Vai trò của nội soi ổ bụng trong chẩn đoán
và xử trí các đau bụng cấp không đặc hiệu đã
được Paterson mô tả(11), qua nội soi giúp thám sát
toàn bộ ổ bụng thuận lợi hơn nhiều so với đường
McBurney khi mổ những bệnh nhân nghi ngờ bị
viêm ruột thừa. Nội soi vừa mục đích chẩn đoán
và điều trị.
Nếu không phát hiện bất cứ tạng nào trong ổ
bụng bị thương tổn mà lại có dịch hồng trong ổ bụng
thì nên kiểm tra mạc nối lớn có bị nhồi máu không.
Chúng tôi có 5 (41,7%) th khi nội soi ổ bụng phát
hiện có dịch hồng do mạc nối lớn bị xoắn 1 phần.
Phẫu thuật nội soi cắt bỏ mảng mạc nối bị
nhồi máu ít biến chứng và rút ngắn thời gian hồi
phục của bệnh nhân(5). Trong khi nội soi ổ bụng
chúng tôi còn phát hiện 7 (58,3%) th một phần
mạc nối lớn phù nề hoại tử dính với thành bụng
vùng hố chậu phải và mảng hoại tử này được cắt
và bỏ vào bao lấy ra ngoài qua trocar rốn.
Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng apxe mạc nối
lớn có thể phát xuất từ sang thương của đại tràng
hay dạ dày sát bên và có thể có hình ảnh giống
như nhồi máu mạc nối lớn(10). Cho nên, phẫu thuật
nội soi thám sát là phương pháp an toàn nhất
trong những trường hợp này và cần phải thám sát
kỹ toàn bộ ổ bụng để tránh bỏ sót thương tổn.
Do bệnh này chỉ được chẩn đoán khi phẫu
thuật mở bụng hay nội soi ổ bụng mà đường
rạch da thường giới hạn ở hố chậu phải nên gây
khó khăn khi đánh giá thương tổn, vì vậy khi
cần thiết có thể mở rộng hay mổ thêm đường mổ
bổ sung để cắt bỏ mảng hoại tử(5). Chúng tôi
không có trường hợp nào phải thêm trocar hay
chuyển sang mổ mở.
Kết quả sau mổ không có biến chứng và
bệnh nhân xuất viện trung bình vào ngày hậu
phẫu thứ ba.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 62 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi điều trị nguyên nhân đau hố chậu phải hiếm gặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 187
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ
NGUYÊN NHÂN ĐAU HỐ CHẬU PHẢI HIẾM GẶP
Nguyễn Thanh Phong*
TÓM TẮT
Mở đầu: Phẫu thuật nội soi đã chứng minh có hiệu quả trong chẩn đoán và xử trí nguyên nhân đau hố chậu
phải. Trong đó nhồi máu mạc nối lớn là nguyên nhân hiếm gặp ở bệnh nhân đau bụng cấp có biểu hiện lâm sàng
giống như viêm ruột thừa.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm nêu kinh nghiệm bước đầu của phẫu thuật nội soi trong chẩn đoán và xử trí
nguyên nhân đau hố chậu phải hiếm gặp.
Đối tượng- Phương pháp: Hồi cứu các trường hợp phẫu thuật nội soi điều trị nhồi máu mạc nối lớn cho 12
bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng giống viêm ruột thừa cấp tại khoa cấp cứu bệnh viện Bình Dân từ tháng
1/2010 đến tháng 8/2013.
Kết quả: có 12 bệnh nhân bao gồm 3 nam và 9 nữ, tuổi trung bình 38 (thay đổi từ 27 đến 58 tuổi). Chỉ
số BMI> 25 ở 10(83.3 %) bệnh nhân. Biểu hiện lâm sàng gồm: đau hố chậu phải 100% trường hợp, phản
ứng thành bụng 10 (83,3%) th và 2 (16,7%) th có mass hố chậu phải. Về cận lâm sàng, 33,3% th có bạch
cầu tăng trên 10000/mm3. Siêu âm bụng nghi ngờ có bất thường ở hố chậu phải 5 (41,7%) th, trong khi CT
scan bụng được thực hiện ở 1 (8,3%) th nhưng không giúp cho chẩn đoán. Có 2 (16,7%) bệnh nhân có tiền
căn mổ bụng. Tất cả đều được mổ nội soi cắt bỏ mạc nối lớn hoại tử trong đó có 10 (83,3%) kèm cắt ruột
thừa. Nội soi ổ bụng giúp chẩn đoán chính xác bệnh. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 3,1 ngày.
