Đau trong tổn thương ĐRCT là kiểu đau thần kinh
dạng gián đoạn tín hiệu thần kinh hướng tâm. Đau có
thể rất nặng xuất hiện ngay sau chấn thương hoặc bắt
đầu một vài ngày sau chấn thương. Triệu chứng đau
được BN mô tả khá giống nhau, đó là cảm giác đau
nóng bỏng hoặc bóp chặt vào tay liệt, liên tục cả ngày
lẫn đêm. Thỉnh thoảng xuất hiện các cơ đau chói, dữ
dội đột ngột như điện giật. Đau thường trầm trọng
hơn khi thay đổi thời tiết. Cơ chế gây đau được cho là
xuất phát từ sự thoát ức chế của các neuron sừng sau
tủy sống và thỉnh thoảng phát xung bất thường gây
đau chói đột ngột. Mức độ đau có liên quan đến số
lượng rễ bị nhổ [13].
Nghiên cứu của Kanto N [13] trên 184 BN cũng
cho thấy điểm VAS giảm có ý nghĩa thống kê trên
những BN được mổ chuyển thần kinh sớm và VAS
giảm liên quan đến quá trình phục hồi sau chuyển
thần kinh. Nghiên cứu của Terzis và cộng sự [3] thấy
rằng điểm VAS sau mổ chuyển thần kinh giảm 30%
so với trước mổ. Tuy nhiên, nghiên cứu của Bruxelle
J và cộng sự [12] trên 118 BN, trong đó 95 BN được
phẫu thuật, theo dõi sau 14 năm thấy rằng 91% BN
vẫn chịu ảnh hưởng của các cơn đau mạn tính, dai
dẳng, trong đó 40% ở mức độ nặng và 51% ở mức
độ trung bình. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở
Bảng 1 cho thấy điểm VAS sau mổ giảm 28,4 % so
với điểm VAS trước mổ, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01. Tuy nhiên, tỷ lệ khá lớn BN
(72,7%) vẫn còn đau ở mức có ý nghĩa gây khó chịu
cho người bệnh; trong đó, 34,5% BN vẫn còn đau mở
mức độ nặng đến rất nặng và không giảm theo thời
gian. Đau nói chung và đặc biệt là đau thần kinh mạn
tính sau nhổ rễ thần kinh ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng sống của BN. Mặt khác, đau là một trở ngại
lớn nhất đối với quá trình phục hồi chức năng, BN có
xu hướng bỏ tập phục hồi chức năng do những cơn
đau và do vậy kéo theo kết quả phục hồi kém. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi ở Bảng 2 cũng cho thấy
nhóm phục hồi gấp khuỷu tốt có điểm VAS sau mổ
thấp hơn so với nhóm phục hồi kém, khác biệt này có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả chuyển rễ C7 bên lành tái phân bố cho thần kinh cơ bì và thần kinh giữa qua hai đoạn ghép thần kinh trụ có mạch nuôi trong điều trị tổn thương nhổ toàn bộ các rễ thần kinh đám rối cánh tay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
259
Phản biện khoa học: BSCKII. Phạm Đăng Nhật
KẾt Quả chuyỂn rỄ c7 bên lành tái phân bố
cho thần Kinh cơ bì và thần Kinh giỮa Qua hai
Đoạn ghÉp thần Kinh trỤ có mạch nuÔi trong
ĐiỀu trỊ tổn thương nhổ toàn bộ các rỄ thần
Kinh Đám rối cánh tay
Che Dinh Nghia,
Nguyen Viet Tien,
Nguyen Viet Ngoc,
Le Van Doan et all
results of contralateral c7 root neurotization to
the median and musculocutaneous nerve via double
vascularized ulnar nerve graft in brachial pleXus injury
With global nerve root avultions
AbstrAct
Objective: This prospective study was to assess the motor and sensory recovery after
contralateral C7 nerve root transfer for re-innervation of the median and muclocutaneous
nerve via double vascularized ulnar nerve graft in brachial plexus injury with total root
avulsions.
Material and Methods: The study was carried out from 2006 to 2013 and the patients
was followed up in the average time of 46.7 months. There are 110 patients with the
average age of 25.9 years.
Results: The mean of nerve graft length to the median and musculocutaneous nerve was
24.1cm and 22.7cm respectively. Mean of VAS decrease was 28.4% postoperatively. The
Chế Đình Nghĩa,
Nguyễn Việt Tiến,
Nguyễn Viết Ngọc,
Lê Văn Đoàn và cộng sự
Bệnh viện TƯQĐ 108
Email: Nghiachedinh@
gmail.com
Ngày nhận: 05 - 8 - 2014
Ngày phản biện: 19 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Ñaët vaán ñeà: Muïc ñích cuûa nghieân cöùu naøy laø ñeå ñaùnh giaù söï phuïc hoài vaän ñoäng vaø
caûm giaùc cuûa thaàn kinh côø bì vaø thaàn kinh giöõa sau phaãu thuaät chuyeån reã C7 beân laønh
qua hai ñoaïn gheùp thaàn kinh truï coù maïch nuoâi ñieàu trò toån thöông nhoå toaøn boä caùc reã
ñaùm roái caùnh tay.
