This paper presents an premilinary estimation of climate change impacts on
marine fishery in Vietnam. An augmented production function is used in the present study to model
the effects of climate change on fishery outputs, in order to determine the impact of climate change
on marine fisheries in Vietnam. The data by time series of catch, fishing effort, labour, average
temperature and annual number of typhoons from 1976 to 2010 have been collected and analyzed.
The preliminary results show that the annual average rainfall in coastal areas has negatively
effected to Vietnam’s catching production. However, the impacts of increasing rainfall on catching
production are relatively smaller than those of other examined factors such as fleet capacity and
labour.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với nghề cá biển Việt Nam bằng phương pháp hàm sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 1; 2014: 18-24
ISSN: 1859-3097
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU ĐỐI VỚI NGHỀ CÁ BIỂN VIỆT NAM BẰNG PHƯƠNG PHÁP
HÀM SẢN XUẤT
Nguyễn Ngọc Thanh1, Nguyễn Viết Thành2*, Dư Văn Toán3, Ngô Thọ Hùng4
1Đại học Tài Nguyên và Môi trường Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Kinh tế-Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam
3Tổng cục Biển và Hải Đảo Việt Nam, Việt Nam
4Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Hòa Phong E&C, Việt Nam
*E-mail: thanhmpa@gmail.com
Ngày nhận bài: 16-12-2013
TÓM TẮT: Nghiên cứu này đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với khai thác thủy sản
Việt Nam. Hàm sản xuất được sử dụng trong nghiên cứu để mô hình hóa tác động của biến đổi khí
hậu đối với sản lượng khai nhằm đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với nghề cá biểnViệt
Nam. Dữ liệu theo chuỗi thời gian từ 1976 đến 2010 của sản lượng khai thác, cường lực khai thác,
lao động nghề cá, lượng mưa trung bình, nhiệt độ trung bình, số lượng bão hàng năm đã được thu
thập và phân tích. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy lượng mưa trung bình hàng năm khu vực
ven biển có tác động tiêu cực đến sản lượng khai thác hải sản của Việt Nam. Tuy vậy ảnh hưởng
của việc tăng lượng mưa đối với sản lượng khai thác hải sản là tương đối nhỏ so với các yếu tố
khác được nghiên cứu như cường lực khai thác và lao động nghề cá.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, nghề cá biển Việt Nam, hàm sản xuất.
GIỚI THIỆU
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng
biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm
trọng trên phạm vi toàn cầu và đòi hỏi tất cả
các nước phải cùng nhau hành động để phòng
ngừa và ngăn chặn các tác động tiêu cực do
biến đổi khí hậu gây ra. Theo kết quả nghiên
cứu của Stern [12], nếu các nước không có
hành động để đối phó với biến đổi khí hậu thì
thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra ước tính
vào khoảng 5-20% GDP toàn cầu mỗi năm,
trong khi đó chi phí để giảm khí thải gây hiệu
ứng nhà kính nhằm ngăn chặn tác động tiêu cực
của biến đổi khí hậu chỉ vào khoảng 1% GDP
toàn cầu mỗi năm. Kết quả nghiên cứu của
Yusuf và Francisco [15] cho thấy, Việt Nam là
một trong những nước rất dễ bị tổn thương bởi
tác động của biến đổi khí hậu trong khu vực
Đông Nam Á. Việt Nam đứng thứ 6 trong bảng
xếp hạng toàn cầu chỉ số rủi ro do biến đổi khí
hậu (CRI) giai đoạn 1991-2010 [9]. Việt Nam
cũng đứng thứ 23 trong bảng xếp hạng toàn cầu
chỉ số tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra
trong 30 năm tới [11]. Theo các kịch bản về
biến đổi khí hậu cho Việt Nam [4], đến cuối thế
kỷ 21, khí hậu trên tất cả các vùng của Việt
Nam sẽ có nhiều thay đổi, tổng lượng mưa năm
và lượng mưa mùa mưa tăng trong khi lượng
mưa mùa khô lại giảm. Ngoài ra, mực nước
biển sẽ dâng lên khoảng 75 cm so với trung
bình thời kỳ 1980 - 1999. Tuy chưa có đánh giá
thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra, nhưng thiệt
hại do các hiện tượng thời tiết bất thường như
bão, lũ và triều cường gây ra là đáng kể đối với
Việt Nam hàng năm. Theo kết quả nghiên cứu
của Lê Trường Giang [8], trong khoảng thời
gian từ 1994 đến 2003, thiệt hại trung bình do
Kết quả bước đầu đánh giá tác động
19
thiên tai gây ra đối với Việt Nam vào khoảng
gần 250 triệu đôla mỗi năm, chiếm khoảng
0,8% GDP trung bình trong cùng khoảng thời
gian này.
