy Giang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 277 - 281
Aim: To assess the initial outcomes following right thoracoscopic esophagectomy in prone position for
esophageal cancer at Cho Ray hospital.
Methods: From May 2011 to January 2012 at Cho Ray hospital, 21 men with esophageal cancer (mean age =
55.4) underwent right thoracoscopic esophagectomy in prone position were included into the study. Outcome
measures were operative time, blood loss, complications, length of hospital stay.
Results: Tumors located in the mid third in 13 cases (61.9%), lower third in 8 cases (38.1%). Histologically,
all cases were squamous cell carcinoma. There were 2 cases of T2, 19 cases of T3, N0 9 cases, N1 12 cases, stage IIa
9 cases, stage III 12 cases. There was no operative mortality. Mean operative time was 315.7 minutes.
Complications occurred in 5 cases: 2 pneumonia, 1 cervical anastomotic leak which had been managed
conservatively, 1 anastomotic stenosis required dilation and 1 chyle leak). Mean hospital stay was 9.3 days.
Conclusions: Right thoracoscopic esophagectomy in prone position appears to be a safe, effective option and
could be used routinely in management of esophageal cancer.
Keywords: right thoracoscopic esophagectomy in prone position, esophageal cancer
* Khoa Ngoại Tiêu hóa - BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lâm Việt Trung ĐT: 0913753595 Email: drlamviettrung@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 278
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, ung thư thực quản (UTTQ) vẫn là
bệnh lý có tiên lượng kém và bệnh nhân thường
đến muộn nên khả năng cắt bỏ được chưa đến 1/
3 các trường hợp. Phẫu thuật cắt bỏ thực quản là
một phương pháp can thiệp ngoại khoa nặng nề
với tỷ lệ biến chứng đáng kể và tử vong cao (6 –
7%)(7,11). Do đó, sự phát triển của kỹ thuật xâm
hại tối thiểu dường như mang đến một giải pháp
hợp lý nhằm khắc phục những nhược điểm của
phẫu thuật này. Ngoài những ưu điểm không
thể phủ nhận được của phẫu thuật xâm hại tối
thiểu như tính thẩm mỹ, hồi phục nhanh, ít đau,
giảm thiểu biến chứng thì vấn đề rất được
quan tâm đối với ung thư thực quản là khả năng
cắt bỏ triệt để tổn thương và nạo vét hạch. Bởi vì,
nhiều nghiên cứu cho thấy đây là hai yếu tố có ý
nghĩa giúp cải thiện thời gian sống thêm sau
mổ(1, 7, 11). Cắt thực quản nội soi ngực đã được
thực hiện với các tư thế bệnh nhân khác nhau,
trong đó chủ yếu với tư thế nghiêng trái
nhưng gần đây, một số tác giả đã thông báo cắt
thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp có
thể cải thiện được thời gian mổ, giảm biến chứng
hô hấp, bộc lộ tổn thương tốt hơn và cho phép
thao tác thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cho đến nay
kỹ thuật này vẫn chưa được sử dụng một cách
rộng rãi(6). Với kinh nghiệm trên 112 trường hợp
phẫu thuật cắt thực quản nội soi tư thế nghiêng
trái của chúng tôi, từ tháng 5 năm 2011 chúng tôi
bắt đầu tiến hành kỹ thuật cắt thực quản nội soi
ngực phải tư thế nằm sấp để điều trị ung thư
thực quản. Do đó, bài viết này được thực hiện
nhằm bước đầu nhận xét tính khả thi và hiệu
quả của kỹ thuật này trong phẫu thuật nội soi
điều trị ung thư thực quản.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ tháng 05 năm 2011 đến tháng 1 năm 2012,
tại khoa Ngoại Tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy, 21
bệnh nhân nam UTTQ được phẫu thuật cắt bỏ
thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp, tuổi
trung bình 55,4 (37 – 81 tuổi). Nghiên cứu mô tả,
cắt ngang.
Chẩn đoán ung thư thực quản được xác định
trên mô bệnh học trước mổ qua sinh thiết nội soi
thực quản và bệnh phẩm sau mổ.
