Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt túi mật một đường mổ 2 Trocar so với 3 Trocar kinh điển

Khó khăn Khi tiến hành phương pháp cắt túi mật qua ngã nội soi ổ bụng, sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn so với cắt túi mật nội soi kinh điển với 3 trocar, chúng tôi nhận thấy một số khó khăn như: Phẫu thuật viên chỉ có thể sử dụng một tay để thao tác bóc tách tam giác gan mật, trong những trường hợp viêm túi mật cấp, vùng tam giác gan mật bị viêm dính nhiều, thì việc bóc tách sẽ gặp nhiều khó khăn làm kéo dài thời gian phẫu thuật. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có 1 trường hợp viêm dính vùng tam giác gan mật nhiều, phẫu tích khó khăn nên thời gian phẫu thuật kéo dài tới 180 phút. Một số trường hợp, khi khâu treo túi mật, phẫu thuật viên nhận thấy có dịch mật chảy ra, làm giảm độ căng của túi mật, khó bộc lộ tam giác gan mật, khó khăn trong thao tác phẫu thuật.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt túi mật một đường mổ 2 Trocar so với 3 Trocar kinh điển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 197 KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TÚI MẬT MỘT ĐƯỜNG MỔ 2 TROCAR SO VỚI 3 TROCAR KINH ĐIỂN Nguyễn Thanh Phong* TÓM TẮT Mở đầu: Ngày nay, phẫu thuật nội soi cắt túi mật kinh điển 3 trocar thường được dùng để điều trị bệnh lý túi mật tại các bệnh viện. Có nhiều nghiên cứu sử dụng 1 đường mổ ở rốn để cắt túi mật nhưng hầu hết các nghiên cứu này đều sử dụng các dụng cụ phẫu thuật chuyên biệt không hiện có tại các bệnh viện. Mục tiêu nghiên cứu: nhằm so sánh kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi cắt túi mật sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn với cắt túi mật nội soi kinh điển 3 trocar. Đối tượng- Phương pháp: Từ tháng 8/2010 đến tháng 6/2013, chúng tôi thực hiện 91 trường hợp cắt túi mật qua ngã nội soi chia thành 2 nhóm: nhóm sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn (45 bệnh nhân) và nhóm sử dụng kỹ thuật kinh điển với 3 trocar (46 bệnh nhân). Thời gian mổ, mức độ đau sau mổ, tai biến – biến chứng, thời gian hậu phẫu, tính thẩm mỹ và tỉ lệ thành công được so sánh giữa 2 nhóm. Kết quả: các dữ kiện dịch tễ được so sánh giữa 2 nhóm. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về thời gian mổ, tai biến – biến chứng, thời gian hậu phẫu, tính thẩm mỹ và tỉ lệ thành công giữa 2 nhóm.Cả 2 nhóm đều ít đau sau mổ. Kết luận: Cắt túi mật qua ngã nội soi với 1 đường rạch da qua rốn, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng tại bệnh viện thì ít sẹo mổ, thẩm mỹ và ít đau. Là phẫu thuật an toàn, hiệu quả và là một trong những chọn lựa cho phẫu thuật viên đã quen thuộc với phẫu thuật nội soi với 2 trocar. Từ khóa: cắt túi mật qua nội soi, 2 trocar, 1 đường rạch da ở rốn. ABSTRACT COMPARE EARLY RESULTS TWO- TROCAR SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY (SILC) WITH CLASSICAL 3- TROCAR TECHNIQUE Nguyen Thanh Phong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 197 - 202 Background: For now classical 3- trocar technique laparoscopic cholecystectomy are usually used to treatment of gallbladder disease in almost hospital. Many of the