This study is based on the experimental results obtained from analysis of suspended and dissolved heavy metal
concentrations (V, Cr, Co, Ni, Cu, Zn, As, Mo, Cd, Sb, Pb and Th) in the Red River at the SonTay station during 2011.
The results showed that for the dissolved phase, heavy metal concentrations were relatively stable, whatever the water
discharges. In contrast, the concentration of suspended heavy metals tended to decrease with increasing of water
discharge. Moreover, the results indicated also that the transfert of heavy metals by the Red River was mainly in the
suspended phase (up to 99!%). If the water quality of the Red River can be classified as good (column A - QCVN08:
2008/BTNMT) in term of dissolved heavy metal concentrations; the suspended heavy metal concentrations were higher
than the ecological indicators PEC (Probable Effect Concentration), suggesting the effect of this heavy metal
contamination on the ecology and environment in the Red River basin is extremely high (over 50%!). Finally, this study
estimated the contribution of the Red River on the global flux from 0.1 to 0.4% for dissolved phase and from 0.4% to
2.2! for suspended phase.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu về hàm lượng các kim loại nặng trong nước sông hồng tại trạm thủy văn Sơn Tây - Đặng Thị Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
281
36(3), 281-288 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2014
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU VỀ HÀM LƯỢNG
CÁC KIM LOẠI NẶNG TRONG NƯỚC SÔNG HỒNG
TẠI TRẠM THỦY VĂN SƠN TÂY
ĐẶNG THỊ HÀ1, ALEXANDRA COYNEL2
Email: leha1645@yahoo.com
1Viện Hoá học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2UMR 5805 EPOC, ĐH Bordeaux 1, Cộng Hòa Pháp
Ngày nhận bài: 30 - 10 - 2013
1. Mở đầu
Có rất nhiều chất ô nhiễm trong nguồn nước
ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, trong đó
các kim loại nặng như Pb, As, Cu, Cd, Sb,... được
xếp vào loại độc tố ở hàm lượng vết. Nguyên nhân
gây ô nhiễm kim loại nặng trong nước vô cùng đa
dạng, có thể do điều kiện tự nhiên (địa chất) hoặc
do các hoạt động của con người [1, 7, 5, 9, 14].
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Hymalya là sông
lớn thứ hai tại Việt Nam sau sông Mê Kông, đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, văn
hóa, chính trị và đời sống của người Việt. Nguồn
nước sông Hồng được sử dụng cho nhiều mục đích
khác nhau trong đời sống của người dân Bắc Bộ
như nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng thủy sản
và sinh hoạt hàng ngày. Các nghiên cứu trước đây
tại thượng nguồn các sông có nguồn gốc từ dãy núi
Hymalaya (ví dụ sông Brahmapoutra hay sông
Dương Tử (Yangtze)) đã cho thấy rằng hàm lượng
As tồn tại trong các đá tại vùng này rất cao, có thể
lên đến 4000 mg/kg [17] (hàm lượng trung bình
nguyên tố As trong vỏ Trái Đất khoảng 2mg/kg
[18]). Các quá trình phong hóa và xói mòn làm phá
hủy các đá và giải phóng các kim loại nặng vào
dòng chảy sông/suối dưới hai dạng chính là lơ lửng
và hòa tan [7, 8, 14, 17, 18]. Tuy nhiên, có rất ít
các nghiên cứu, khảo sát về hàm lượng các kim
loại nặng ở trong nước mặt sông Hồng trong khi
mà nguy cơ nhiễm độc từ các kim loại nặng trong
nguồn nước mặt sông Hồng là rất cao và cần phải
được kiểm soát.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ trình bày
các kết quả thực nghiệm ban đầu thu được về hàm
lượng các kim loại nặng (V, Cr, Co, Ni, Cu, Zn,
As, Mo, Cd, Sb, Pb và Th) dạng hòa tan và lơ lửng
trong nước sông Hồng tại trạm thủy văn Sơn Tây
trong năm 2011. Mục đích của nghiên cứu này là
(i) khảo sát sự biến đổi theo thời gian hàm lượng
các kim loại nặng trong nước sông Hồng, (ii) xác
định dạng chuyển tải đặc trưng (hòa tan/lơ lửng)
trong nước sông của các kim loại này, từ đó cho
phép (iii) đánh giá chất lượng nước sông Hồng
theo các tiêu chuẩn về hàm lượng kim loại nặng.
Cuối cùng, khả năng chuyển tải kim loại nặng ra
biển bởi hệ thống sông Hồng cũng như sự đóng
góp của nó vào tải lượng kim loại chung bởi các hệ
thống sông khác trên thế giới lần đầu tiên đã được
định lượng.
2. Thực nghiệm
2.1. Giới thiệu lưu vực sông Hồng
Lưu vực sông Hồng có tổng diện tích lưu vực là
169.000km2, trong đó, 50,3% ở Việt Nam, 48,8% ở
Trung Quốc và 0,9% ở Lào. Sông Hồng có hai
nhánh sông chính là sông Đà và sông Lô. Cả ba
nhánh sông này đều bắt nguồn từ Trung Quốc
(hình 1).