Không có biến chứng và tử vong.
Kết luận: Nội soi ổ bụng thì an toàn và hiệu quả trong điều trị nhồi máu 1 phần mạc nối lớn vô căn có tỉ lệ
biến chứng thấp. Với sự áp dụng ngày càng nhiều phẫu thuật ít xâm hại, ngày càng có nhiều ca được chẩn đoán
và điều trị. Chúng tôi muốn nhấn mạnh tính khả thi của nội soi ổ bụng trên bệnh nhân đau hố chậu phải trong
chẩn đoán và điều trị.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi điều trị, nhồi máu mạc nối lớn, nguyên phát, đau hố chậu phải.
ABSTRACT
EARLY RESULTS OF LAPAROSCOPIC TREATMENT IN A RARE RIGHT LOWER QUADRANT PAIN
CAUSE
Nguyen Thanh Phong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 187 - 192
Background: Laparoscopic approach was showed the effective in managing of right lower quadrant pain in
patients whose the infarction of greater omentum were one of rare acute abdominal pain may present with various
signs and symptoms mimic acute appendicitis.
The aim of the study: We report our early laparoscopic experiences in diagnosis and management a rare
right lower quadrant pain cause.
Methods: From January 2010 to August 2013, we performed 12 laparoscopic management of the infarction
of greater omentum in emergency department at Binh Dan hospital for the patients who were indicated for
laparoscopic appendectomy.
Results: There were 12 patients including three (25%) men and nine (75 %) women, mean age 38 (27 to 58)
* Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: PGS TS. Nguyễn Thanh Phong ĐT: 0903 643 310 Email: phongy89@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 188
years; BMI > 25 in 10 (83.3%) patients. Clinical manifestations were included: right lower quadrant pain 100%
patients, abdominal tenderness 10 (83.3%) cases and 2 (16.7%) cases with a palpable mass in right lower
quadrant abdomen. In paraclinical data, WBC above 10000/mm3 was noticed in 33.3% of cases. Abdominal
ultrasound was suspicion about abnormal image in right lower quadrant pain in 41.7%, while CT scan was done
in 1 patient but incorrect diagnosis. Two (16.7 %) patients got previous surgery. All patients were suffered from
laparoscopic surgery to remove the affected omentum segment, in which 10 (83.3%) cases were accompanied with
appendectomy. All cases diagnosis was made by laparotomy. The median hospital stay was 3.1 days, and no
complication and death were seen.
Conclusion: Laparoscopic approach is safe and effective in managing primary segmental infarction of greater
omentum and is associated with low morbidity. With the popularity of minimal invasive laparoscopic surgery,
more cases are being diagnosed and treated. We would like to emphasize the usefulness of laparoscopy in patients
with right lower quadrant pain in both diagnostic as well as therapeutic.
Key words: Laparoscpic treatment, infarction of the greater omentum, right lower quarand pain.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhồi máu 1 phần mạc nối lớn vô căn là
nguyên nhân hiếm gặp của đau bụng cấp. Từ
khi bệnh được mô tả lần đầu bởi Bush(1) vào năm
1896, cho đến nay vẫn chưa xác định được
nguyên nhân vì sao mạc nối lớn bên phải bị
nhiều nhất (chiếm 90% trường hợp).
Triệu chứng lâm sàng giống như viêm ruột
thừa trong hầu hết các trường hợp(9). Mặc dù có
các phương tiện chẩn đoán hình ảnh mới như
siêu âm và CTscan, chẩn đoán xác định bệnh
thường là khi mổ.
Vai trò của nội soi ổ bụng trong chẩn đoán
và xử trí các đau bụng cấp không đặc hiệu đã
được Paterson nhấn mạnh trong nghiên cứu của
mình(11), qua nội soi giúp thám sát toàn bộ ổ
bụng thuận lợi hơn nhiều so với đường
McBurney khi mổ cho những bệnh nhân nghi
ngờ bị viêm ruột thừa. Nội soi vừa mục đích
chẩn đoán và điều trị.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm nêu kinh nghiệm bước đầu của phẫu
thuật nội soi trong chẩn đoán và xử trí nguyên
nhân đau hố chậu phải hiếm gặp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả trường hợp chẩn đoán trước mổ là
viêm ruột thừa và chấp nhận phẫu thuật bằng
phương pháp mổ nội soi cắt ruột thừa nhưng khi
mổ phát hiện nhồi máu mạc nối lớn tại khoa hồi
sức cấp cứu Bệnh Viện Bình Dân từ tháng
1/2010 đến 8/ 2013.