Thủy sản là ngành kinh tế quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam, theo thống kê [14], giá
trị xuất khẩu thủy sản đã tăng gấp ba lần trong
10 năm qua và đã đạt hơn 6,1 tỉ đôla năm 2011.
Tuy nhiên, thủy sản lại là ngành chịu nhiều ảnh
hưởng từ các hiện tượng thời tiết bất thường.
Chỉ tính riêng cơn bão Linda năm 1997 đã làm
chìm và hư hại gần 2.000 tàu thuyền khai thác
thủy sản, gây thiệt hại khoảng 136.000 hecta
diện tích nuôi trồng thủy sản và hơn 34.000 tấn
thủy hải sản [3]. Ngoài ra, với hàng triệu lao
động trực tiếp và gián tiếp tham gia hoạt động
sản xuất thủy sản, chủ yếu sống ở khu vực ven
biển, ngành thủy sản Việt Nam rất dễ bị tổn
thương bởi các tai biến thiên nhiên và nước
biển dâng do biến đổi khí hậu gây ra. Do vậy,
việc nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu
đối với thủy sản là hết sức cần thiết nhằm xác
định các yếu tố và mức độ tác động của biến
đổi khí hậu với thủy sản để làm cơ sở xây dựng
các biện pháp ứng phó phù hợp.
Nghiên cứu này đánh giá tác động của biến
đổi khí hậu đối với khai thác thủy sản Việt
Nam. Hàm sản xuất được sử dụng trong nghiên
cứu để mô hình hóa tác động của biến đổi khí
hậu đối với sản lượng khai thác thuỷ sản nhằm
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với
khai thác thủy sản của Việt Nam. Cấu trúc
nghiên cứu này được trình bày như sau: phần
tiếp theo mô tả phương pháp sử dụng hàm sản
xuất trong nghiên cứu tác động của biến đổi khí
hậu. Phần kế tiếp mô tả dữ liệu và cuối cùng là
phần kết quả và thảo luận.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình hàm sản xuất
Phương pháp tiếp cận thay đổi năng suất
(change-in-productivity approach - CP) còn
được gọi là phương pháp hàm sản xuất (the
production-function method), tiếp cận tác động
lên sản xuất (effect on production approach),
hay định giá môi trường như là một đầu vào
(valuating environment as an input) tìm cách
khai thác mối quan hệ giữa các thuộc tính môi
trường và mức sản lượng của một hoạt động
kinh tế [5]. Giả định cơ bản là, khi một thuộc
tính môi trường được đưa vào hàm sản xuất của
một doanh nghiệp, tác động kinh tế do thay đổi
môi trường có thể được đo bằng cách xem xét
hiệu quả sản xuất và xác định giá trị của tác
động theo giá thị trường đầu ra của sản phẩm.
Đây là phương pháp lượng giá gián tiếp, không
dựa vào đường cầu (như phương pháp chi phí
du lịch hay giá hưởng thụ), vì vậy số tiền ước
tính nên được hiểu là một chỉ thị (không phải
giá trị thực sự) do tác động của thay đổi môi
trường tới phúc lợi cuối cùng. Phương pháp
tiếp cận hàm sản xuất đã được sử dụng rộng rãi,
đặc biệt là để đánh giá những tác động của sự
thay đổi chất lượng môi trường (ví dụ như mưa
axit, ô nhiễm nước) vào nông nghiệp [1] và
thủy sản [10]. Ví dụ khác về ứng dụng bao gồm
phân tích tác động của dòng chảy [2] và xác
định giá trị lợi ích bảo vệ của vùng đất ngập
nước ven biển chống lại thiệt hại do bão gây ra
[7]. Theo Barbier, phương pháp hàm sản xuất
phù hợp để áp dụng cho các nước đang phát
triển bởi vì sự phụ thuộc trực tiếp của nhiều hệ
thống sản xuất ở các nước này đối với tài
nguyên thiên nhiên và các chức năng sinh thái.
Một cách khái quát, phương pháp tiếp cận hàm
sản xuất bao gồm một quy trình hai bước. Bước
đầu tiên là xác định các tác động vật lý của sự
thay đổi môi trường lên hoạt động sản xuất.