Lưu vực sông Hồng được đặc trưng bởi hai
mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng năm đến tháng mười
và mùa khô từ tháng mười một đến tháng tư. Trong
mùa mưa, nhiệt độ trung bình dao dộng từ 27°C
đến 30°C, còn trong mùa khô từ 16°C đến 21°C
282
(hình 2). Lượng mưa trung bình hàng năm trên lưu
vực sông Hồng là 1.600mm với 85%-95% vào mùa
mưa [16].
Hình 1: Bản đồ lưu vực sông Hồng và vị trí quan trắc
(Sơn Tây). Đường màu đen đứt đoạn chỉ ranh giới
Việt Nam - Trung Quốc
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
N
hi
ệ
tđ
ộ
(˚C
)
L
ư
ợ
ng
m
ư
a(m
m)
L
ư
u
lư
ợ
ng
n
ư
ớ
c(m
3/s)
Hình 2. Biểu đồ biến đổi nhiệt độ (˚C), lưu lượng nước
(m3/s) và lượng mưa (mm) trung bình hàng tháng trên
lưu vực sông Hồng (nguồn: [16])
2.2. Chu kỳ và quy trình lấy - xử lý - phân
tích mẫu
- Chu kỳ lấy mẫu: Mẫu nước được lấy hàng
tuần đến hàng tháng vào cùng một thời điểm trong
ngày năm 2011 tại trạm thủy văn Sơn Tây (hình 1,
bảng 1).
- Lấy mẫu, xử lý và phân tích mẫu [4, 5, 16]:
Mẫu nước được lấy tại giữa dòng, ở độ sâu 50cm
dưới mặt nước và được đựng bằng các chai nhựa
PP (V=2l). Mẫu được lọc ngay tại hiện trường
bằng sơ-ranh và giấy lọc Sartorius (Minisart®,
0,2µm). Dịch lọc dùng để đo hàm lượng kim loại
nặng tổng số dạng hòa tan được đựng trong các lọ
nhựa và được axit hóa ngay lập tức bằng axit
HNO3 1% (Baker ultrex®), sau đó được bảo quản
trong các thùng đá và tủ lạnh ở 4°C đến khi phân
tích. Giấy lọc dùng để đo hàm lượng kim loại nặng
tổng số dạng không tan (hay còn được gọi là dạng
rắn hoặc dạng lơ lửng, tồn tại trong các hạt phù sa)
được sấy trong tủ sấy ở 50°C trong vòng 4h và
được bảo quản trong các hộp đựng giấy lọc riêng
biệt đến khi phân tích.
Để đo được hàm lượng kim loại nặng dạng lơ
lửng, cần phải chuyển toàn bộ mẫu từ dạng rắn
sang dạng lỏng bằng cách phá mẫu với hỗn hợp
dung dịch các axit HCl (750µl, 12M), HNO3
(250µl, 14M) và HF (2µl, 26M) trong vòng 2h ở
110°C. Hàm lượng kim loại nặng (dạng tổng số)
được đo bằng thiết bị ICP-MS Thermo X7 (Perkin
Elmer, ELAN 5000) dưới các điều kiện chuẩn.
Hiệu chỉnh phương pháp phân tích trước mỗi lần
đo được tiến hành bằng các mẫu chất chuẩn quốc
tế (CRM 320, NCS) [4, 5, 16].
Bảng 1. Bảng các ngày lấy mẫu và lưu lượng nước
(Q) tương ứng tại Trạm thủy văn Sơn Tây trong năm
2011 (số liệu do Trạm thủy văn Sơn Tây cung cấp)
STT Ngày lấy mẫu Q(m3/s) STT Ngày lấy mẫu Q(m3/s)
1 3/1/2011 2400 19 25/7/2011 9230
2 28/1/2011 1500 20 1/8/2011 11800
3 18/2/2011 1220 21 8/8/2011 8340
4 25/3/2011 1250 22 15/8/2011 7510
5 13/4/2011 1440 23 22/8/2011 5400
6 17/4/2011 2890 24 29/8/2011 7120
7 2/5/2011 3440 25 5/9/2011 8250
8 9/5/2011 3820 26 12/9/2011 7890
9 16/5/2011 4030 27 19/9/2011 6900
10 23/5/2011 4420 28 26/9/2011 4610
11 30/5/2011 3960 29 3/10/2011 5060
12 6/6/2011 3720 30 10/10/2011 4880
13 13/6/2011 4100 31 17/10/2011 6690
14 20/6/2011 4750 32 24/10/2011 5780
15 27/6/2011 5630 33 31/10/2011 3850
16 4/7/2011 6440 34 11/10/2011 3590
17 11/72011 7350 35 25/10/2011 3940
18 18/7/2011 7370 36 23/10/2011 2770
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Sự biến đổi hàm lượng các kim loại nặng
dạng hòa tan trong nước sông Hồng tại Sơn Tây
Trong giai đoạn quan trắc, hàm lượng các kim
loại nặng hòa tan biến đổi tương đối mạnh với
hệ số dao động (%CV) từ 12 đến 121% theo trình
tự sau:
(12%)V<As<Mo<Co<Cu<Sb<U<Cr<Pb<Ni<Cd<
Zn (121%)
283
Chúng ta thấy rằng các nguyên tố V, As, Mo hay
Co là nhóm nguyên tố có thể coi như không/ít biến
động theo thời gian với hệ số biến động CV<20%
thì các nguyên tố Ni, Cd và Zn lại biến động mạnh
theo thời gian với hệ số biến động CV>80%.