Ñoái töôïng vaø phöông phaùp: Nghieân cöùu ñöôïc thöïc hieän töø 2006 ñeán 2013, beänh nhaân
ñöôïc theo doõi vôùi thôøi gian trung bình laø 46.7 thaùng. 110 beänh nhaân ñöôïc phaãu thuaät
coù tuoåi trung bình laø 25.9 tuoåi.
Keát quaû: Chieàu daøi trung bình ñoaïn thaàn kinh gheùp cho thaàn kinh giöõa vaø thaàn kinh
cô bì laàn löôït laø 24.1cm vaø 22.7cm. VAS sau moå giaûm trung bình laø 28.4%. Nhoùm coù
VAS thaáp hôn coù keát quaû phuïc hoài toát hôn (p = 0.046). Gaáp khuyûu phuïc hoài möùc M3
trôû leân laø 88.2%. Trong ñoù, 60.9% ñaït gaáp khuyûu M4 vôùi söùc naâng taï 3.1kg. Söùc gaáp
coå tay vaø gaáp caùc ngoùn tay ñaït M3 trôû leân laàn löôït laø 39.5% vaø 26.3%. Phuïc hoài caûm
giaùc möùc S2 trôû leân laø 94.5%.
Keát luaän: Chuyeån toaøn boä reã C7 beân laønh cho hai thaàn kinh nhaän qua hai ñoaïn gheùp
thaàn kinh truï coù maïch nuoâi laø khaû thi. Keát quaû phuïc hoài thaàn kinh cô bì vaø thaàn kinh
giöõa coù theå so saùnh ñöôïc vôùi caùc phöông phaùp khaùc.
Töø khoùa: reã C7 beân laønh; toån thöông ñaùm roái caùnh tay, chuyeån thaàn kinh
TÓM TẮT
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
260
1. ĐặT vấN Đề
Chuyển thần kinh là phương pháp được áp dụng
rộng rãi trong điều trị tổn thương nhổ, đứt các rễ thần
kinh đám rối cánh tay (ĐRCT). Có nhiều nguồn cho
thần kinh, trong đó rễ C7 bên lành là một nguồn cho
quan trọng do có số lượng sợi trục lớn.
Rễ C7 bên lành có thể được sử dụng một nửa
hoặc toàn bộ [4], [7], [8]. Phương pháp sử dụng toàn
bộ rễ C7 bên lành để chuyển đồng thời cho hai nguồn
nhận cũng đã được báo cáo [5]. Một số nghiên cứu
cho thấy với nguồn cho có số lượng sợi trục lớn thì
việc chuyển đồng thời cho hai nguồn nhận là khả thi
và nhóm sử dụng hai đoạn ghép độc lập tốt hơn so
với sử dụng một đoạn ghép chia cho hai nguồn nhận
ở đầu xa [5]. Tuy nhiên, nếu sử dụng đoạn ghép là
thần kinh trụ có mạch nuôi dựa trên động mạch bên
trụ trên và luồn qua đường hầm nằm dưới da trước
thành ngực để sang bên đối diện thì chỉ có thể sử
dụng được một đoạn ghép, còn đoạn ghép thứ hai
là không có mạch nuôi và thường được lấy từ thần
kinh hiển trong [5]. Từ năm 2006, chúng tôi [1] đã
sử dụng đồng thời hai đoạn ghép thần kinh trụ đều
có mạch nuôi để bắc cầu từ rễ C7 bên lành tới thần
kinh cơ bì và thần kinh giữa bên liệt qua đường hầm
trước khí quản và dưới xương đòn. Qua tham khảo y
văn, chúng tôi chưa thấy tác giả nào mô tả kỹ thuật
này. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá kết quả
chuyển rễ C7 bên lành để phục hồi thần kinh cơ bì,
thần kinh giữa bên liệt qua hai đoạn ghép là thần kinh
trụ có mạch nuôi và giảm đau do nhổ rễ thần kinh sau
phẫu thuật.