studies have reported using of single incision perumbilical technique, but most of them required special instruments. The aim of the study: compare the early results of 2- trocar single incision laparoscopic cholecystectomy perumbilical by using standard instruments to classical 3- trocar technique. Methods: From August 2010 to June 2013, 91 patients undergoing laparoscopic cholecystectomy for gallbladder disease were divided into two groups: received the 2 - trocar single incision laparoscopic cholecystectomy (45 cases) or classical 3- trocar technique (46 cases). Analgesia requirements, length of operation, morbidity –mortality, pain level, postoperative stay and success rate were measured. Results: Demographic data were comparable for both groups. There was no difference between two groups in length of operation time, postoperative stay and success rate. The 2 -trocar group required less analgesia. Conclusion: The 2 -trocar laparoscopic cholecystectomy resulted in less surgical scars, good cosmetic and less pain. The 2 -trocar laparoscopic cholecystectomy is a technically efficient, safety and can be considered one of * Bệnh viện Bình Dân Tác giả liên lạc: PGS TS. Nguyễn Thanh Phong ĐT: 0903 643 310 Email: phongy89@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 198 choices for routine practice by surgeons who are familiar with the 2- trocar laparoscopic surgery technique. Key words: Laparoscopic cholecystectomy, two-trocar single incision. ĐẶT VẤN ĐỀ Cắt túi mật nội soi được Philippe Mouret tiến hành đầu tiên tại Pháp vào 1987, cho đến nay đó là một tiêu chuẩn vàng để điều trị bệnh lý túi mật tại các bệnh viện. Cắt túi mật nội soi 1 đường mổ (SILC) ngày càng phổ biến trên thế giới vì đây là phương pháp ít xâm hại và là phẫu thuật không thấy sẹo mổ. Mục tiêu nghiên cứu So sánh kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi cắt túi mật sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn so với cắt túi mật nội soi kinh điển 3 trocar. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được xác định cần phải phẫu thuật và chấp nhận phẫu thuật nội soi cắt túi mật tại khoa cấp cứu bệnh viện Bình Dân, từ tháng 8/2010 đến 6/2013. Xét nghiệm chức năng gan trong giới hạn bình thường, không dãn đường mật trong và ngoài gan và không sỏi đường mật chính trên siêu âm. Tình trạng toàn thân của bệnh nhân không có chống chỉ định phẫu thuật nội soi. Tiêu chuẩn loại trừ Viêm túi mật cấp có biến chứng: hoại tử túi mật, viêm phúc mạc mật, ung thư túi mật. Chia thành 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu (2-trocar): sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn, được phẫu thuật bởi cùng 1 kíp mổ. Nhóm chứng (3-trocar): sử dụng kỹ thuật kinh điển với 3 trocar, được phẫu thuật bởi cùng 1 kíp mổ. Phương pháp nghiên cứu Tiền cứu mô tả có nhóm chứng. KẾT QUẢ Từ tháng 8/2010 đến tháng 6/2013 có 91 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, chia làm 2 nhóm Bảng 1. Dịch tễ học Nhóm nghiên cứu (n=45) Nhóm chứng (n=46) p Tuổi: Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 48 27 79 46 25 78 >0,05 Giới : Nữ Nam 36 9 37 9 >0,05 BMI: Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 