Bảng 2 trình bày tóm tắt hàm lượng các kim
loại nặng hòa tan trong nước sông Hồng tại trạm
Sơn Tây trong thời gian quan trắc.
Bảng 2. Hàm lượng các kim loại nặng dạng hòa tan đo được trong nước sông Hồng tại trạm thủy văn Sơn Tây
Μg/l V Cr Co Ni Cu Zn As Mo Cd Sb Pb U
Min 1,00 0,10 0,05 0,26 1,13 0,42 2,17 2,43 0,005 0,29 0,05 0,23
Max 1,67 0,58 0,09 2,56 2,79 16,93 4,02 0,84 0,049 0,86 0,48 1,03
Q1 1,25 0,16 0,05 0,32 1,38 0,65 2,95 0,50 0,006 0,45 0,09 0,36
Q3 1,47 0,33 0,06 0,61 1,83 4,39 3,67 0,59 0,014 0,57 0,20 0,48
Trung bình 1,37 0,26 0,06 0,54 1,62 3,23 3,25 0,56 0,012 0,52 0,16 0,44
CV 12% 52% 19% 81% 25% 121% 14% 17% 84% 25% 69% 33%
Mekong - 0,56 <0,02 0,68 2,20 2,93 - 11,8 <0,02 - 8,43 -
Yangtze 10,5 20,9 - 13,4 10,7 - 13 - 4,7 65 55 -
Trung bình thế giới 0,71 0,7 0,15 0,8 1,5 0,6 0,6 0,42 0,08 0,07 0,08 0,37
Min= giá trị nhỏ nhất, Max = giá trị lớn nhất, Q: tứ vị (1: 25%, 3: 75%), %CV: hệ số dao động. <GHPH: nhỏ hơn giới hạn phát hiện
Các kết quả thu được ở bảng 2 chỉ ra rằng hàm
lượng kim loại nặng hòa tan trong nước sông Hồng
tương đương với sông Mekong nhưng lại nhỏ hơn
rất nhiều lần so với sông Yangtze đối với tất cả các
kim loại khảo sát. So với hàm lượng trung bình kim
loại nặng hòa tan của các dòng sông trên thế giới
thiết lập bởi Viers et al., 2008 [12], hàm lượng hai
nguyên tố As và Zn trong nước sông Hồng cao hơn
khoảng 5 lần giá trị trung bình thế giới (bảng 2).
Dựa vào số liệu hàm lượng các kim loại nặng
thu được, chúng tôi đã tính toán hệ số tương quan
giữa hàm lượng từng kim loại với nhau và giữa
chúng với lưu lượng nước. Kết quả thu được được
trình bày tại bảng 3 cho thấy không có một sự
tương quan nào được xác lập giữa hàm lượng các
nguyên tố với lưu lượng nước, trừ hai nguyên tố
As và U. Điều này cho thấy rằng hàm lượng kim
loại nặng đo được ít/không phụ thuộc vào lưu
lượng nước. Nếu nguyên tố U có hệ số tương quan
R = +0,65 với lưu lượng cho thấy sự tăng nồng độ
U khi lưu lượng nước tăng, thì với nguyên tố As,
hệ số tương quan R = -0,56 phản ánh sự pha
loãng đáng kể hàm lượng As trong nước khi lưu
lượng tăng.
Bảng 3. Hệ số tương quan giữa hàm lượng các kim loại dạng hòa tan đo được và giữa hàm lượng
các kim loại này với lưu lượng nước sông Hồng tại trạm Sơn Tây
V Cr Co Ni Cu Zn As Mo Cd Sb Pb U Q
V 1 -0,18 -0,05 0,05 0,00 -0,09 0,21 0,18 0,15 0,20 0,06 -0,26 0,06
Cr 1 0,55 0,22 0,38 0,60 0,22 0,28 0,33 0,07 0,41 0,55 0,07
Co 1 0,63 0,69 0,66 0,15 0,28 0,76 0,38 0,57 0,36 -0,28
Ni 1 0,48 0,36 0,14 0,22 0,61 0,11 0,45 0,23 -0,35
Cu 1 0,66 0,30 0,67 0,68 0,56 0,58 0,41 -0,46
Zn 1 0,15 0,46 0,78 0,23 0,74 0,35 -0,16
As 1 -0,04 0,02 0,07 0,30 0,12 -0,56
Mo 1 0,37 0,66 0,15 0,56 -0,10
Cd 1 0,26 0,77 -0,03 0,13
Sb 1 -0,09 0,39 -0,32
Pb 1 0,13 -0,14
U 1 0,65
Q 1
Hơn thế, bảng 3 còn chỉ ra rằng có mối tương
quan nhất định giữa hàm lượng một số kim loại
nặng với nhau, cho thấy các kim loại này có chung
một nguồn gốc trên lưu vực sông Hồng. Cụ thể là
hệ số tương quan tỉ lệ thuận đã được ghi nhận
(R > +0,5, bảng 3) giữa hàm lượng nguyên tố Co
với các nguyên tố Cr, Ni, Cu, Zn, Cu và Zn và giữa
nguyên tố Cd với các nguyên tố Ni, Cu, Zn, As
và Pb.
