Kết quả bước đầu phẫu thuật bướu giáp lành tính bằng nội soi tại bệnh viện hoàn mỹ Cửu Long
Chúng tôi gặp 03 trường hợp bị khàn giọng
tạm thời, trong đó có 2 trường hợp phục hồi lại
giọng nói sau 3 tháng và có 1 trường hợp phục
hồi lại giọng nói sau tháng thứ 05. Không có
trường hợp nào bị nuốt sặc, không có trường
hợp nào bị hạ calci máu, không có trường hợp
nào bị suy giáp sau mổ.
Chúng tôi thực hiện đặt dẫn lưu sau mổ
trong 46 ca mổ đầu tiên, và trong số đó có 3
trường hợp tụ dịch sau mổ. Trong đó 2 trường
hợp rút dịch 2 lần và 1 trường hợp rút dịch tới
lần thư 3. Không có trường hợp nào bị nhiễm
trùng vết mổ.
So với mổ hở kinh điển thì mổ bướu giáp nội
soi có diện bóc tách rộng hơn. Do đó vấn đề đau
sau mổ được chúng tôi theo dõi và đánh giá liên
tục tuần thứ nhất, tuần thư hai và tuần thứ 4
tuần sau mổ theo thang điểm 10 (thang điểm
VAS). Với kết quả; Tuần thứ nhất đa số bệnh
nhân đau ở mức độ trung bình chiếm 43,82%,
đau ít chiếm 38,20% và đau nhiều chiếm 17,98%;
Tuần thứ 2 thì đau ít chiếm đa số với 69,19%,
đau trung bình chỉ còn 26,97%, và đau nhiều còn
lại 3,93%. Tuy nhiên vấn đề cảm giác tê bì hoặc
mất cảm giác da của bệnh nhân sau 1 tháng
chiếm 14,04%.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật bướu giáp lành tính bằng nội soi tại bệnh viện hoàn mỹ Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 253
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT BƯỚU GIÁP LÀNH TÍNH
BẰNG NỘI SOI TẠI BỆNH VIỆN HOÀN MỸ CỬU LONG
Nguyễn Phi Hùng*, Trần Quốc Tuấn*, Châu Phú Vĩnh*
Mục tiêu: Đánh giá tình khả thi và tính an toàn của phẫu thuật điều trị tuyến giáp lành tính bằng phương
pháp nội soi tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long.
Kết quả: Từ 10/2009 đến 08/2011 tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long chúng tôi thực hiện 178 ca phẫu thuật
tuyến giáp bằng phương pháp nội soi theo đường ngực nách cùng bên với bướu. Trong đó có 176 nữ chiếm 98,88
% và có 2 trường hợp là nam chiếm 1,12%. Tuổi trung bình 27,7, nhỏ nhất 16 tuổi và lớn nhất 55 tuổi. Phẫu
thuật thùy bên phải có 94 ca (52,80%), thùy trái có 72 ca (40,46%) và cắt gần trọn 2 thùy có 12 ca (6,74%). Thời
gian mổ trung bình là 55 phút (ít nhất 40 phút và lâu nhất 135 phút). Có 03 trường hợp (1,68%) khàn giọng tạm
thời, 03 trường hợp (1,68%) tụ dịch vết mổ, 02 trường hợp (1,12%) bỏng da. Không có trường hợp nào chuyển
sang mổ hở, lượng máu mất rất ít. Tất cà bệnh nhân đều hày lòng với cuộc phẫu thuật nhất là tính thẫm mỹ.
Kết luận: Phẫu thuật bướu giáp lành tính bằng phương pháp nội soi đường ngực nách có tính khả thi và an
toàn. Với sự phóng đại hình ảnh của camera và dao cắt đốt siêu âm giúp phẫu thuật viên nhận rõ các cấu trúc giải
phẫu và thực hiện việc cắt đốt rõ ràng tránh làm tổn thương mô lân cận. Kết quả mang tính thẫm mỹ cao, tránh
để lại vết sẹo trên cổ bệnh nhân.
Từ khóa: bướu giáp, phẫu thuật nội soi tuyến giáp.
ABSTRACT
RESULTS OF ENDOSCOPIC THYROIDECTOMY FOR TREATMENT OF BENGIN THYROID
NODULES IN HOAN MY CUU LONG HOSPITAL
Nguyen Phi Hung, Tran Quoc Tuan, Chau Phu Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 253 - 257
Objective: To evaluate the operative feasibility and safety of endoscopic thyroidectomy via anterior chest and
breast approach for the treatment of the patient with benign thyroid lesion.