20,6 15,8 25 22,2 16,2 26 >0,05 Sự khác biệt về yếu tố dịch tễ giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Bảng 2. Thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Thời gian phẫu thuật Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 60,4 30 180 54,2 25 62,4 >0,05 Thời gian nằm viện Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 2 1 15 2,1 2 3 >0,05 Sự khác biệt về thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Bảng 3. Chẩn đoán sau mổ Chẩn đoán Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Viêm túi mật sỏi kẹt cổ 11(22,4%) 1(2,2%) <0,05 Sỏi túi mật có triệu chứng 30(66,7%) 45(97,8%) Polyp túi mật 2(4,4%) 0 Viêm túi mật không sỏi 2(4,4%) 0 Nhóm nghiên cứu có tỉ lệ sỏi kẹt cổ túi mật cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 199 Bảng 4. Tỉ lệ thành công Chẩn đoán Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng Tỉ lệ (%) Số trường hợp mổ thành công 39(86,7%) 46(100%) >0,05 Số trường hợp đặt thêm 01 trocar 6(13,3%) 0 <0,05 Số trường hợp chuyển mổ mở 0 0 Tỉ lệ thành công 86,8% 100% >0,05 Đặt dẫn lưu 9(19,8%) 12(26,1%) <0,05 Nhóm nghiên cứu có tỉ lệ đặt dẫn lưu sau mổ thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05 Trong nhóm nghiên cứu có 6 (13,2%) trường hợp thêm trocar hạ sườn phải trong đó 1 (2,2%) trường hợp thêm để giúp cầm máu giường túi mật sau mổ, 5 (11%) trường hợp thêm trocar để đặt dẫn lưu sau mổ do thủng túi mật khi cắt giường túi mật. Tỉ lệ thành công của nhóm nghiên cứu thấp hơn nhóm chứng nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bảng 5. Tai biến Tai biến Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Thủng túi mật 5(11%) 12(26,1%) >0,05 Chảy máu 1(2,2%) 0 Tổn thương đường mật 0 0 Tổn thương tạng khác 0 0 Nhận thấy: trong nhóm nghiên cứu có 5 trường hợp thủng túi mật, chiếm tỉ lệ 11% (có thấp hơn trong nhóm chứng 12(26,1%) th, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Có 1 (2,2%) trường hợp chảy máu giường túi mật và cầm máu khó khăn nên chúng tôi thêm 01 trocar hạ sườn phải để cầm máu. Bảng 6. Biến chứng Tổn thương Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Tụ dịch dưới gan 1(2,2%) 0 >0,05 Không tụ dịch 44(97,8%) 46(100%) >0,05 Chúng tôi ghi nhận không có trường hợp nào tổn thương đường mật hoặc nhiễm trùng vết mổ. Biến chứng: trong nhóm nghiên cứu có 1 (2,2%) trường hợp tụ dịch dưới gan điều trị nội thất bại mổ lại dẫn lưu qua nội soi, dịch là máu cũ, bệnh nhân ổn định và xuất viện. Sự khác biệt tỉ lệ biến chứng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Không có tử vong Bảng 7. Kết quả giải phẫu bệnh Thương tổn Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Viêm túi mật cấp 13(29,6%) 12(26,1%) >0,05 Viêm túi mật mạn 30(66%) 34(73,9%) >0,05 polyp túi mật 2(4,4%) 0 Bảng 8. Mức độ đau sau mổ 24h. Mức độ đau Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Đau vừa 44 (97,8%) 34 (73,9%) <0,05 Đau nhiều 1(2,2%) 12(26,1%) <0,05 Mức độ đau vừa trong nhóm nghiên cứu cao hơn nhóm chứng (có ý nghĩa thống kê với p<0,05) và mức độ đau nhiều trong nhóm nhóm chứng cao hơn nghiên cứu (có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Bảng 9. Mức độ hài