2. Đối TƯỢNG vÀ PHƯơNG PHáP
NGHiêN cứU
2.1. Đối tượng
Từ 2006 đến hết tháng 6/2013, 149 bệnh nhân
(BN) bị liệt hoàn toàn chi trên do nhổ, đứt toàn bộ
các rễ thần kinh ĐRCT được phẫu thuật chuyển rễ
C7 bên lành để phục hồi thần kinh cơ bì và thần kinh
giữa. Trong đó, số BN có đủ điều kiện đưa vào nhóm
nghiên cứu (có đầy đủ hồ sơ bệnh án, được khám lại
định kỳ theo hẹn, đủ thời gian đánh giá kết quả cuối
cùng) là 110 BN, gồm 97 nam và 13 nữ, tuổi bình là
25,9 tuổi (9 - 57 tuổi), với thời gian theo dõi trung
bình là 46,7 tháng (18 - 94 tháng).
2.2. Phương pháp
Tiến cứu, can thiệp lâm sàng, theo dõi dọc, không
có nhóm chứng.
Các bước phẫu thuật như sau:
- Bệnh nhân được phẫu thuật dưới vô cảm bằng
mê nội khí quản.
- Kiểm tra và đánh giá tổn thương: Rạch da theo
đường song song ở phía trước tĩnh mạch cổ nông và
dọc theo bờ sau cơ ức đòn chũm ở bên cổ tổn thương.
Bộc lộ và đánh giá tổn thương các rễ thần kinh để
quyết định chỉ định chuyển rễ C7 bên lành. Bộc lộ
động mạch cổ ngang, tĩnh mạch tùy hành hoặc tĩnh
mạch cổ nông để làm nguồn nuôi vạt thần kinh.
- Bộc lộ rễ C7 bên lành: Bộc lộ C7 bên lành với
đường mổ như bên tổn thương hoặc đường mổ ngang.
- Tạo đường hầm trước khí quản: Phẫu tích tạo
đường hầm đi giữa cơ vai móng và cơ ức đòn chũm,
rồi đi giữa các lớp cân trước khí quản. Bên đối diện
cũng được phẫu tích tương tự cho thới khi đường
hầm hai bên thông nhau.
- Bộc lộ thần kinh cơ bì và thần kinh giữa bên tổn
thương tại vùng nguyên ủy của chúng.
- Tạo đường hầm từ vùng nách đi dưới xương đòn
lên vùng tam giác sau ở cổ bên tổn thương. Ở vùng
nách và dưới xương đòn, đường hầm này đi sát bờ
ngoài bó ngoài ĐRCT (thân nhì trước ngoài).
- Lấy thần kinh trụ bên tổn thương làm đoạn ghép:
Rạch da vùng cánh tay và cẳng tay cho tới nếp gấp cổ
group has better results that has lower mean of VAS (p = 0.046). Elbow flexion gained M3 or better was
88.2%. 60.9% obtained M4 with ability of lifting on average of 3.1kg. Wrist flexion and finger flexion
has recovery of M3 or better was 39.5% and 26.5% respectively. S2 sensory recovery was 94.5%.
Conclusions: Entire contralateral C7 root transfer to two recipients nerve was a feasible procedure.
The functional recovery of median and musculocutaneous nerve compared to the other procedures.
Key words: Contralateral C7 root; brachial plexus injury, nerve transfer
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
261
tay theo đường chuẩn đích của thần kinh trụ. Bóc tách lấy
thần kinh trụ với bó mạch trụ kèm theo. Tại vùng nguyên
ủy thần kinh trụ, cắt đứt thần kinh này sau khi đã tách bao
ngoài khỏi thần kinh để giữ những động mạch nhỏ cấp
máu cho thần kinh nằm ở bao ngoài không bị tổn thương.
- Luồn đầu ngoại vi thần kinh trụ qua đường hầm nói
trên lên vùng tam giác sau ở bên cổ tổn thương.
- Nối động mạch trụ vào động mạch cổ ngang, nối tĩnh
mạch trụ vào tĩnh mạch tuỳ hành động mạch cổ ngang
hoặc tĩnh mạch cổ nông.
- Gập đôi thần kinh trụ, luồn đầu giữa thần kinh qua
đường hầm vùng nền cổ sang bên lành. Mở dọc bao ngoài,
tách và cắt thần kinh trụ tại điểm giữa nhưng không gây
tổn thương ở bao ngoài dây thần kinh.
- Cắt rễ C7 và tách đôi đầu trung tâm theo chiều trước
- sau, nối hai nửa này vào 2 đầu thần kinh trụ. Đầu trung
tâm và đầu ngoại vi thần kinh trụ còn lại được nối vào thần
kinh cơ bì và thần kinh giữa.