Phân loại giai đoạn theo hệ thống phân
loại TMN của Hiệp hội ung thư Mỹ.
Chỉ định phẫu thuật cho những trường hợp
ung thư thực quản đoạn 1/ 3 giữa và dưới, T1 –
T3, không có di căn xa. Không chỉ định những
trường hợp có bệnh nội khoa phối hợp nặng
(tim, phổi, bệnh máu), có tiền căn phẫu thuật
mở ngực phải hay mở bụng trên lớn.
Kỹ thuật
Vô cảm: mê toàn thân với ống Carlène, xẹp
phổi phải.
Thì nội soi ngực phải: bệnh nhân nằm sấp,
gối kê vai và dưới chậu hông.
Vị trí và số lượng trocar: 4 trocar, trocar
10mm (camera) đặt ở khoang liên sườn 5 đường
nách giữa, ngay dưới mỏm dưới xương bả vai, 2
trocar 10 mm thao tác đặt ở khoang liên sườn 3
và 7 đường nách giữa và 1 trocar 5 mm ở khoang
liên sườn 8 đường nách sau (hình 1).
Hình 1: Tư thế bệnh nhân và vị trí trocar thì nội soi
ngực
Phẫu tích toàn bộ thực quản bắt đầu từ màng
phổi trung thất che phủ thực quản, cắt dây
chằng phổi dưới, quai tĩnh mạch đơn, nạo hạch
trung thất thành một khối, đặt 1 dẫn lưu khoang
màng phổi phải và nở phổi phải.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 279
Thì nội soi bụng: chuyển bệnh nhân nằm
ngửa, hai chân dạng, đặt lại ống nội khí quản
thường.
Vị trí và số lượng trocar: 5 trocar, 2 trocar
10mm đặt ở rốn (camera) và ngang rốn trên
đường giữa đòn phải (phẫu tích), 3 trocar
5mm đặt lần lượt ở dưới sườn phải trên
đường giữa đòn phải (cầm nắm), dưới sườn
trái trên đường giữa đòn trái (phụ) và dưới ức
(vén gan) (hình 2).
Hình 2: Tư thế bệnh nhân và vị trí trocar thì nội soi
bụng
Tạo hình ống dạ dày: bắt đầu từ giải phóng
bờ cong lớn bảo tồn vòng mạch bờ cong lớn; thắt
cắt động mạch vị trái cùng nạo hạch từ tâm vị,
bờ cong nhỏ dạ dày, nhóm hạch động mạch gan,
vị trái, động mạch lách qua nội soi bụng. Mở nhỏ
dưới ức 4-5cm, tạo hình ống dạ dày ngoài ổ
bụng. Tạo hình môn vị hoặc không. Mở thông
hỗng tràng nuôi ăn.
Thì cổ: bộc lộ thực quản cổ qua đường mở cổ
trái bờ trước cơ ức đòn chũm, đưa ống dạ dày
lên qua trung thất sau nối với thực quản cổ.
Đánh giá kết quả với các thông số: thời gian
mổ, lượng máu mất-truyền trong mổ, số hạch
nạo được trong mổ, tai biến trong mổ, biến
chứng sau mổ, thời gian nằm viện sau mổ.
KẾT QUẢ
Một số đặc điểm ung thư thực quản của
nhóm bệnh nghiên cứu
Trong số 21 trường hợp ung thư thực quản
được mổ cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế
nằm sấp, chỉ định cho 13 trường hợp u nằm ở 1/3
giữa (61,9%), 8 u ở 1/3 dưới (38,1%).
Đường kính lớn u trung bình 4,8cm. Thể sùi
12 (57,2%), thể loét 2 (9,5%), thể loét sùi 5 (23,8%),
thâm nhiễm 2 (9,5%).
Mô bệnh học: tất cả các trường hợp đều là
ung thư tế bào gai.
Độ biệt hóa: biệt hóa tốt 4 (19%), biệt hóa vừa
17 (81%).