Tình trạng toàn thân của bệnh nhân không
có chống chỉ định phẫu thuật nội soi.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Dụng cụ
Các dụng cụ nội soi cắt ruột thừa thường
dùng tại bệnh viện.
Thao tác thực hành:
Kỹ thuật mổ
Buớc 1: Bố trí phòng mổ: màn hình, nguồn
sáng, bơm hơi và đốt điện bên phải bàn mổ.
Bệnh nhân nằm đầu cao nghiêng T, Phẫu thuật
viên bên trái và phụ mổ bên phải bàn mổ.
Buớc 2: Đường rạch da qua rốn dài 1 cm.
Bước 3: Đặt trocar: trocar đầu tiên 10mm
bơm hơi khí CO2 với áp lực 10 -15 mmHg. Thám
sát toàn bộ ổ bụng, tình trạng ruột thừa, có thanh
dịch trong bụng không, tình trạng mạc nối lớn,
các thương tổn kèm theo. Thêm 2 trocar 5mm ở
hố chậu để giúp xử trí thương tổn mạc nối lớn.
Bước 4: Cắt mảng mạc nối lớn hoại tử, Kẹp 2
clip phần ranh giới mạc nối bình thường. Cắt đốt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 189
mạc nối.
Có thể bỏ mảng mạc nối lớn hoại tử vào bao
trong trường hợp to hoại tử nhiều, lấy ra ngoài
qua trocar 10mm.
Lau kỹ ổ bụng là quan trọng để ngừa biến
chứng tụ dịch nhiễm trùng sau mổ. Không cần
đặt dẫn lưu.
Có thể cắt ruột thừa hay không.
Bước 5: Đóng vết mổ. Đóng vết mổ thì đơn
giản, dùng 1 mũi khâu vicryl 1 đóng lỗ trocar 10
mm. May da
KẾT QUẢ
Từ tháng 1/2010 đến tháng 8/2013 tại khoa
hồi sức cấp cứu bệnh viện Bình Dân, có 12
trường hợp chẩn đoán trước mổ là viêm ruột
thừa và chấp nhận phẫu thuật bằng phương
pháp mổ nội soi cắt ruột thừa nhưng khi mổ
phát hiện nhồi máu mạc nối lớn.
Có 3 nam (25%) và 9 nữ (75%), trung bình là
38 tuổi (27-58), tất cả mạc nối lớn cắt đi sau mổ
đều được gửi giải phẫu bệnh.
Chỉ số khối cơ thể (BMI)
BMI trung bình: 23 BMI thấp nhất: 20
BMI cao nhất: 30
Đa số bệnh nhân 10(83,3%) th là thừa cân và
béo phì.
Triệu chứng lâm sàng
Bảng 1. Thời gian đau bụng.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
1 ngày 2 16,7
2 ngày 4 33,3
3 ngày 5 41,7
6 ngày 1 8,3
Thời gian đau bụng trung bình là 2,6 ngày,
ngắn nhất là 1 ngày lâu nhất là 6 ngày.
Tất cả bệnh nhân nhập viện vì đau bụng cấp.
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng.
Số bệnh nhân
Tỉ lệ %
Đau hố chậu phải 12 100
Sốt 2 16,7
Phản ứng thành bụng 10 83,3
Mass ở hố chậu phải 2 16,7
Tất cả bệnh nhân đều có dấu hiệu đau hố
chậu phải.
Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
Bạch cầu >10000mm
3
4 33,3
Hb>15g/l 2 16,7
Siêu âm bụng được thực hiện cho tất cả bệnh
nhân.
Bảng 4. Kết quả siêu âm bụng.
Số bệnh
nhân
Tỉ lệ %
Không bất thường 5 41,7
Theo dõi viêm ruột thừa 2 16,7
Các quai ruột chướng hơi hố chậu P 2 16,7
Viêm mô mạc treo dưới gan 1 8,3
Thâm nhiễm mô mạc treo đại tràng P 1 8,3
Sưng nề mạc nối hố chậu P 1 8,3
Siêu âm bụng có 5(41,7%) th nghi ngờ có bất
thường ở hố chậu P.