3.2 Sự biến đổi hàm lượng các kim loại nặng
dạng lơ lửng trong nước sông Hồng tại Sơn Tây
So với với hàm lượng kim loại nặng hòa tan,
hàm lượng các kim loại nặng dạng lơ lửng trong
nước sông Hồng tại Sơn Tây ít biến động hơn. Hệ
số dao động (%CV) biến đổi từ 10 đến 34% theo
trình tự sau:
(10%)Co<U<V<Ni<Cr<Th<Zn<Cd<Pb<As<Cu<S
b <Mo(36%).
284
Bảng 4. Hàm lượng các kim loại nặng dạng lơ lửng đo được trong nước sông Hồng tại trạm thủy văn Sơn Tây
Μg/kg V Cr Co Ni Cu Zn As Mo Cd Sb Pb Th U
Min 78 540 11 36 75 133 26 1,11 0,56 3,41 61 10 2,5
Max 161 120 18 73 257 336 127 5,18 1,46 11,33 197 22 4,6
Q1 99 73 14 45 124 169 67 1,60 0,87 4,47 108 15 3,3
Q3 117 87 17 52 168 217 86 2,29 1,30 8,20 152 18 3,8
Trung bình 109 80 15 49 150 196 78 2,06 1,06 6,41 136 16 3,6
CV 14% 15% 10% 15% 27% 22% 25% 36% 24% 34% 24% 18% 12%
Mê Kông - 40 13 25 - - 17,5 - - - 30 - -
Trung bình thế giới 129 130 22,5 74,5 76 208 36,3 2,98 1,55 2,19 61,1 12,1 3,3
Min=giá trị nhỏ nhất, Max = giá trị lớn nhất, Q: tứ vị (1: 25%, 3: 75%), %CV: hệ số dao động
Khác với hàm lượng các kim loại nặng dạng
hòa tan, hàm lượng các kim loại nặng trong nước
sông Hồng dạng lơ lửng lại cao hơn rất nhiều so
với sông Mê Kông trong số đó, các kim loại Cu,
As, Sb và Pb cũng có hàm lượng cao hơn khoảng
2-3 lần so với trung bình chung của các sông khác
trên thế giới (bảng 4).
Hệ số tương quan giữa các hàm lượng kim loại
nặng dạng lơ lửng và với lưu lượng nước cũng đã
được thiết lập (bảng 5). Dựa vào kết quả thu được
từ bảng 4, chúng ta có thể phân chia các kim loại
nặng quan trắc thành hai nhóm:
- Nhóm 1 gồm các kim loại V, Cr, Co, Ni, Th
và U. Đây là các nguyên tố có hệ số tương quan
giữa hàm lượng kim loại nặng và lưu lượng nước
có giá trị dương (R>0) cho thấy khi lưu lượng nước
tăng, hàm lượng các kim loại này có xu hướng
tăng theo.
- Nhóm 2 gồm các kim loại Cu, As, Zn, Mo,
Cd, Sb và Pb. Đây là những kim loại có xu hướng
giảm nồng độ khi lưu lượng nước tăng (hệ số
tương quan R<0). Nếu hàm lượng các kim loại
nặng trong nhóm 1 tăng theo lưu lượng nước được
giải thích bằng sự thay đổi nguồn gốc dồi dào của
các kim loại này khi lưu lượng nước tăng thì sự
giảm hàm lượng kim loại nặng trong nhóm 2 lại
được giải thích bằng hiệu ứng kích thước hạt
(Effect of granulometric composition). Khi lưu
lượng nước tăng, kéo theo các hạt chất rắn lơ lửng
có kích thước lớn tăng theo, chủ yếu là các hạt đất
đá thô. Các hạt này chứa hàm lượng các kim loại
nặng thấp hơn rất nhiều so với các hạt nhỏ, mịn [2,
4, 5, 13]. Điều này đã được quan sát tại nhiều hệ
thống sông ngòi khác trên thế giới như tại Pháp [4]
hay tại Mexico [2].