Giai đoạn TNM: T2: 2 (9,5%), T3: 19 (90,5%).
No: 9 (42,9%), N1: 12 (57,1%). Giai đoạn IIA 9
(42,9%) và III 12 (57,1%).
Kết quả phẫu thuật
Thời gian mổ trung bình là 315,7 phút.
Lượng máu mất trung bình trong mổ là
25ml, không có trường hợp vào phải truyền
máu.
Số hạch trung thất nạo được trung bình là 6
(3 – 13 hạch). Số hạch bụng trung bình là 9 (5 – 17
hạch), tổng số hạch trung bình 15 (9 – 27 hạch).
Số hạch di căn trung bình là 2 (0 – 5 hạch).
Không có tai biến trong mổ.
Không có trường hợp nào chuyển mổ mở.
Thời gian rút dẫn lưu khoang màng phổi sau
mổ trung bình 2,1 ngày.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 280
Bảng 1: Biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ
Số bệnh nhân
(N =21)
Viêm phổi 2 (9,5%)
Rò dưỡng chấp 1 (4,8%)
Xì miệng nối thực quản - ống dạ dày ở cổ 1 (4,8%)
Hẹp miệng nối thực quản ống dạ dày 1 (4,8%)
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình: 9,3
ngày (7 – 21 ngày).
Không có trường hợp tử vong.
BÀN LUẬN
Phẫu thuật xâm hại tối thiểu cắt thực quản đã bắt
đầu được thực hiện từ 1992(8), kể từ đó, phẫu
thuật này không ngừng phát triển và đã được sử
dụng ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật lớn
trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Phẫu thuật
cắt bỏ thực quản với 3 trường mổ (cổ, ngực và
bụng) điều trị ung thư thực quản nhìn chung
được chấp nhận là triệt để, nhưng là một can
thiệp ngoại khoa nặng nề với tỷ lệ biến chứng và
tử vong khá cao. Đặc biệt cắt thực quản mở ngực
với các biến chứng hô hấp, đau, hạn chế hô hấp
do cắt rạch lớn cơ thành ngực hay khó khăn thao
tác do phẫu trường hạn chế... là những vấn đề
được quan tâm và đây chính là lí do mà phẫu
thuật nội soi ngực cắt thực quản được lựa chọn
thay thế ưu việt hơn cho phép khắc phục được
những nhược điểm trên. Cho đến nay, đã có
nhiều nghiên cứu thông báo kết quả cắt thực
quản nội soi ngực phải chủ yếu với tư thế nằm
nghiêng trái và tư thế nằm sấp trong phẫu thuật
cắt thực quản xâm hại tối thiểu 3 trường mổ điều
trị ung thư thực quản(9,10,3,4) Mặc dù cắt thực
quản nội soi ngực phải tư thế nằm sấp được
thông báo cho kết quả tốt với các ưu điểm như
giảm thời gian mổ, giảm biến chứng hô hấp, bộc
lộ tổn thương tốt và cho phép thao tác tốt hơn,
nhưng phương pháp này vẫn chưa được sử
dụng rộng rãi. Với kinh nghiệm trên 112 trường
hợp cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế
nghiêng trái, từ tháng 5 năm 2011, chúng tôi bắt
đầu tiến hành kỹ thuật cắt thực quản nội soi
ngực phải tư thế nằm sấp điều trị ung thư thực
quản với 3 thì phẫu thuật (kết hợp với nội soi
bụng và cổ). Trong phạm vi bài viết này, chúng
tôi bước đầu nhận xét kết quả cắt thực quản thì
nội soi ngực phải tư thế nằm sấp, nhằm đánh giá
tính khả thi và hiệu quả của kỹ thuật này.