Result: Endoscopic thyroidectomy was performed successfully in all 178 cases from Oct 2009 to Aug 2011 at
Hoan My Cuu Long Hospital with 178 female (98.88%) and 2 male (1.12%), age from 16 – 55. In which 94 cases
(52.80%) were right lobe, 72 cases (40.46%) of left lobe and 12 cases (6.74%) of subtotal thyroidectomy. Mean
operation time was 55 min. (range 40 – 135). No case had to be conversed to open surgery. There was no operative
mortality. There were some complications such as; 3 cases had hoarse voice and restored after 3 month, 3 cases of
subcutaneous fluid collection, 2 cases of skin damage. All patients were satisfied with the cosmetic effects of the
operative scar.
Conclusion: The anterior chest and breast approach for endoscopic thyroidectomy is feasibility and safety for
treatment of benign thyroid lesion.
Keyword: Thyroid lesion, endoscopic thyroidectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ sau khi Philip Moret thực hiện ca cắt túi
mật nội soi, thì phẫu thuật nội soi ngày càng
phát triển lớn mạnh và dần dần thay thế cho các
loại phẫu thuật mổ hở kinh điển và được nhìn
* BV Đa Khoa Hoàn Mỹ Cửu Long
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Phi Hùng ĐT: 0913700570 Email: mr_hungct@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 254
nhận mang lại kết quả điều trị tương đương với
mổ hở nhưng có nhiều ưu điểm hơn như ít đau,
ít nhiễm trùng, thời gian nằm viện ngắn, nhanh
phục hồi sau mổ, mang tình thẫm mỹ cao, kết
quả tương đương mổ mở kinh điển(1,2,3) Phẫu
thuật tuyến giáp nội soi ngày càng được áp dụng
rộng rãi trên thế giới. Ngày nay có nhiều tác giả
thực hiện phẫu thuật cắt tuyến giáp bằng nội soi
trong điều trị bệnh tuyến giáp lành tính và ác
tính(5,7,8) theo nhiều đường tiếp cận tuyến giáp
khác nhau; có tác giả sử dụng khung nâng(8) và
sử dụng nội soi như vai trò hổ trợ (video -
assisted) để cắt bướu giáp, tuyến cận giáp(2), có
tác giả sử dụng phẫu thuật nội soi hoàn toàn
theo đường nách(6), đường trước ngực(4), đường
ngực nách(7) Tuy có nhiều cách tiếp cận bướu
giáp khác nhau nhưng tất cả các tác giả đều thực
hiện thành công cắt bướu giáp qua nội soi và ghi
nhận là loại phẫu thuật có tính thẫm mỹ cao.
Nghiên cứu này của chúng tôi góp phần
đánh giá tính khả thi và an toàn của phẫu thuật
nội soi điều trị bưới giáp lành tính tại Bệnh viện
Hoàn Mỹ Cửu Long.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu theo dõi dọc mô tả loạt
ca (Case series)
Đối tương nghiên cứu
Từ tháng 10/2009 đến 08/2011 tất cả bệnh
nhân phẫu thuật bướu giáp thỏa mãn những
điều kiện chỉ định phẫu thuật nội soi cắt bướu
giáp như.
Bướu giáp lành tính được xác định qua FNA
Bướu giáp có kích thước nhỏ hơn 5cm qua
siêu âm
Bệnh nhân không có tiền sử phẫu thuật vùng
cổ.
Bệnh nhân có thể trạng đủ điều kiện thực
hiện phẫu thuật nội soi, và gia đình và bệnh
nhân đồng ý thực hiện cắt bướu giáp qua phẫu
thuật nội soi.
Xử lý số liệu
Các biến số được thu thập theo bảng số liệu
đã định sẵn, số liệu được dự trữ và phân tích
bằng phần mềm stata 10. Kết quả được phân tích
số liệu được mô tả bằng biểu bảng, chỉ số phần
trăm, chỉ số trung bình cộng trừ độ lệch chuẩn.
MÔ TẢ KỸ THUẬT
Tư thế bệnh nhân
- Bệnh nhân nằm ngữa, cổ hơi xoay sang bên
đối diện với tổn thương, 2 tay dạng, với cánh tay
cùng bên phẫu thuật dạng cao hơn để mở rông
vùng ngực nách. Dùng một gối nhỏ để độn dưới
vai-cổ của bệnh nhân.