Bước thứ hai là lượng giá những tác động này
dựa trên đầu ra của hoạt động sản xuất. Rõ
ràng, ở giai đoạn đầu tiên, hợp tác là cần thiết
giữa các nhà khoa học tự nhiên, kinh tế và các
nhà nghiên cứu khác, để xác định bản chất của
các mối liên hệ giữa các yếu tố môi trường và
hoạt động sản xuất [7, 10]. Gọi Y là đầu ra của
hoạt động sản xuất, ENV là biến môi trường
quan tâm, Xi... Xk là các biến đầu vào khác của
hoạt động sản xuất, hàm sản xuất của một
doanh nghiệp hay một ngành sản xuất có thể
được mô tả bằng công thức (1):
Y = f (Xi... Xk, ENV) (1)
Nếu δY/δENV khác không, biến môi
trường thể hiện qua ENV (ví dụ như tăng hoặc
giảm nhiệt độ, lượng mưa) với điều kiện các
yếu tố khác không đổi,sẽ làm giảm/tăng mức
sản lượng. Nhìn chung, khi sản lượng đầu ra Y
là một hàng hóa thị trường, và giá cả có thể
quan sát được và không bị ảnh hưởng bởi các
Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Viết Thành,
20
yếu tố liên quan ngoài thị trường, mức giá này
có thể được sử dụng để ước tính giá trị của một
sự thay đổi do tác động của các yếu tố môi
trường (qua biến ENV). Ngoài ra, giá trị này
cũng có thể được ước tính bằng cách xem xét
những thay đổi của thị trường các yếu tố đầu
vào (Xi... Xk) cần thiết để duy trì sản lượng đầu
ra ở một mức độ nhất định. Trong nghiên cứu
này mô hình hàm sản xuất với các biến đầu vào
truyền thống được sử dụng trong nghề cá [6,
11] dưới dạng logarit được mô tả trong phương
trình (2):
(2)
Trong đó CCj - là các biến liên quan đến
biến đổi khí hậu.
Mô hình hàm sản xuất có dạng (3) sau:
(3)
Catcht = sản lượng khai thác (tấn) năm t.
Capacityt = cường lực khai thác của đội tàu
(1.000 CV) năm theo thời gian năm t.
Labourt = số lượng người tham gia khai
thác hải sản năm theo thời gian năm t.
Raint = lượng mưa trung bình năm t (mm).
Tempt = nhiệt độ mặt biển trung bình năm t
(0C).
Hurricanet = số lượng cơn bão biển năm t
(sức gió mạnh hơn 100 km/h).
T = xu hướng thời gian.
βi, j = các hệ số thực nghiệm.
Dữ liệu
Dữ liệu sử dụng cho mô hình được thu thập
từ các nguồn thống kê của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và Tổng cục Thống kê [4, 12, 13]. Dữ
liệu theo chuỗi thời gian từ 1976 đến 2010 của
sản lượng khai thác, cường lực khai thác, lao
động nghề cá, lượng mưa trung bình, nhiệt độ
trung bình, số lượng bão hàng năm đã được thu
thập và phân tích. Các dữ liệu này được mô tả
trong bảng 1.
Bảng 1. Mô tả dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu (1976-2010)
Các biến Mẫu thu thập (năm)
Giá trị trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
Sản lượng
(tấn) 35 1.073.771 626.058 377.192 2.420.800
Lao động
(người) 35 665.872 566031 190.399 1.767.000
Cường lực
(CV) 35 2.082.611 1.883.244 453.871 6.123.000
Lượng mưa
(mm) 35 1.793,79 246 1.311,33 2.288,60
Nhiệt độ (0C) 35 25,72 0,34 25,23 26,67
Bão (cơn bão) 34 1,41 1,37 0 5
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Bảng 2 mô tả kết quả tính toán ban đầu mô
hình hàm sản xuất đối với nghề cá của Việt
Nam với dữ liệu theo chuỗi thời gian từ 1976
đến 2010.
Kết quả bước đầu đánh giá tác động
21
Bảng 2. Ước lượng hàm sản xuất cho nghề cá Việt Nam với dữ liệu từ 1976-2010
Ký hiệu Các biến Ước lượng (độ lệch chuẩn)
β0 Hệ số 9,39* (1,58)
β1 Xu hướng thời gian (T) 0,009 (0,005)
β2 Cường lực (capacity) 0,23 (0,14)
β3 Lao động (labour) 0,31* (0,13)
β4 Lượng mưa (rain) -0,00022* (0,0000698)
β5 Nhiệt độ (temperature) -0,1056 (0,064)
β6 Số lượng bão (hurricane) -0,0016 (0,0011)
R2 0,97
F statistic 216
DW statistic 1,31
Biến phụ thuộc là ln(Catch), n=34, * p<0,01.