lòng của bệnh nhân. Sự hài lòng Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p Rất tốt 38 (84,6%) 16(34,8%) <0,05 Tốt 6(13,2%) 30(65,2%) <0,05 Trung bình 1(2,2%) 0 BÀN LUẬN Chọn lựa bệnh nhân (BN) Trong nghiên cứu của chúng tôi có 45 BN mổ một vết mổ và 46 BN mổ ba vết mổ. So sánh giữa hai nhóm mổ 1 vết mổ và 3 vết mổ, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các yếu tố dịch tễ, chẩn đoán. Điều đó cho thấy hai mẫu bệnh nhân tương đồng Thời gian mổ Bảng 10. So sánh thời gian mổ (phút) Cách mổ Trung bình Ngắn nhất Dài nhất Steven (2) 2 trocar+ Flexible Endoscope 149,5 99 240 Sang Chul Lee (11) SILA-triport 110 Xiaodong Han (7) SILA-3 trocar 69 45 115 Xu Jun (19) SILA-triport 56 26 170 Lê Công Khánh (9) Kính soi PT 52 25 95 Bùi Mạnh Côn (3) SILA-3 trocar 60 Chúng tôi Nhóm chứng- 3 trocar 54,2 25 62,4 2 trocar- SILA 60,4 30 180 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 200 Thời gian mổ trung bình trong nhóm nghiên cứu là là 60,4 phút lâu hơn thời gian mổ của nhóm chứng là 54,2 phút. Thời gian mổ trung bình tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như phương pháp mổ, dụng cụ mổ và thể viêm túi mật. Một số tác giả đã nghiên cứu so sánh và đa số đều cho thấy thời gian mổ một vết mổ bằng hoặc ngắn hơn so với mổ 3 vết mổ(16). Có 3 nghiên cứu cho thấy thời gian mổ một vết mổ ngắn hơn có ý nghĩa thống kê(11,2,7) Có 3 nghiên cứu cho thấy thời gian mổ một vết mổ dài hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê(3,9,19). Trong các nghiên cứu này theo Poon(17) có thời gian mổ trung bình theo phương pháp nội soi một vết mổ lâu hơn so với nội soi ba vết mổ truyền thống rõ rệt và nghiên cứu được thực hiện trên BN bị viêm túi mật do sỏi kẹt cổ. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 11 (22,4%) th viêm túi mật do sỏi kẹt cổ gây viêm dính nhiều vùng cổ túi mật, khó khăn khi bóc tách tam giác gan mật nên thời gian mổ có kéo dài hơn so với nhóm mổ 3 trocar kinh điển chỉ có 1 (2,2%) th viêm túi mật do sỏi kẹt cổ. Ngày nay với sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nhiều dụng cụ chuyên biệt phục vụ cho mổ một vết mổ ra đời càng giúp rút ngắn thời gian mổ. Tuy nhiên điều quan trọng nhất vẫn là sự an toàn cho BN, không nên quá chú ý về vấn đề thời gian. Tỉ lệ thành công Tỉ lệ viêm túi mật cấp trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 29,6%, nhiều hơn trong nhóm chứng là 26,1% và một số tác giả khác. Theo nghiên cứu của Đỗ Hữu Liệt(5) tỉ lệ viêm túi mật cấp là 12%. Trong nghiên cứu của Roberts(18), tỉ lệ viêm túi mật cấp là 9%. Tỉ lệ viêm túi mật cấp trong nghiên cứu của chúng tôi cao có thể do số lượng bệnh nhân ít, đồng thời chúng tôi thực hiện tại khoa cấp cứu với tính chất bệnh nhân vào viện vì đau bụng hoặc viêm túi mật cấp. Tác giả Navara(14) nghiên cứu cắt túi mật nội soi một vết mổ có tỉ lệ viêm túi mật cấp là 25%. Antonious(1) cho rằng nếu loại trừ viêm túi mật cấp thì có tỉ lệ thành công lớn hơn. Kagaya(8) cũng không chỉ định mổ đối với túi mật có vách dầy trong nghiên cứu của mình, có 37 trường hợp mổ thành công với 2 trocar, 3 trường hợp phải thêm 1 trocar 5mm ở hạ sườn phải do gặp khó khăn trong việc phẫu tích túi