Chụp cắt lớp điện toán (computed
tomography) thực hiện ở 1 bệnh nhân có hình
ảnh của siêu âm bụng là thâm nhiễm mô mạc
treo đại tràng P, kết quả CTscan là không bất
thường.
Điều trị
Tất cả đều được chẩn đoán trước mổ là viêm
ruột thừa, chỉ định phẫu thuật nội soi cắt ruột
thừa. Trong khi mổ phát hiện:
Bảng 5. Thương tổn mạc nối lớn.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
Nhồi máu mạc nối lớn nguyên phát 7 58,3
Xoắn mạc nối lớn nguyên phát 5 41,7
Vị trí thương tổn của mạc nối lớn
Bảng 6. Vị trí thương tổn của mạc nối lớn.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
Hố chậu phải 7 58,3
Hạ sườn phải 5 41,7
Tất cả mạc nối lớn bị nhồi máu đều ở bên
phải.
Tình trạng dịch trong ổ bụng
Bảng 7. Dịch ổ bụng.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
Dịch phản ứng 7 58,3
Dịch hồng 5 41,7
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 190
Bảng 8. Phương pháp mổ.
Số bệnh nhân Tỉ lệ %
PTNS cắt mạc nối lớn 2 16,7
PTNS cắt mạc nối lớn+ cắt ruột
thừa
10 83,3
Không có trường hợp nào chuyển mổ mở.
Kết quả giải phẫu bệnh là: 10 (83,3%) nhồi
máu mạc nối lớn và 2 (16,7%) viêm cấp hoại tử.
1 trường hợp có tiền căn mổ thai trứng và 1
mổ u xơ tử cung.
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 3,1
ngày, ngắn nhất là 1 ngày, lâu nhất là 7 ngày.
Tai biến- biến chứng: không có biến chứng
và tử vong.
BÀN LUẬN
Dịch tễ học
Nhồi máu 1 phần mạc nối lớn đã được mô tả
cách nay hơn trăm năm. Theo Grattan(6) nhồi
máu mạc nối lớn là nguyên nhân hiếm gặp đau
bụng cấp của trẻ em, hơn 85% những trường
hợp được báo cáo trong y văn xảy ra ở người
trưởng thành(5). Phần lớn bệnh nhân đau hố chậu
phải (90%), nam nhiều hơn nữ (tỷ lệ 2:1), thường
xảy ra ở những người 40-50 tuổi.
Trong nghiên cứu này tuổi trung bình là 38
gần giống với các nghiên cứu khác. Tỉ lệ
nam/nữ= 1:3. Tất cả đều đau hố chậu phải.
Cơ chế
Nhồi máu 1 phần mạc nối lớn là nguyên
nhân hiếm gặp của đau bụng cấp vùng hố chậu
phải. Cho đến nay vẫn không xác định được
nguyên nhân và tại sao bên phải mạc nối lớn
thường bị hơn. Vào 1972, Schnur(14) chẩn đoán
phân biệt giữa nhồi máu vô căn nguyên phát của
mạc nối lớn với loại thứ phát là xoắn, viêm tắc
hay thuyên tắc mạch.
Nhiều tác giả cho rằng chính sự bất thường
bẩm sinh mạch máu cung cấp cho phần mạc nối
lớn dưới bên phải nên dễ gây nhồi máu(5), nghiên
cứu khác cho rằng do sự khác biệt về nguồn gốc
phôi thai nên mạch máu vùng bờ phải mạc nối
lớn nhỏ và mong manh hơn nên dễ bị kéo dài và
tắc nghẽn hơn(16).
Scobie(15) cũng cho rằng thiếu máu động
mạch tạng cũng là 1 yếu tố chính, bệnh nhân
trong nghiên cứu của ông bị nhồi máu mạc nối
lớn khi chạy marathon, nhiều mạch máu ở vùng
bờ phải mạc nối lớn ở người béo phì, chấn
thương bụng kín, ăn quá nhiều, tình trạng tăng
đông máu, ho hay thay đổi tư thế đột ngột là
những yếu tố thuận lợi(6). Ngoài ra do ứ huyết
tĩnh mạch sau bữa ăn thịnh soạn hay sự kéo căng
tĩnh mạch mạc nối do mạc nối lớn quá to cũng là
yếu tố thuận lợi.