Bảng 5. Hệ số tương quan giữa hàm lượng các kim loại dạng lơ lửng đo được
và giữa hàm lượng các kim loại này với lưu lượng nước sông Hồng tại trạm Sơn Tây
V Cr Co Ni Cu Zn As Mo Cd Sb Pb Th U Q
V 1 0,87 0,67 0,75 -0,09 0,10 -0,02 -0,06 -0,23 0,02 -0,06 0,72 0,68 0,60
Cr 1 0,74 0,86 -0,18 -0,14 -0,23 -0,26 -0,14 -0,23 -0,04 0,82 0,55 0,59
Co 1 0,74 0,33 0,08 0,09 -0,04 0,40 -0,27 0,44 0,72 0,50 0,28
Ni 1 0,07 0,09 -0,01 -0,02 0,12 -0,11 0,10 0,65 0,44 0,35
Cu 1 0,62 0,82 0,68 0,80 0,32 0,70 -0,28 -0,19 -0,57
Zn 1 0,78 0,63 0,48 0,55 0,35 -0,35 0,07 -0,52
As 1 0,73 0,57 0,70 0,60 -0,39 -0,02 -0,57
Mo 1 0,41 0,53 0,22 -0,41 -0,15 -0,45
Cd 1 -0,02 0,83 -0,13 -0,12 -0,55
Sb 1 0,11 -0,42 0,13 -0,39
Pb 1 -0,04 0,04 -0,33
Th 1 0,66 0,69
U 1 0,48
Q 1
3.3. Chất lượng nước sông Hồng tại Sơn Tây
Để có thể đánh giá chất lượng nước theo các
chỉ tiêu về hàm lượng kim loại nặng, từ đó cho
phép xác định ảnh hưởng của nguồn nước đến đời
sống của các loài thủy sinh cũng như đến sức khỏe
con người, các giá trị hàm lượng kim loại nặng hòa
tan đã quan trắc bao gồm các nguyên tố As, Cd, Cr,
Cu, Ni, Pb và Zn được so sánh với các giá trị giới
hạn theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất
lượng nước mặt QCVN 08:2008/BTNMT (hình 3).
Từ hình 3 chúng ta nhận thấy rằng hàm lượng kim
285
loại nặng hòa tan trong nước sông Hồng tại Sơn
Tây đều đạt chuẩn cột A (có thể dùng làm nước
sinh hoạt) với hầu hết các kim loại. Như vậy, xét
về hàm lượng kim loại nặng hòa tan, nước sông
Hồng tại Sơn Tây có thể sử dụng với mục đích làm
nước cấp sinh hoạt.
Hình 3. So sánh hàm lượng một số kim loại nặng dạng
hòa tan (µg/l) trong nước sông Hồng tại trạm Sơn Tây với
các giá trị cột A tương ứng trong QCVN08:2008/BTNMT
Đối với hàm lượng kim loại nặng dạng lơ lửng,
do tại Việt Nam hiện chưa có một tiêu chuẩn hay
quy chuẩn nào được áp dụng, nên chúng tôi đã sử
dụng các chỉ số nồng độ tác động ngưỡng TEC
(Threshold Effect Concentration)- dưới giới hạn
nồng độ này thì nguy cơ ảnh hưởng đến hệ sinh
thái tương đối thấp (dưới 10%) và nồng độ tác
động chắc chắn PEC (Probable Effect
Concentration)-trên giới hạn nồng độ này thì nguy
cơ ảnh hưởng lên hệ sinh thái là cao (trên 50%)
[12] (hình 4). Các kết quả được trình bày trên hình
4 chỉ ra rằng: hàm lượng trung bình các kim loại
nặng đều vượt quá chỉ số TEC nhiều lần, trừ
nguyên tố Cd có giá trị tương đương với giá trị chỉ
số TEC; các nguyên tố Ni, Cu và Pb cho hàm
lượng trung bình xấp xỉ giá trị chỉ số PEC và riêng
nguyên tố As cho giá trị cao hơn rất nhiều lần chỉ
số PEC. Như vậy, nguy cơ ảnh hưởng của các
nguyên tố này lên hệ sinh thái trong nước sông rất
cao, đặc biệt là nguyên tố As. Tuy nhiên, ô nhiễm
kim loại nặng có nguy cơ lan rộng khi hàng năm
sông Hồng bồi đắp phù sa cho vùng đồng bằng
khoảng 20 triệu tấn/năm [6] và lượng phù sa này
được dẫn vào trực tiếp tưới tiêu cho các vùng nông
nghiệp. Đây sẽ là nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng
cho môi trường đất và có thể tích tụ trong cây trồng
ở vùng đồng bằng.
20
40
60
80
100
120
140
Cr
20
30
40
50
60
70
80
Ni
20
70
120
170
220
270
Cu
100
150
200
250
300
350
Zn
459
10
30
50
70
90
110
130
As
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
Cd
4.98
0
50
100
150
200
Pb
Max
Min
Q3
Q1
Trung bình
Hà
m
lư
ợ
n
g
kim
lo
ạ
ilơ
lử
n
g
(m
g/
kg
)
PEC
TEC
Hình 4. So sánh hàm lượng một số kim loại nặng dạng
lơ lửng (mg/kg) trong nước sông Hồng tại trạm Sơn Tây
với các giá trị TEC và PEC tương ứng [15]
3.4. Sự phân bố giữa hai pha hòa tan và lơ lửng
của kim loại nặng trong nước sông Hồng
Sự phân bố giữa hai pha hòa tan và lơ lửng của
kim loại nặng trong nước sông Hồng tại trạm thủy
văn Sơn Tây được thể hiện trong hình 5. Có thể
nhận thấy rằng sự phân bố khác nhau giữa hai pha
khảo sát đối với hầu hết các kim loại nặng thì dạng
lơ lửng chiếm ưu thế hơn trong quá trình chuyển
tải (trừ Mo và U), có thể đạt đến 99% (ví dụ như
Pb, Cr hay Co). Hơn thế, hình 5 cũng cho thấy ảnh
hưởng rõ rệt của lưu lượng nước đến sự phân bố
giữa hai pha khảo sát. Đó là khi lưu lượng tăng thì
tỉ lệ phần trăm hàm lượng kim loại dạng lơ lửng
trên hàm lượng tổng số (hòa tan + lơ lửng) tăng
theo. Tỷ lệ phân bố trung bình của kim loại nặng
dạng lơ lửng trong 2 năm quan trắc dao động
từ 37% đến 99% theo trình tự sau:
37%<Mo<U<Sb<As<Cd<Zn<V<Ni<Cu<Co<Cr<
Pb<99%.