Về mặt kỹ thuật, chúng tôi thấy rằng với tư thế
nằm sấp, sau khi làm xẹp phổi phải, thì phổi sẽ
“rơi xuống” phía trước bộc lộ thực quản và các
thành phần liên quan rất tốt giúp phẫu tích thực
quản và vét hạch dễ dàng, mà không phải sử
dụng thêm 1 trocar để vén phổi hay bơm hơi
khoang ngực để tạo khoảng thao tác như đối với
tư thế nghiêng trái. Chúng tôi vẫn sử dụng 4
trocar tương tự như tư thế nghiêng trái, nhưng
trocar thứ tư sử dụng trợ giúp phẫu tích được
thuận lợi và an toàn hơn.
Về mặt gây mê hồi sức, nhiều nghiên cứu cho
thấy có sự cải thiện quá trình oxy hóa, cải thiện
di chuyển các chất tiết ở tư thế nằm sấp. Hơn
nữa, tư thế nằm sấp giúp tăng thông khí phổi,
giảm áp cho tim, khoang bụng(2).
Cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế nằm
sấp đã được Cuschieri(5) thực hiện đầu tiên từ
1994, tuy nhiên phần lớn các trung tâm phẫu
thuật lớn không chấp nhận và vẫn sử dụng tư
thế nghiêng trái, vì cho rằng với tư thế này phẫu
thuật viên quan sát giải phẫu quen thuộc hơn và
cho phép chuyển mở ngực ngay nếu cần. Tuy
nhiên, cũng như một số tác giả khác(10,5), với tư
thế nằm sấp, chúng tôi thấy rằng phẫu thuật
viên và người phụ cầm nắm dụng cụ nội soi ở vị
trí thấp hơn. Do đó cho phép thao tác với 2 tay
gần như buông thả lỏng tự nhiên hạn chế mỏi cơ
khi phẫu thuật kéo dài. Các tác giả cũng thấy
rằng ở tư thế nằm sấp, do thực quản nằm ở
“trần” khoang ngực, nên khi phẫu tích di động
thực quản thì phẫu trường luôn được bộc lộ tốt
vì không bị máu, dịch chảy vào làm hạn chế
quan sát.
Một số ý kiến cho rằng phẫu trường với tư
thế nằm sấp khó quan sát hơn nghiêng trái do
đảo ngược mốc giải phẫu. Tuy nhiên, với kinh
nghiệm cắt thực quản qua mở ngực kinh điển và
112 trường hợp nội soi ngực tư thế nghiêng trái,
chúng tôi không gặp khó khăn gì đáng kể khi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 281
xác định các mốc giải phẫu và thực hiện kỹ thuật
phẫu tích thực quản và vét hạch.
Trong mổ, chúng tôi không gặp tai biến nào
phải chuyển mổ mở như chảy máu hay tổn
thương tạng như đã được thông báo trong y
văn(6).
Biến chứng sau mổ trong nhóm bệnh nhân
của chúng tôi gồm 2 trường hợp viêm phổi sau
mổ, điều trị nội khoa khỏi lần lượt sau 7 và 11
ngày. Hai trường hợp khàn tiếng sau mổ giảm
dần. Một trường hợp xì miệng nối thực quản dạ
dày ở cổ, ngày thứ 6 sau mổ, điều trị nội khoa
khỏi mà không phải can thiệp lại. Một trường
hợp hẹp miệng nối thực quản ống dạ dày sau
mổ hơn 2 tháng, được điều trị bằng nội soi nong
hẹp, sau nong bệnh nhân ăn uống tốt, hết nghẹn.
Một trường hợp rò dưỡng chấp khoang màng
phổi phải, mở ngực khâu thắt ống ngực sau mổ 2
tuần, sau đó bệnh nhân ổn định, hết rò.
Kết quả điều trị phẫu thuật của chúng tôi
ban đầu có thể chấp nhận được so với những
nghiên cứu đã được thông báo trong y văn
(bảng 2).