- Màng hình phía trên đầu bệnh nhân, đối
diện bên phẫu thuật.
- Phẫu thuật viên đứng cùng bên tổn thương.
Phụ mổ 1 đứng cùng bên với phẫu thuật viên.
Phụ 2 đứng bên đối diện.
Lỗ trocar
Chúng tôi tạo khoang phẫu thuật theo
đường ngực nách cùng bên với tổn thương với 3
lỗ trocar.
- Trocar 10mm - sử dụng tạo khoang và
camera - ở đường nách trước ngay bờ trên của
mô tuyến vú.
- Trocar 5mm – trocar hoạt động - được đặt ở
ngay trên nếp gấp ngực nách.
- Trocar 5mm – trocar hoạt động - được đặt ở
vị trí 2 giờ đối với quần vú phải và 11 giờ đối với
quần vú trái ngay bờ của quần vú.
Tạo khoang
Sử dụng móc đốt monopolar bóc tách tạo
khoang. Ranh giới bóc tách tạo khoang là ngay
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 255
mặt trên cơ ngực lớn (mạc ngực nông) ở vùng
ngực và ngay trên mạc cổ nông ở vùng cổ. Các
mốc giãi phẫu mà chúng tôi xác định để tạo
khoang; dưới: thấy hõm ức, ngoài: thấy được bờ
ngoài cơ ức đòn chũm cùng bên (tránh làm tổn
thương bó mạch ngang cổ và đám rối thần kinh
cổ nông), trong: thấy được bờ trong cơ ức đòn
chũm đối diện, trên: bờ dưới sụn nhẫn.
Tiếp cận tuyến giáp:
- Mở dọc bờ trong cơ ức đoàn chủm cùng
bên, thấy rõ bờ dưới cơ vai móng, cơ ức giáp, cơ
ức móng.
- Mở dọc giữa bó cơ úc móng và ức giáp vào
mô tuyến giáp và bọc lộ dọc theo tuyến giáp để
thấy cực trên và dưới của tuyến giáp.
Cắt tổn thương
Dùng dao cắt đốt siêu âm Harmonic Scaple.
- Bọc lộ di động mô tuyến giáp.
- Tìm dây thần kinh quặc ngược thanh quản.
- Cắt bỏ tồn thương của tuyến giáp (bán
phần hoặc trọn thùy), chú ý tránh tổn thương
tuyến cận giáp.
Kết thúc
- Bơm rửa và kiểm tra chảy máu.
- Cho mẫu mô vào túi nylon và lấy ra ngoài
qua lỗ trocar 10.
- Ép đuổi khí trong khoang phẫu thuật.
- Đặt dẫn lưu nếu cần.
- Khâu kín vết lỗ trocar
KẾT QUẢ
Từ tháng 10/2009 đến 08/2011 tại Bệnh viện
Đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long chúng tôi có 178
bệnh nhân được phẫu thuật cắt bướu giáp lành
tính bằng phương pháp nội soi qua đường ngực
nách, gòm 176 nữ (98,88%) và 2 nam (1,12%). Có
54 trường hợp là bướu giáp đơn nhân và 124
trường hợp bướu giáp đa nhân. Tuổi của bệnh
nhân trung bình 27,7, nhỏ nhất 16 tuổi và lớn
nhất 55 tuổi.
Phương pháp phẫu thuật
Cắt trọn thùy Cắt bán phần
thùy
Tổng số
Thùy phải 64 30 94
Thùy trái 48 24 72
Hai thùy 12 12
Tổn thương đại thể.
54 (30,34%) trường hợp bướu giáp đơn nhân
124(69,66%) trường hợp bướu giáp đa nhân
Giải phẫu bệnh
Mô học Số lượng Tỉ lệ
Phình giáp keo 17 9,55
Phình giáp nhân 81 45,50
Tăng sản lành tính 53 29,77
U tuyến túi 27 15,18
Thời gian phẫu thuật
Ít nhất 40 phút, nhiều nhất 135 phút, trung
bình 55 ± 12,8 phút
Lượng máu mất
Ít nhất 0ml, nhiều nhất 40ml, trung bình 5 ±
1,3 ml
Thời gian nằm viện
Ít nhất 48 giờ, nhiều nhất 72 giờ, trung bình
50 giờ
Các biến chứng sau mổ.