Nếu Mo, U và Sb là các nguyên tố chuyển tải
bởi sông Hồng chiếm ưu thế dưới dạng hòa tan thì
Cr, Co và Pb lại là các nguyên tố chuyển tải chủ
yếu dưới dạng lơ lửng. Kết quả này cũng đã được
quan sát tại nhiều hệ thống sông có tải lượng phù
sa lớn trên thế giới [4, 10].
286
80%
90%
100%
0 4000 8000 12000
Pa
rti
c
u
la
ire
/T
o
ta
l (%
)
V
Cr
88%
94%
100%
0 4000 8000 12000
Co
0%
20%
40%
60%
80%
100%
0 4000 8000 12000
Ni
U
75%
80%
85%
90%
95%
100%
0 4000 8000 12000
Q (m3/s)
Cu
Pb
40%
60%
80%
100%
0 4000 8000 12000
Co
As
40%
60%
80%
100%
0 4000 8000 12000
Q (m3/s)
Cd
20%
40%
60%
80%
100%
0 4000 8000 12000
Q (m3/s)
Ni
Sb
0%
20%
40%
60%
80%
0 4000 8000 12000
Q (m3/s)
Mo
%
D
ạ
n
g
lơ
lử
n
g
/ (l
ơ
lử
n
g
+
hò
a
ta
n
)
Hình 5. Tỉ lệ % phân bố hàm lượng kim loại nặng giữa hai pha lơ lửng và hoàn tan trong nước sông Hồng
tại trạm Sơn Tây theo lưu lượng nước năm 2011
3.5. Tải lượng kim loại nặng của sông Hồng
Dựa vào bảng số liệu đo được về hàm lượng
kim loại nặng hòa tan và lơ lửng trong nước sông
Hồng, về hàm lượng chất rắn lơ lửng và lưu lượng
nước, chúng tôi đã tính toán tải lượng kim loại
nặng trung bình năm 2011 của sông Hồng tại trạm
Sơn Tây (bảng 5). Đồng thời chúng tôi cũng đã so
sánh các kết quả thu được với tải lượng của các hệ
thống sông khác trên thế giới (bảng 5).
Bảng 5 cho thấy rằng tải lượng kim loại nặng
dạng lơ lửng của hệ thống sông Hồng cao hơn rất
nhiều lần so với sông Mê Kông nhưng lại nhỏ hơn
rất nhiều so với sông Hoàng Hà (Huanghe) hay
sông Trường Giang (Changjiang). Tuy nhiên, đối
với kim loại nặng hòa tan, tải lượng của sông Hồng
lại cao hơn nhiều lần tải lượng của sông Hoàng Hà,
trừ nguyên tố As (bảng 5).