Một số nghiên cứu so sánh cắt thực quản nội
soi với 2 tư thế nghiêng và sấp cho thấy không
có sự khác biệt về lượng máu mất trong mổ, số
hạch nạo được và tỷ lệ biến chứng, ngoại trừ thời
gian mổ của nhóm nằm sấp là ngắn hơn có ý
nghĩa thống kê(5). Bước đầu chúng tôi chưa ghi
nhận có sự khác biệt về thời gian mổ cũng như
tỷ lệ biến chứng, tử vong của tư thế nằm sấp so
với nghiêng. Đặc biệt cần đánh giá kết quả lâu
dài của phương pháp về mặt ung thư học với
nhóm bệnh nghiên cứu đủ lớn.
Bảng 2: Kết quả điều trị ung thư thực quản bằng phẫu thuật nội soi ngực bụng
Tác giả N Tư thế BN thì
ngực
T mổ
trung bình
Rò dưỡng
chấp (%)
Hẹp miệng
nối (%)
Rò miệng
nối (%)
Viêm phổi
(%)
Tử vong
(%)
Smithers (2001) 153 Sấp 299 2,4 _ 4 _ 8
Nguyen NT (2003) 46 Nghiêng 350 _ 17,4 4,3 23,9 4,3
Luketich (2003) 222 Nghiêng 450 3,9 _ 11,7 7,7 1,4
Fabian (2008) 21 Sấp 330 _ _ 4 8 5
Puntambekar (2010) 112 Nghiêng 185 0 7,2 2,7 7,1 2,7
Chúng tôi (2011) 112 Nghiêng 322 _ 13,7 4,5 4,5 0,9
Chúng tôi (2012) 21 Sấp 315,7 4,8 4,8 4,8 9,5 0
KẾT LUẬN
Qua kinh nghiệm bước đầu chúng tôi thấy
rằng cắt thực quản nội soi ngực phải tư thế
nằm sấp là một phương pháp an toàn, hiệu
quả và có thể thực hiện thường qui để điều trị
ung thư thực quản. Tuy nhiên, cần phải
nghiên cứu với số liệu lớn hơn và đánh giá kết
quả ung thư học để thấy được ưu điểm thực
sự của phương pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akiyama H (1994): “Radical Lymph Node Dissection for
Cancer of the Thoracic Esophagus”, Annals of Surg, 220 (3):
364 - 373.
2. Albert RK (2000): “The prone position eliminates compression
of lungs by heart”. AJRCCM; 161: 1660 - 65.
3. Bailey SH (2003): “Outcomes after esophagectomy: a ten-year
prospective cohort”. Ann. Thorac. Surg, 75: 217 - 222.
4. Bottger T (2007): “Minimally invasive transhiatal and
transthoracic esophagectomy”. Surg. Endosc, 21: 1695 – 1700.
5. Fabian T (2008): “Thoracoscopic esophageal mobilization
during minimally invasive esophagectomy: a head-to-head
comparison of prone versus decubitus positions”, Surg
Endosc, 22: 2485 – 2491.
6. Herbella FA (2010): “Minimally invasive esophagectomy”,
World J Gastroenterol,16(30): 3811-3815.
7. Mehran RJ (2008): “Minimally Invasive Surgical Treatment of
Esophageal Carcinoma”, Gastrointest Cancer Res, 2: 283 – 286.
8. Nguyen NT (2003): “Thoracoscopic and Laparoscopic
Esophagectomy for Benign and Malignant Disease: Lessons
Learned from 46 Consecutive Procedures”. J Am Coll Surg,
197(6): 902 - 913.
9. Phạm Đức Huấn, Đỗ Đức Vân (2000): “Phẫu thuật cắt ung
thư thực quản - kinh nghiệm và kết quả qua 71 trường hợp”.
Ngoại khoa số 3, tr 22 – 25.
10. Phạm Đức Huấn, Đỗ Mai Lâm, Nguyễn Anh Tuấn (2006):
“Cắt thực quản nội soi ngực phải trong điều trị ung thư thực
quản”. Tạp chí Y học Việt Nam, 319 (2): 70 - 75.
11. Scheepers JJG (2007): “Thoracoscopic resection for esophageal
cancer: A review of literature”, J Minim Access Surg, 3(4): 149
– 160.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_cat_thuc_quan_noi_soi_nguc_phai_tu_the_nam.pdf