Những giả thuyết này phần nào giải thích
lí do tại sao bệnh này thường xảy ra ở bờ phải
của mạc nối lớn (100% trong nghiên cứu của
chúng tôi).
Chúng tôi có 7(58,3%) th nhồi máu mạc nối
lớn nguyên phát. Theo Lardies(8) nhồi máu 1
phần mạc nối lớn chiếm 0,1% những trường hợp
phẫu thuật bụng vì đau bụng cấp, nhiều yếu tố
thuận lợi bao gồm: chấn thương, tập thể thao
quá mức hay dùng thuốc nhuận trường, phẫu
thuật bụng gần đây, sung huyết mạch máu sau
bữa ăn, tăng áp lực ổ bụng đột ngột, và tình
trạng tăng đông(3), đặc biệt là tình trạng béo phì,
béo phì làm tăng quá mức lượng mở trong mạc
nối lớn, tăng lắng đọng mỡ trong mạch máu
cung cấp cho mạc nối quá dày. Đa số bệnh nhân
trong nghiên cứu của chúng tôi có yếu tố thuận
lợi là thừa cân và béo phì (83,3%).
Nghiên cứu của chúng tôi có 5(41,7%) th
xoắn mạc nối lớn nguyên phát. Theo Crofoot(2),
xoắn mạc nối lớn có thể là vô căn khi không có
nguyên nhân hay yếu tố kết hợp nào tìm thấy và
là thứ phát khi xác định được nguyên nhân.
Xoắn mạc nối lớn thứ phát thường gặp hơn
nguyên phát(10). Nguyên nhân xoắn mạc nối lớn
thứ phát là: mạc nối lớn dài và dày hơn bình
thường, thoát vị nội, sự viêm của các tạng khác
như viêm túi mật, viêm tuỵ cấp, khối u hay dính
sau mổ. Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả
các trường hợp xoắn mạc nối lớn đều là nguyên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 191
phát mặc dù có 2 trường hợp có tiền căn mổ
bụng nhưng mạc nối lớn bị xoắn phát hiện trong
lần mổ này thì không có liên quan gì đến cuộc
mổ trước.
Tần suất
Nhồi máu mạc nối lớn đôi khi là vô căn
nhưng thường kết hợp với xoắn mạc nối là
nguyên nhân hiếm gặp của đau bụng cấp tại
bệnh viện, theo Epstein(3) có khoảng 0,1% bệnh
nhân được mổ với chẩn đoán là viêm ruột thừa
cấp nhưng khi mổ phát hiện nhồi máu mạc nối
lớn do xoắn. Chúng tôi có 100% th chẩn đoán
trước mổ là viêm ruột thừa cấp nhưng khi mổ là
nhồi máu mạc nối lớn cho thấy bệnh có biểu
hiện lâm sàng giống như viêm ruột thừa cấp và
thường chỉ xác định được khi mổ.
Chẩn đoán
Lâm sàng bệnh nhân thường nhập viện vì
đau bụng cấp hay bán cấp khu trú ở hố chậu
phải hay đôi khi ở hạ sườn phải. Bệnh nhân
thường nhập viện từ 1- 6 ngày sau khởi phát
triệu chứng đau bụng, buồn nôn và nôn ít gặp,
nhu động ruột thì bình thường(3). Bệnh nhân
thường không sốt và có phản ứng thành bụng
khu trú đôi khi sờ được 1 mass. Công thức bạch
cầu tăng nhẹ(16).
Biểu hiện lâm sàng nhồi máu 1 phần mạc nối
lớn thì không đặc hiệu, bệnh nhân có tổng trạng
tốt, biểu hiện đau bụng cấp hay bán cấp, triệu
chứng đường tiêu hoá như buồn nôn, nôn ói,
chán ăn, tiêu chảy thì ít gặp. Thân nhiệt bình
thường hay tăng nhẹ.
Trong nghiên cứu này tất cả bệnh nhân nhập
viện vì đau bụng cấp, đa số 11 (91,7%) th có thời
gian đau bụng trong vòng 3 ngày, chỉ có 1 (8,3%)
th đau bụng kéo dài 6 ngày.