mật ra khỏi giường túi mật. Chúng tôi có 66% trường hợp trong nhóm nghiên cứu vách túi mật dày do viêm túi mật mạn nên khó khăn khi cắt giường túi mật. Bảng 11. So sánh tỉ lệ mổ thành công Tác giả Số bệnh nhân Tỉ lệ thành công (%) Đỗ Hữu Liệt (5) 60 98 Poon (17) 58 87 Leung (12) 62 84 Lomanto (13) 30 83 Nhóm chứng Nhóm nghiên cứu 46 100 45 86,8 Tỉ lệ thành công trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi tương tự một số tác giả khác, tỉ lệ này khá cao, một phần là do một phẫu thuật viện có nhiều kinh nghiệm về phẫu thuật nội soi thực hiện. Tuy nhiên, khi so với nhóm chứng là (100%) có thấp hơn nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Chúng tôi có 6 (13,2%) trường hợp phải tiến hành thêm 1 trocar hạ sườn phải trong đó có 1 (2,2%) trường hợp do chảy máu giường túi mật nên thêm 1 trocar để cầm máu tốt hơn. Các trường hợp này chúng tôi tính là thất bại. Trong nghiên cứu của Đỗ Hữu Liệt(5) có 1 trường hợp thất bại phải thêm 1 trocar 5mm ở hạ sườn phải do túi Hartman quá to, hạ phân thùy IV gan to che khuất tầm nhìn. Theo Edwards(6), nguyên nhân chuyển đổi phẫu thuật thường là do viêm dính nhiều, khó khăn trong nhận định cấu trúc tam giác gan mật. Thời gian nằm viện Bảng 12. So sánh thời gian nằm viện sau mổ Thời gian (ngày) Cách mổ Trung bình Ngắn nhất Dài nhất Steven (2) 2 trocar+ Flexible Endoscope 0,36 1 2 Sang Chul Lee (11) SILA-triport 2 Xiaodong Han (7) SILA-3 trocar 1,7 1 3 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 201 Thời gian (ngày) Cách mổ Trung bình Ngắn nhất Dài nhất Xu Jun (19) SILA-triport 3 1 5 Lê Công Khánh (9) Kính soi PT <2 Bùi Mạnh Côn (3) SILA-3 trocar 1-2 Chúng tôi Nhóm chứng- 3 trocar 2,1 2 3 Nhóm nghiên cứu - 2 trocar- SILA 2 1 5 Thời gian nằm viện của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi thì tương tự với nhóm chứng và với các tác giả khác. Có 3 nghiên cứu so sánh cho thấy thời gian nằm viện trong nhóm mổ một vết mổ ngắn hơn so với nhóm mổ 1 vết mổ của chúng tôi nhưng không có ý nghĩa thống kê(7,9,2). Dựa vào kết quả của những nghiên cứu so sánh được công bố thì phương pháp mổ một vết mổ không làm rút ngắn thời gian nằm viện của BN, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Dẫn lưu Trong nghiên của chúng tôi có 9(19,8%) trường hợp được dẫn lưu trong nhóm mổ một vết mổ và 12(26,1%) trường hợp được dẫn lưu trong nhóm chứng- ba vết mổ và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Trong 9 trường hợp dẫn lưu trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 5(11%) trường hợp do thủng túi mật khi cắt giường túi mật, những trường hợp này chúng tôi hút rửa và lau sạch, sau đó đặt dẫn lưu dự phòng, dẫn lưu được rút sau 24 giờ. Kết quả các trường hợp này đều hồi phục tốt giống những trường hợp bình thường. Nguyên nhân thủng do những trường hợp đầu tiên trong nghiên cứu, thao tác chưa quen, chạm móc đốt vào túi mật khi cắt giường túi mật. Đặc điểm trước mổ và giải phẫu bệnh của hai nhóm bệnh nhân là tương đồng nhau nên sự khác biệt về số trường hợp được dẫn lưu ở hai nhóm có thể do chủ quan của phẫu thuật viên khi mổ một vết mổ. Theo Poon(17) các phẫu thuật viên có xu hướng bảo vệ thành quả của phương pháp mổ một vết mổ qua việc hạn chế dẫn lưu. Một số tác giả đề nghị khi cần dẫn lưu thì nên dẫn lưu ngoài rốn hoặc ngay cả ở đường mổ rốn mặc dù gây lành sẹo xấu ở rốn(4). Edwards(6) đề xuất nên đặt dẫn lưu ở hạ sườn phải với đường mổ từ 3-5mm để đảm bảo thẩm mỹ vết mổ ở rốn. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 3 (6,6%) trường hợp đặt dẫn lưu dự phòng qua rốn và rút ngày hậu phẫu 1, sau mổ bệnh nhân tái khám sẹo mổ lành tốt. Tai biến, biến chứng Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào tổn thương đường mật hay tổn thương tạng. Chúng tôi có 1 trường hợp trong nhóm nghiên cứu chảy máu giường túi mật phải thêm 1 trocar hạ sườn phải để cầm máu. Bảng 13. So sánh tỉ lệ thủng túi mật Tác giả Số bệnh nhân Tỉ lệ thủng túi mật (%) Đỗ Hữu Liệt (5) 60 2 Navara (14) 12 5 Xiaodong Han (7) 26,6 Nhóm chứng 46 26,1 Nhóm nghiên cứu 45 11 Chúng tôi có 5 (11%) trường hợp thủng túi mật khi cắt giường túi mật trong nhóm nghiên cứu, chảy dịch mật vào ổ bụng nhưng sau khi hút rửa, lau sạch và đặt dẫn lưu thì không có biến chứng hậu phẫu. Theo Robert(18), kinh nghiệm của phẫu thuật viên là yếu tố duy nhất làm giảm nguy cơ thủng túi mật trong mổ. Một số tác giả không dùng phương tiện treo túi mật báo cáo tỉ lệ thủng túi mật khá cao, trong nghiên cứu của Xiaodong Han(7) là 26,6%. Như vậy tỉ lệ thủng túi mật trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là tương đối thấp so với nhóm chứng và với các tác giả khác(7). Sự thành công của phẫu thuật nội soi cắt túi mật ngày càng được nhiều phẫu thuật viên chấp nhận và đã góp phần làm giảm đáng kể tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ, thoát vị thành bụng và biến chứng hô hấp(19). Tuy nhiên bên cạnh đó phẫu thuật nội soi cắt túi mật cũng có thiếu sót như tổn thương đường mật, và nhiều tổn thương liên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 202 quan đến trocar(14). Vì vậy việc giảm số trocar sẽ làm giảm biến chứng liên quan đến trocar. Khó khăn Khi tiến hành phương pháp cắt túi mật qua ngã nội soi ổ bụng, sử dụng 2 trocar qua 1 đường rạch da ở rốn so với cắt túi mật nội soi kinh điển với 3 trocar, chúng tôi nhận thấy một số khó khăn như: Phẫu thuật viên chỉ có thể sử dụng một tay để thao tác bóc tách tam giác gan mật, trong những trường hợp viêm túi mật cấp, vùng tam giác gan mật bị viêm dính nhiều, thì việc bóc tách sẽ gặp nhiều khó khăn làm kéo dài thời gian phẫu thuật. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có 1 trường hợp viêm dính vùng tam giác gan mật nhiều, phẫu tích khó khăn nên thời gian phẫu thuật kéo dài tới 180 phút. Một số trường hợp, khi khâu treo túi mật, phẫu thuật viên nhận thấy có dịch mật chảy ra, làm giảm độ căng của túi mật, khó bộc lộ tam giác gan mật, khó khăn trong thao tác phẫu thuật. KẾT LUẬN Cắt túi mật qua ngã nội soi với 1 đường rạch da qua rốn, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội soi thường dùng tại bệnh viện thì ít sẹo mổ, thẩm mỹ và ít đau. Là phẫu thuật an toàn, hiệu quả và là một trong những chọn lựa cho những phẫu thuật viên đã quen thuộc với phẫu thuật nội soi với 2 trocar. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Antonious SA, et al (2011). Single-incision laparoscopic cholecystectomy: a systematic review. Surg Endosc. 