Số lượng Tỉ lệ %
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 256
Khàn giọng tạm thời 03 1,68
Khàn giọng vĩnh viễn 0 -
Nhiễm trùng vết mổ 0 -
Tụ dịch 03 1,68
Bỏng da 02 1,12
Rối loạn cảm giác da 25 14,04
Chuyển mổ hở 0 -
Chảy máu hậu phẫu 0 -
Đau sau mổ (theo thang điểm VAS)
Ít Vừa Nhiều Tê bì
Tuần 1 68
(38,20%)
78
(43,82%)
32
(17,98%)
Tuần 2 123
(69,10%)
48
(26.97%)
7
(3,93%)
Sau 1
tháng
25
(14,04%)
BÀN LUẬN
Kỹ thuật
Với vị trí 3 lỗ trocar như trên, chúng tôi nhận
thấy việc tạo khoang phẫu thuật dễ dàng hơn.
Đặc biệt là khoảng cách 2 lỗ trocar hoạt động
vừa đủ để thực hiện thao tác mà không quá rộng
để làm tổn thương nhiều mô trong tạo khoang.
Ranh giới bóc tách tạo khoang là ngay mặt trên
cơ ngực lớn (mạc ngực nông) ở vùng ngực và
ngay trên mạc cổ nông ở vùng cổ. Nếu đi đúng
lớp này thì rất ít chảy máu. Một số tác giả thực
hiện theo đường ngực với 2 trocar hoạt động ở 2
bên quầng vú(4) thì diện bóc tách tạo khoang
phẫu thuật có thể sẽ rộng hơn. Một số tác giả
thực hiện hoàn toàn qua đường nách(6) thì 2 kênh
thao tác gần nhau có thể làm cho các tao tác khó
khăn hơn.
Tách dọc bó cơ ức móng và ức giáp để đi vào
mô tuyến giáp, chúng tôi nhận thấy với đường
mổ này sẽ dễ dàng tiếp cận được các bó mạch
giáp trên và dưới, cũng như là bộc lộ được toàn
bộ thùy tuyến giáp. Một số tác vào mô tuyến
giáp theo đường dọc giữa cổ, rồi sử dụng một
dụng cụ vén nhỏ được đưa qua da vùng cổ vén
nhóm cơ cổ để bộc lộ tuyến giáp(6).
Với dao cắt đốt siêu âm Harmonic, chúng tôi
nhận thấy việc thực hiện thao tác bóc tách, cắt và
đốt cầm máu mạch máu tuyến giáp dễ dàng,
nhanh chóng, ít làm tổn thương mô lân cận như
tuyến cận giáp, thần kinh
Kết quả
Đa số bướu giáp gặp trên giới nữ, trong 178
bệnh nhân của chúng tôi chì có 2 trường hợp là
nam chiếm tỉ lệ có 1,12%, tuổi trung bình 27,7.
Đối với bướu giáp đơn nhân chúng tôi cắt bán
phần thùy tuyến giáp, còn bướu giáp đa nhân
chúng tôi chọn phương pháp cắt trọn thùy tuyến
giáp.
Trong trường hợp bướu giáp đa nhân 2 thùy
thì chúng tôi siêu âm xác định rõ vị trí nhân ở 1/3
nào trên từng thùy tuyến giáp, để thực hiện cắt
bán phần 2 thùy tuyến giáp, hoặc cắt hết một
thùy và cắt bán phần thùy tuyến giáp còn lại.
Trường hợp bướu giáp đa nhân chiếm gần hết 2
thùy tuyến giáp thì chúng tôi chọn mổ mở kinh
điển để đánh giá chừa lại mô giáp lành được
chính xác hơn.
Nhờ sự phóng đại và hình ảnh rõ nét của
đèn nội soi, giúp chúng ta nhận rõ cấu trúc giải
phẫu, và việc phẫu tích đúng khoang thì rất ít bị
chảy máu. Lượng máu mất trung bình mà chúng
tôi thực hiện là 5ml. Những trường hợp gây chảy
máu nhiều là do làm tổn thương bó mạch ngang
cổ hay nhánh động mạch trước xương ức.
Chúng tôi không gặp trường hợp nào bị chảy
máu bó mạch tuyến giáp trong lúc mổ hay hậu
phẫu.