Đau bụng là triệu chứng nổi bật và vị trí đau
bụng thì tương ứng với vị trí mạc nối lớn bị tổn
thương. Nhưng thường thì đau ở hố chậu phải
hay hạ sườn phải, đau liên tục sau khởi phát đột
ngột. Đau là triệu chứng hằng định(9) và trong
nghiên cứu của chúng tôi tất cả các trường hợp
đều có triệu chứng này.
Sốt thì hiện diện ở 2 (16,7%) bệnh nhân và
thân nhiệt cao hơn 380C trong nghiên cứu của
chúng tôi và điều này thì không giống với
nghiên cứu của Pinedo(10) là 3905.
Tiền sử có phẫu thuật ổ bụng là yếu tố thuận
lợi theo nghiên cứu của Pinedo(12), tuy nhiên
trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ 2 (16,7%)
bệnh nhân có tiền căn mổ bụng nhưng mạc nối
lớn bị xoắn phát hiện trong lần mổ này thì không
có liên quan gì đến cuộc mổ trước.
Các chẩn đoán hình ảnh cũng không giúp
ích nhiều cho chẩn đoán trước mổ, chúng tôi có 5
(41,7%) th siêu âm bụng nghi ngờ có bất thường
ở hố chậu P và 1 bệnh nhân thực hiện chụp cắt
lớp điện toán khi siêu âm bụng là thâm nhiễm
mô mạc treo đại tràng P, kết quả CTscan cũng
không phát hiện bất thường. Cho thấy nhồi máu
1 phần mạc nối lớn là nguyên nhân hiếm gặp
gây đau hố chậu phải và dễ gây chẩn đoán lầm
với viêm ruột thừa.
Theo Crofoot(2) triệu chứng lâm sàng thì
giống như viêm ruột thừa trong hầu hết các
trường hợp được mổ. Tất cả bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi được chẩn đoán trước
mổ là viêm ruột thừa, điều này cũng giống với
nghiên cứu của Poujade(13) và Crofoot(2) chẩn
đoán trước mổ thường là viêm ruột thừa. Theo
Aurelio(9) chẩn đoán chính xác bệnh thường khó
khăn và chỉ xác định được khi mổ bụng. Điều
này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi
chỉ có khi mổ bụng mới chẩn đoán được bệnh.
Do bệnh hiếm gặp nhưng cũng nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc nhận biết tình trạng bệnh
lý này bởi vì có thể nhầm với những nguyên nhân
thường gặp khác gây đau bụng cấp(8).
Khi chẩn đoán trước mổ không rõ ở bệnh
nhân đau hố chậu phải thì nội soi ổ bụng thám
sát là phương pháp thích hợp và tiện lợi trong
việc quan sát toàn bộ ổ bụng giúp chẩn đoán xác
định và điều trị.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 192
Vai trò của nội soi ổ bụng trong chẩn đoán
và xử trí các đau bụng cấp không đặc hiệu đã
được Paterson mô tả(11), qua nội soi giúp thám sát
toàn bộ ổ bụng thuận lợi hơn nhiều so với đường
McBurney khi mổ những bệnh nhân nghi ngờ bị
viêm ruột thừa. Nội soi vừa mục đích chẩn đoán
và điều trị.
Nếu không phát hiện bất cứ tạng nào trong ổ
bụng bị thương tổn mà lại có dịch hồng trong ổ bụng
thì nên kiểm tra mạc nối lớn có bị nhồi máu không.
Chúng tôi có 5 (41,7%) th khi nội soi ổ bụng phát
hiện có dịch hồng do mạc nối lớn bị xoắn 1 phần.
Phẫu thuật nội soi cắt bỏ mảng mạc nối bị
nhồi máu ít biến chứng và rút ngắn thời gian hồi
phục của bệnh nhân(5). Trong khi nội soi ổ bụng
chúng tôi còn phát hiện 7 (58,3%) th một phần
mạc nối lớn phù nề hoại tử dính với thành bụng
vùng hố chậu phải và mảng hoại tử này được cắt
và bỏ vào bao lấy ra ngoài qua trocar rốn.
Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng apxe mạc nối
lớn có thể phát xuất từ sang thương của đại tràng
hay dạ dày sát bên và có thể có hình ảnh giống
như nhồi máu mạc nối lớn(10). Cho nên, phẫu thuật
nội soi thám sát là phương pháp an toàn nhất
trong những trường hợp này và cần phải thám sát
kỹ toàn bộ ổ bụng để tránh bỏ sót thương tổn.