Bảng 5. Bảng so sánh tải lượng kim loại nặng dạng hòa tan và lơ lửng của sông Hồng tại Sơn Tây
với các hệ thống sông khác trên thế giới
Sông Diện
tích
V Cr Co Ni Cu Zn As Mo Cd Sb Pb U
Tải lượng kim loại dạng lơ lửng (t/năm)
Sông Hồng 150000 2673 2014 396 1215 3298 4942 1650 43,3 27,1 136 3282 88
MéKong3 790000 - 1880 611 1175 - - 823 - - - 1175 -
Huanghe20 752000 - 84224 15040 44368 29328 76704 12960 - 203 - 18800 -
Changjiang20 1089000 - 37026 5772 37026 18513 35937 - - 98,0 - 15246 -
Zhujiang20 443000 - - 2082 - 5316 16391 - - 70,9 - 6645 -
Nile15 3400000 - - - - 986 - - - - 408 -
Mississippi10 2979000 10724 8043 1609 4766 2711 13703 1370 626 59,6 - 2979 -
Missouri 150000 8550 6000 1065 3600 1950 8250 960 540 43,5 - 2100 -
Gironde13 73000 175 190 29 117 146 1168 43 3,65 7,3 - 139 3,7
Tổng tải lượng
thế giới19
(103t) 1941 1960 338 1118 1140 3123 544 45 23 33 916 50
Tải lượng kim loại dạng hòa tan (t/năm)
Sông Hồng 150000 155 29,3 6,5 54,9 179 345 361 63,2 1,3 57,7 17,3 48,9
Huanghe20 752000 - - - 15,0 52,6 7,52 993 - - - 0,75 -
Changjiang20 1089000 - - - 87,1 958 32,7 - - 21,8 - 32,7 -
Zhujiang20 443000 - - - - - - - - - - - -
Nile15 3400000 - - - - - - - - - - - -
Mississippi10 2979000 - 745 - 953 1102 1341 596 834 - - - -
Gironde13 73000 21,2 15,3 4,4 19,0 43,1 139 36,5 6,57 1,46 - 6,57 12,4
Tổng tải lượng
thế giới19
(103t) 27 26 5,5 30 55 23 23 16 3,0 2,6 3,0 14
287
Cuối cùng, chúng tôi cũng đã ước lượng sự
đóng góp của sông Hồng vào tải lượng chung đổ ra
đại dương của các sông trên thế giới. Đối với kim
loại nặng lơ lửng, sông Hồng đóng góp từ 0,10%
đến 0.41% theo thứ tự sau:
Mo~Cr(0,10%)< Ni(0,11%)< Co~Cd(0,12%)<
V(0,14%)<Zn(0,16%)<U(0,18%)<Cu(0,29%)<As
(0,30%)< Pb(0,36%)< Sb(0,41%)
Đối với kim loại nặng hòa tan, sự đóng góp
của sông Hồng khoảng 0,04% đến 2,2% theo thứ
tự sau:
Cd(0,04%)<Cr(0,11%)<Co(0,12%)<Ni(0,18%)
<Cu(0,33%)<U(0,35%)<Mo(0,39%)<V~Pb(0,58)<
Zn(1,5%)<As(1,6%)< Sb(2,2%)
4. Kết luận và kiến nghị
Các kết quả thu nhận được từ việc quan trắc
hàm lượng các nguyên tố kim loại nặng trong năm
2011 trên vùng hạ lưu sông Hồng tại trạm thủy văn
Sơn Tây ban đầu đã đánh giá được mức độ ô nhiễm
các nguyên tố này trong nước sông. Cụ thể là nếu
xét về hàm lượng các kim loại nặng dạng hòa tan
thì chất lượng nước sông Hồng đo tại trạm thủy
văn Sơn Tây đều đạt chuẩn cột A theo
QCVN08:2008/BTNMT. Ngược lại, đối với dạng
lơ lửng, nhiều kim loại nặng như Ni, Cu, Pb và đặc
biệt là As có hàm lượng trung bình vượt quá chỉ số
độc sinh thái PEC nhiều lần, cho thấy nguy cơ ảnh
hưởng của các kim loại này lên hệ sinh thái lưu
vực sông là rất cao. Hơn thế, nghiên cứu còn chỉ ra
rằng các kim loại nặng trong nước sông Hồng tồn
tại chủ yếu dưới dạng lơ lửng đối với đa số nguyên
tố khảo sát, có thể chiểm đến 70-99% hàm lượng
kim loại tổng số.
Các kết quả thu được trong nghiên cứu này cho
phép đưa ra các biện pháp xử lý cũng như phương
hướng quản lý và sử dụng nguồn nước một cách
hợp lý và hiệu quả. Đây cũng là tiền đề cho các
nghiên cứu tiếp theo sâu hơn trên cả hai mặt không
gian (trên toàn lưu vực sông Hồng) và thời gian
(lấy mẫu cường độ cao trong thời gian dài) để có
thể xác định được nguồn gốc các kim loại này
trong nước sông cũng như có thể đánh giá chính
xác hơn sự chuyển pha lỏng - rắn của các kim loại
trong môi trường và ảnh hưởng của các kim loại
này đến hệ sinh thái trên toàn lưu vực sông.
Lời cảm ơn: nghiên cứu này nằm trong
khuôn khổ đề tài hợp tác INSU ST EC2CO RIVER
SONG-2009-2011 giữa Viện hóa học - Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam với Viện
Nghiên cứu Hàn lâm CNRS và Đại học Bordeaux
1, Pháp.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Berg M., Stengel C., Trang P.T.K., Pham
H.V., Sampton M.L., and Leng M., 2007:
Magnitude of arsenic pollution in the Mékong and
Red River Deltas-Cambodia and Vietnam, Science
of the Total Environment 327, 413-425.
[2] Blake, W.H., Walsh, R.P.D., Barnsley,
M.J., Palmer, G., Dyrynda, P., James, J.G., 2003:
Heavy metal concentrations during storm events in
a rehabilitated catchment. Hydrol. Process. 17,
1923-1939.
[3] Cenci R.M., and Martin J.M., 2004:
Concentration and fate of trace metals in Mekong
River Delta. Science of the total Environment 332,
167-182.
[4] Coynel A., Schafer J., Blanc G., and Bossy
C., 2007: Scenario of particulate trace metal and
metalloid transport during a major flood event
inferred from transient geochemical signals.
Applied Geochemistry 22, 821-836.