Kiểm định Durbin-Watson (DW) để xem
xét hiện tượng tự tương quan bậc một của mô
hình với mức ý nghĩa 5% (n=34, k'=6) cho thấy
giá trị thống kê (d) nằm trong khoảng giới hạn
cao (1,89) và thấp (1,08), thuộc miền không kết
luận. Tuy nhiên, kiểm định thay thế (the
Durbin’s alternative test - durbinalt) và kiểm
định tự tương quan bậc cao hơn (Breusch-
Godfrey) cho thấy không có hiện tượng tự
tương quan trong mô hình đã ước lượng với
mức ý nghĩa 5% (các kết quả kiểm định được
trình bày tại hình 1 và bảng 3).
Hình 1. Biểu đồ kết quả kiểm định tự tương quan của mô hình ước lượng
Bảng 3. Trình bày các kiểm định đối với mô hình đã ước lượng
Kiểm định Giá trị quan sát Giá trị xác suất Ghi chú
Durbin’s alternative test -
durbinalt 3,22 0,073
Không bác bỏ giả thuyết H0: "không có
tự tương quan"
Breusch-Godfrey test 3,75 0,053 Không bác bỏ giả thuyết H0: "không có tự tương quan"
Ramsey RESET test 2,18 0,116 Không bác bỏ giả thuyết H0: "mô hình có dạng hàm đúng"
Breusch-Pagan 0,06 0,811 Không bác bỏ giả thuyết H0: "mô hình không có phương sai sai số thay đổi"
Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Viết Thành,
22
Từ kết quả phân tích định lượng, sự phụ
thuộc của sản lượng khai thác đối với biến đầu
vào và biến liên quan đến biến đổi khí hậu
được chúng tôi tìm được công thức tính toán ra
cho nghề cá vùng biển Việt Nam:
(4
)
Kết quả ước lượng bước đầu cho thấy nếu
lao động khai thác thủy sản tăng 1% thì sản
lượng khai thác sẽ tăng 0,31%. Kết quả cũng
cho thấy nếu lượng mưa trung bình hàng năm
khu vực ven biển tăng lên 100 mm (0,1 m) thì
sản lượng khai thác sẽ giảm khoảng 2,2%. Kết
quả này phù hợp với thực tế vì tăng lượng mưa
có thể giảm cường lực khai thác và phá hủy cơ
sở hạ tầng nghề cá ven biển. Tuy vậy ảnh
hưởng của việc tăng lượng mưa đối với sản
lượng khai thác là tương đối nhỏ. Như mong
đợi, tăng nhiệt độ trung bình và số lượng cơn
bão lớn hàng năm có thể ảnh hưởng tiêu cực
đến sản lượng khai thác. Mô hình cho thấy xu
thế thời gian gia tăng đối với sản lượng khai
thác nhưng cần có nhiều dữ liệu thống kê chi
tiết và liên tục hơn.
Để có những nhận định chính xác hơn về
tác động của biến đổi khí hậu đối với khai thác
thủy sản, dữ liệu nhiệt độ mặt biển và một số
biến chính sách cần được thu thập và đưa vào
mô hình. Ước lượng tác động của biến đổi khí
hậu đối với nghề cá ở các khu vực khác nhau
(khu vực miền Bắc, Trung Bộ và Nam Bộ)
cũng cần được nghiên cứu. Ngoài ra, việc qui
định các mô hình khác nhau, lựa chọn mô hình
phù hợp cho mỗi vùng và lượng giá tác động
của biến đổi khí hậu đối với nghề cá ở các khu
vực khác nhau theo các kịch bản biến đổi khí
hậu cũng cần được nghiên cứu sâu hơn.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này sử dụng hàm sản xuất để
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với
khai thác thủy sản Việt Nam. Các biến sản
lượng khai thác, cường lực khai thác, lao động
nghề cá, lượng mưa trung bình, nhiệt độ trung
bình, số lượng bão hàng năm đã được thu thập
và phân tích. Kết quả ước lượng bước đầu cho
thấy nếu lao động khai thác thủy sản tăng 1%
thì sản lượng khai thác sẽ tăng 0,31%. Kết quả
cũng cho thấy nếu lượng mưa trung bình hàng
năm khu vực ven biển tăng lên 100 mm (0,1 m)
thì sản lượng khai thác sẽ giảm khoảng 2,2%.