Giai đoạn đầu chúng tôi gặp khó khăn trong
việc tạo khoang và cắt thùy tuyến giáp qua nội
soi, nhất là thực hiện ở thùy bên tái (nghịch với
tay thuận), có những trường hợp chúng tôi mất
hơn 2 giờ. Nhưng càng về sau khi thao tác được
thuần thục thì thời gian mổ ngắn dần và trung
bình của một ca mổ khoảng 55 phút.
Có 02 trường hợp bị bỏng da, một là do đốt
cầm máu và một là do sẹo trên da bệnh nhân bị
dính sau đốt da điều trị bướu giáp theo phương
pháp dân gian. Cả 2 trường hợp này chúng tôi
đều cắt lọc và khâu lại da ngay sau mổ và đều
lành tốt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 257
Chúng tôi gặp 03 trường hợp bị khàn giọng
tạm thời, trong đó có 2 trường hợp phục hồi lại
giọng nói sau 3 tháng và có 1 trường hợp phục
hồi lại giọng nói sau tháng thứ 05. Không có
trường hợp nào bị nuốt sặc, không có trường
hợp nào bị hạ calci máu, không có trường hợp
nào bị suy giáp sau mổ.
Chúng tôi thực hiện đặt dẫn lưu sau mổ
trong 46 ca mổ đầu tiên, và trong số đó có 3
trường hợp tụ dịch sau mổ. Trong đó 2 trường
hợp rút dịch 2 lần và 1 trường hợp rút dịch tới
lần thư 3. Không có trường hợp nào bị nhiễm
trùng vết mổ.
So với mổ hở kinh điển thì mổ bướu giáp nội
soi có diện bóc tách rộng hơn. Do đó vấn đề đau
sau mổ được chúng tôi theo dõi và đánh giá liên
tục tuần thứ nhất, tuần thư hai và tuần thứ 4
tuần sau mổ theo thang điểm 10 (thang điểm
VAS). Với kết quả; Tuần thứ nhất đa số bệnh
nhân đau ở mức độ trung bình chiếm 43,82%,
đau ít chiếm 38,20% và đau nhiều chiếm 17,98%;
Tuần thứ 2 thì đau ít chiếm đa số với 69,19%,
đau trung bình chỉ còn 26,97%, và đau nhiều còn
lại 3,93%. Tuy nhiên vấn đề cảm giác tê bì hoặc
mất cảm giác da của bệnh nhân sau 1 tháng
chiếm 14,04%.
KẾT LUẬN
Qua 178 trường hợp mổ bướu giáp lành tính
qua nội soi, chúng tôi nhận thấy đây là phương
pháp khả thi, an toàn và hiệu quả, có ưu điểm
lớn là về mặt thẩm mỹ. Với hình ảnh phóng đại
của đèn soi, với dung cụ dao cắt đốt siêu âm
Harmonic, việc bóc tách, cắt, đốt cầm máu được
thực hiện an toàn, tránh làm tổn thương mô lân
cận, ít bị nhiễm trùng, thời gian nằm viện ngắn
và bệnh nhân hài lòng với phương pháp mổ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chantavibul J (2003). Laparoendosc Adv Surg Tech.; 13 (5);
295 – 299
2. Gagner M (1996). Endoscopic subtotal parathyroidectomy in
patients with primary hyperparathyroid. Br J Surg., 83; 875
3. Ikeda Y et al (2000). Endoscopic neck surgery by the axillary
approach. J Am Coll Surg., 191; 336 – 340
4. Liu S et al (2009). A new technique for the retractionof the
sternohyoid muscle in endoscopic thyroidectomy by the
breast approach. 9th Asia Pacific Congress of endoscopic
surgery. Xiamen; 62.
5. Sung K, Lee J.H. Single incision endoscopic thyroidectomy for
mico-papilary carcinoma.
6. Suthep Uldomsawaeng et al (2009). Blunt thyroid space
creation: a tool to facilitate transaxillary endoscopic
thyroidectomy. 9th Asia Pacific Congress of endoscopic
surgery. Xiamen; 64.
7. Trần Ngọc Lương và CS (2008). Kinh nghiệm cá nhân của 750
trường hợp cắt tuyến giáp nội soi. Kỹ yếu Hội nghị ngoại
khoa và phẫu thuật nội soi; 68
8. Trịnh Minh Tranh và CS (2008). Điều trị cường giáp bằng
phẫu thuật nội soi nhân 9 trường hợp. Kỷ yếu Hội nghị ngoại
khoa và phẫu thuật nội soi; 76.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_buou_giap_lanh_tinh_bang_noi_soi.pdf