[5] Coynel A., Blanc G., Marache A., Schäfer
J., Dabrin A., Maneux E., Bossy C., Masson M.,
and Lavaux J. 2009: Assessment of metal
contamination in a small mining- and smelting-
affected watershed: high resolution monitoring
coupled with spatial analysis by GIS, J Environ
Monit. 11, 962-976.
[6] Dang T.H., Coynel A., Orange D., Blanc
G., Etcheber H., and Le L.A., 2010: Long-term
monitoring (1960-2008) of the river-sediment
transport in the Red River Watershed (Vietnam):
temporal variability and dam-reservoir impact,
Science of the Total Environment 408, 4654-4664.
[7] Dang T.H., Coynel A., 2013: Assessment
of arsenic contamination in the Red River: high
resolution monitoring coupled with spatial analysis
by GIS. Journal of Sciences and Technology, 51,
779-788.
[8] Eiche E., Neumann T., Berg M., Weinman
B., van Geen A., Norra S., Berner Z., Stüben, D.,
2008: Geochemical processes underlying a sharp
288
contrast in groundwater arsenic concentrations in a
village on the Red River delta, Vietnam. Applied
Geochemistry 23, 3143-3154.
[9] Horowitz A.J., Meybeck M., Idlafkih Z.,
and Biger E., 1999: Variations in trace element
geochemistry in the Seine River Basin based on
floodplain deposits and bed sediments,
Hydrological Processes 13, 1329-1340.
[10] Horowitz AJ, Elrick KA, Smith JJ., 2001:
Annual suspended sediment and trace element
fluxes in the Mississippi, Columbia, Colorado, and
Rio Grande drainage basins. Hydrolog Process 15,
1169-1207.
[11] Huang X., Sillanpa M., Duo B. and
Gjessing ET., 2008: Water quality in the Tibetan
Plateau: Metal contents of four selected rivers.
Environmental Pollution 156, 270-277.
[12] MacDonald DD., CG. Ingersoll, TA.
Berger., 2000: Development and Evaluation of
Consensus-Based Sediment Quality Guidelines for
Freshwater Ecosystems. Arch. Environ. Contam.
Toxicol. 39, 20-31.
[13] Masson M., 2007: Sources et transferts
métalliques dans le basin versant de la Gironde-
Réactivité et mécanismes géochimiques dans
l’estuaire fluvial de la Gironde. Thèse doctorat de
l’Université Bordeaux 1, 344 pp.
[14] Meybeck M., 1998: Man and river
interface multiple impacts on water and
particulates chemistry illustrated in the Seine River
Basin, Hydrobiologia 373, 1-20.
[15] Osman, A.E. and Maha, A.A., 2005:
Contribution of some trace elements from an
Egyptian huge drain to the Mediterranean sea, west
of Alexandria. Egypetian journal of aquatic
research 31, 120-129.
[16] Schäfer J. , G. Blanc, S. Audry, D. Cossa
C. Bossy., 2006: Mercury in the Lot-Garonne River
system (France): Sources, fluxes and anthropogenic
component. Applied Geochemistry 21, 515-527.
[17] Singh P., 2010: Geochemistry and
provenance of stream sediments of the Ganga
River and its major tributaries in the Himalayan
region, India. Chemical Geology 269, 220-236.
[18] Taylor, S.R., McLennan, S.M., 1985: The
Continental Crust: Its Composition and Evolution.
Blackwell, Oxford, 312 pp.
[19] Viers J., Dupréa B., and Gaillardet J.,
2009: Chemical composition of suspended
sediments in World Rivers: New insights from a
new database. Science of the total environment
407, 853-868.
[20] Zhang J., W.W. Huang, R. Letolle, C.
Jusserand, 1995: Major element chemistry of the
Huanghe (Yellow River), China - weathering
processes and chemical fluxes. Journal of
Hydrology 168, 173-203.
SUMMARY
Preliminary assessment of dissolved and particulate heavy metals transported by the Red river
at the SonTay station
This study is based on the experimental results obtained from analysis of suspended and dissolved heavy metal
concentrations (V, Cr, Co, Ni, Cu, Zn, As, Mo, Cd, Sb, Pb and Th) in the Red River at the SonTay station during 2011.
The results showed that for the dissolved phase, heavy metal concentrations were relatively stable, whatever the water
discharges. In contrast, the concentration of suspended heavy metals tended to decrease with increasing of water
discharge. Moreover, the results indicated also that the transfert of heavy metals by the Red River was mainly in the
suspended phase (up to 99%). If the water quality of the Red River can be classified as good (column A - QCVN08:
2008/BTNMT) in term of dissolved heavy metal concentrations; the suspended heavy metal concentrations were higher
than the ecological indicators PEC (Probable Effect Concentration), suggesting the effect of this heavy metal
contamination on the ecology and environment in the Red River basin is extremely high (over 50% ). Finally, this study
estimated the contribution of the Red River on the global flux from 0.1 to 0.4% for dissolved phase and from 0.4% to
2.2 for suspended phase.
Keywords: Red River, heavy metal contamination, water quality, ecological indicator, flux
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5911_21157_1_pb_0336_2100730.pdf