Ngoài ra, việc tăng nhiệt độ trung bình và số
lượng cơn bão lớn hàng năm cũng có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến sản lượng khai thác và xu
thế thời gian có thể gia tăng đối với sản lượng
khai thác. Tuy vậy các tác động này không có ý
nghĩa về mặt thống kê vì vậy cần có thêm dữ
liệu thống kê để phân tích và kiểm định trước
khi có các kết luận chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adam, R. M., J. M. Callaway and B. A.
McCarl, 1986. “Pollution, Agriculture and
Social Welfare: The Case of Acid
Deposition”. Canadian Journal of
Agricultural Economics/Revue canadienne
d'agroeconomie, 34(1): 3-19.
2. Barbier, E. B., 1998. Environmental Project
Evaluation in Developing Countries:
Valuing the Environment as Input. World
Congress of Environmental and Resource
Economists. Venice.
3.
ages/download/Bao%20so%205%20(Linda)
%20nam%2097_07117164939.pdf. Tổng
hợp thông tin thiệt hại do bão số năm ngày
2/11/1997 gây ra.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2012. Kịch
bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho
Việt Nam. Nxb. Tài nguyên môi trường và
bản đồ Việt Nam. Hà Nội. 33 tr.
5. Dosi, C., 2001. Environmental Values,
Valuation Methods, and Natural Disaster
Damage Assessment, Environment and
Human Settlements Division, United
Nation.
6. Eide, A., F. Skjord, F. Olsen and O.
Flaaten, 2003. “Harvest functions: The
Kết quả bước đầu đánh giá tác động
23
Norwegian bottom trawl cod fisheries”.
Marine Resource Economics, 18.
7. Farber, S., 1987. “The value of coastal
wetlands for protection of property against
hurricane wind damage”. Journal of
Environmental Economics and
Management, 14(2): 143-151.
8. Le Truong Giang, 2005. Damage cause by
strong win and wind loads standard for
building in Vietnam. Kanagawa, Tokyo
Polytechnic University: 29.
9. Harmeling, S., 2012. Global climate risk
index 2012: who suffers most from extreme
weather events? weather-related loss events
in 2010 and 1991 to 2010. Bonn, Germany,
Germanwatch: 28 pp.
10. Kahn, J., 1991. Atrazine Pollution and
Cheasepeake Fisheries. Farming and the
Countryside: An Economic Analysis of
External Costs and Benefits. N. Hanley.
Oxford, CAB International.
11. Maplecroft, 2012. Climate Change
Vulnerability Index 2012.
12. Stern, N., 2007. The Economics of Climate
Change: The Stern Review. Cambridge,
Cambridge University Press.
13. Nguyen Viet Thanh, 2011. “Sustainable
management of the shrimp trawl fishery in
Tonkin Gulf, Vietnam”. Applied
Economics Journal, 18(2): 65-81.
14. Tổng cụ Thống kê, 2012. Niên giám
Thống kê. Nhã xuất bản Thống Kê. Hà Nội.
15. Yusuf, A. A. and H. A. Francisco, 2009.
Climate Change Vulnerability Mapping for
Southeast Asia. Singapore, Economy and
Environment Program for Southeast Asia
(EEPSEA): 26.
Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Viết Thành,
24
PREMILINARY ESTIMATION RESULTS OF IMPACT OF CLIMATE
CHANGE ON MARINE FISHERIES IN VIETNAM
BY USING PRODUCTION FUNCTION
Nguyen Ngoc Thanh1, Nguyen Viet Thanh2, Du Van Toan3 , Ngo Tho Hung4
1Hanoi University of Natural Resources and Environment, Vietnam
2VNU University of Economics and Business, Vietnam
3Vietnam Administration of Sea and Islands, Vietnam
4Hoa Phong E &C Investment and Development JSC, Vietnam
ABSTRACT: This paper presents an premilinary estimation of climate change impacts on
marine fishery in Vietnam. An augmented production function is used in the present study to model
the effects of climate change on fishery outputs, in order to determine the impact of climate change
on marine fisheries in Vietnam. The data by time series of catch, fishing effort, labour, average
temperature and annual number of typhoons from 1976 to 2010 have been collected and analyzed.
The preliminary results show that the annual average rainfall in coastal areas has negatively
effected to Vietnam’s catching production. However, the impacts of increasing rainfall on catching
production are relatively smaller than those of other examined factors such as fleet capacity and
labour.
Keywords: Climate change, marine fishery in Vietnam, production function.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4025_14190_1_pb_8811_2079617.pdf