25(2): 367- 377. 2. Binenbaum SJ1, Teixeira JA, Forrester GJ, Harvey EJ, Afthinos J, Kim GJ, Koshy N, McGinty J, Belsley SJ, Todd GJ. (2009). Single-Incision Laparoscopic Cholecystectomy Using a Flexible Endoscope. Arch Surg (8):734-738 3. Bùi mạnh Côn, Lê Quang Nghĩa, Lương Thanh Tùng (2010). Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một vết mổ vào ổ bụng (LESS- LAPAROENDOSCOPIC SINGLE-SITE SURGERY), Ngoại khoa số 4-5-6, trang 133-139. 4. Cuesta MA, Berends F, Veenhof AA (2008). “The “invisible cholecystectomy”: a transumbilical laparoscopic operation without a scar,” Surgical Endoscopy, vol.22, no.5, pp. 1211– 1213. 5. Đỗ Hữu Liệt, Nguyễn Tấn Cường (2008). Cắt túi mật nội soi với hai trocar. Y Hoc TP. Ho Chi Minh. Tập 12 (1): 199 – 203. 6. Edwards C (2011). Laparoscopic versus single-incision cholecystectomy. World J Surg. 35(5):967-972. 7. Han X, Di JZ, et al (2010). Trans-umbilical single-port laparoscopic cholecystectomy using conventional laparoscopic instrumentation. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam 2010. 243- 244. 8. Kagaya T (2001). Laparoscopic cholecystectomy via two ports, using the "Twin-Port" system. J Hepatobiliary Pancreat Surg. 8(1):76-80. 9. Lê Công Khánh, Trần Đình Minh Tú, Nguyễn Bảo Xuân Thanh (2010). Cắt túi mật nội soi một trocar với kính nội soi phẫu thuật ngọai khoa. Y học Việt Nam, Tập 60 : 7- 12 10. Lee K, Poon C, Leung K (2005). Two-port needlescopic cholecystectomy: prospective study in 100 cases. Hong Kong Med J.11:30–35. 11. Lee SC, Kim HJ, Cho H (2010). Single port laparoscopic (SPLS) cholecystectomy in the status of previous SPLS-APR: report of 1 case. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam. 236 12. Leung K, Lee KW, Cheung TY, Leung LC, Lau KW (1996). Laparoscopic cholecystectomy: two-port technique. Endoscopy; 28: 505–507. 13. Lomanto (2013). Single-port endo-laparoscopic surgery in combined abdominal procedures. Asian Journal of Endoscopic Surgery . 6(3): 209-213. 14. Navarra G, Pozza E, Occhionorelli S, (1997). One-wound laparo- scopic cholecystectomy. Br J Surg. 84(5):695 15. Ng W, Kong C, Wong Y (1997). One-wound laparoscopic cholecystectomy. Br J Surg. 84: 1627. 16. Poon C , Chan K, Lee D, Chan K (2003). Two-port vs four-port laparascopic cholecystectomy: A prospective randomized controlled trial. Surg Endosc; 17:1624–1627. 17. Poon C, Chan K, Lee D, Chan K (2003). Two-port vs four-port laparascopic cholecystectomy: A prospective randomized controlled trial. Surg Endosc; 17:1624–1627. 18. Roberts KE (2010). Single-Incision Laparoscopic Cholecystectomy: A Surgeon’s Initial Experience with 56 Consecutive Cases and a Review of the Literature. Journal of Gastrointestinal Surgery, 14(3): 506-551 19. Xu J, Wang Z, Guan Y (2010). Single incision laparoscopic cholecystectomy using a novel laparoscopic instrument with adjustable and rotatable wrist. Abstracts ELSA 2010 Viet Nam 2010. 243- 244. Ngày nhận bài báo: 07/11/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_buoc_dau_phau_thuat_noi_soi_cat_tui_mat_mot_duong_mo.pdf
Tài liệu liên quan