Do bệnh này chỉ được chẩn đoán khi phẫu
thuật mở bụng hay nội soi ổ bụng mà đường
rạch da thường giới hạn ở hố chậu phải nên gây
khó khăn khi đánh giá thương tổn, vì vậy khi
cần thiết có thể mở rộng hay mổ thêm đường mổ
bổ sung để cắt bỏ mảng hoại tử(5). Chúng tôi
không có trường hợp nào phải thêm trocar hay
chuyển sang mổ mở.
Kết quả sau mổ không có biến chứng và
bệnh nhân xuất viện trung bình vào ngày hậu
phẫu thứ ba.
KẾT LUẬN
Nhồi máu nguyên phát một phần mạc nối
lớn nên được xem như là một trong những chẩn
đoán phân biệt của bệnh nhân đau hố chậu phải.
Kiểm tra mạc nối lớn nên là động tác thường qui
trong lúc mổ khi mà những nguyên nhân
thường gặp của đau bụng cấp không tìm thấy.
Nội soi ổ bụng thì an toàn và hiệu quả trong điều
trị nhồi máu 1 phần mạc nối lớn nguyên phát, có
tỉ lệ biến chứng thấp. Với sự áp dụng ngày càng
nhiều phẫu thuật ít xâm hại, ngày càng có nhiều
ca được chẩn đoán và điều trị. Chúng tôi muốn
nhấn mạnh tính khả thi của nội soi ổ bụng trên
bệnh nhân đau hố chậu phải trong chẩn đoán và
điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bush P (1896). A case of haemorrhage into the greater
omentum. Lancet, 286.
2. Crofoot D (1980). Spontaneous segmental infarction of the
greater omentum. Am J Surg. 139: 262–264.
3. Epstein L, Lempke R (1968). Primary idiopathic segmental
infarction of the greater omentum case report and collective
review of the literature. Ann Surg. 167: 437- 443.
4. Gac Med Mex. 143(1):17-20.
5. Goti F, Hollmann R, Stieger R, Lange J (2000). Idiopathic
segmental infarction of the greater omentum successfully
treated by laparoscopy: report of case. Surg Today, 30: 451–453.
6. Grattan-Smith J, Blews D, Brand T (2002). Omental infarction in
Pediatric Patients: Sonographic and CT Findings. AJR. 178:
1537- 1539.
7. Kavalakat AJ, et al (2008). Laparoscopic management of an
uncommon cause for right lower quadrant pain: A case report.
Cases Journal. 1:164.
8. Lardies F, Abente A (2001). Primary segmental infarction of the
greater omentum: a rare cause of RLQ syndrome: laparoscopic
resection. Surgical Laparoscopy, Endoscopy and Percutaneous
Techniques, vol. 11(1): 60–62.
9. López-Colombo A, Montiel-Jarquín A, García-Carrasco M,
(2010). Torsion of the omentum. A rare cause of acute
abdomen. Rev Med Inst Mex Seguro Soc.48 (5): 549-552.
10. Naraynsingh V, Barrow R (1985). Segmental infarction of the
omentum: diagnosis by ultrasound. Postgraduate Medical
Journal. 61: 651-652.
11. Paterson-Brown S, Eckersley J, Sim A, Dudley H (1986).
Laparoscopy as an adjunct to decision making in the ‘acute
abdomen. Br J Surg.73:1022– 1024.
12. Pinedo-Onofre J, Guevara-Torres L (2007). Torsión omental.
Una causa de abdomen agudo.
13. Poujade O, Ghiles E, Senasli A (2007). Primary torsion of the
greater omentum: case report - review of literature. Diagnosis
cannot always be performed before surgery. Surg Laparosc
Endosc Percutan Tech. 17: 54-55.
14. Schnur P, McIlrath D, Carney J (1972). Segmental infarction of
the greater omentum. Mayo Clinic Proc. 47:751-755.
15. Scobie B (1998). Gastrointestinal emergencies with marathon-
type running: omental infarction with pancreatitis and liver
failure with portal vein thrombosis. N Z Med J. 111: 211-212.
16. Tolenaar P, Bast T (1987). Idiopathic segmental infarction of the
greater omentum. Br J Surg. 74:1182.
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_nguyen_nhan_dau.pdf