Theo dõi và đánh giá kết quả:
Bệnh nhân được tái khám định kỳ tại các thời điểm 3,
9, 18, 24, 36 tháng và thời điểm đánh giá cuối cùng. Đánh
giá kết quả xa sau 18 tháng. Về vận động, sức cơ được đo
bằng lực kết cầm tay. Về cảm giác, chúng tôi đánh giá sự
phục hồi cảm giác ở những BN sau mổ 36 tháng trở lên,
dựa trên ba test chính gồm: cảm giác đau sâu qua test gây
đau do áp lực; cảm giác đau nông qua test lẩy da (pinprick
test); test cảm giác chạm bằng bộ dụng cụ S, và test phân
biệt hai điểm.
Đánh giá phục hồi cảm giác và vận động theo thang
điểm của Hội Đồng Nghiên cứu Y học Anh (BMRC:
British Medical Reasearch Council). Tuy nhiên, trong
nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện đo lực đối kháng cho
các BN đạt sức gấp khuỷu từ M3 trở lên bằng lực kế cầm
tay và đề xuất như sau: Nếu sức cơ đối kháng nhỏ hơn 1kg
thì được xếp mức M3, từ 1kg trở lên được xếp mức M4,
sức cơ đạt bằng tay lành bên đối diện trước phẫu thuật
được xếp mức M5. Đau thần kinh do nhổ rễ được đánh giá
theo thang điểm VAS (Visual Analog Scale).
Các biến liên tục được mô tả dưới dạng ± SD, kiểm
định bằng tes t-student, one-way ANOVA, và Post – hoc
test. Các biến rời rạc được mô tả dưới dạng tần suất và tỉ
lệ, kiểm định bằng Chi – square test.
3. KẾT qUả NGHiêN cứU
Chiều dài của đoạn thần kinh ghép đi từ rễ C7 bên lành
tới mối nối thần kinh cơ bì và thần kinh giữa bên liệt lần
lượt là 22,7 ± 1,5cm và 24,1 ± 1,6cm.
Ở nhóm 110 BN này, không có trường hợp nào bị biến
chứng chảy máu phải truyền máu trong quá trình phẫu
thuật. Có 2 trường hợp bị liệt thần kinh hoành hai bên
sau mổ (bên tổn thương đã bị liệt trước mổ). Trong đó, 1
trường hợp liệt thoảng qua và phục hồi sau 3 ngày, không
phải thở máy hỗ trợ. Trường hợp còn lại bị suy hô hấp,
phải thở máy hỗ trợ trong 10 ngày.
Đau thần kinh do nhổ rễ bên tổn thương
Bảng 1. Mức độ đau thần kinh bên liệt theo thang điểm vAS (n = 110)
Nhoùm
Tröôùc moå Sau moå
Taàn suaát Phaàn traêm Taàn suaát Phaàn traêm
Ñau nheï (Vas 2) Nhoùm Nhoùm Nhoùm Nhoùm
Ñau vöøa (Vas 4) Ñau nheï (Vas 2) Ñau nheï (Vas 2) Ñau nheï (Vas 2) Ñau nheï (Vas 2)
Ñau naëng (Vas 6) Ñau vöøa (Vas 4) Ñau vöøa (Vas 4) Ñau vöøa (Vas 4) Ñau vöøa (Vas 4)
Ñau raát naëng (Vas 8) Ñau naëng (Vas 6) Ñau naëng (Vas 6) Ñau naëng (Vas 6) Ñau naëng (Vas 6)
Coäng Ñau raát naëng (Vas 8) Ñau raát naëng (Vas 8) Ñau raát naëng (Vas 8) Ñau raát naëng (Vas 8)
X ± SD 5,9 ± 1,7 4,2 ± 1,5
So saùnh gheùp caëp T = 12,74; p = 0,001, Möùc giaûm trung bình laø 28,4%
ANOVA p = 0,744
Post-Hoc P> 0,05
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
262
Để đánh giá giảm đau do nhổ rễ thần kinh trước và sau mổ, chúng tôi sử dụng hai cách: Cách thứ nhất,
tính % mức giảm bằng công thức: [(VAS trước mổ - VAS sau mổ)/VAS trước mổ] x 100; Cách thứ hai, sử
dụng test so sánh ghép cặp trước và sau mổ. Kết quả cho thấy, điểm VAS sau mổ thấp hơn điểm VAS trước
mổ (mức giảm trung bình là 28,4%) có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. ANOVA test cho thấy sự khác biệt về
trung bình % giảm VAS giữa các nhóm là không có ý nghĩa thống kê với p = 0,744. Phân tích so sánh từng
cặp trong Post – Hoc test ở trên cũng cho thấy không ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Như vậy, triệu chứng đau
thần kinh không giảm theo thời gian.
Bảng 2. Liên quan giữa mức độ đau và phục hồi vận động (n = 110).
n
Ñieåm VAS
trung bình
Ñoä leäch
chuaån
Sai soá
chuaån
Min Max
M0 3 4,6 1,15 0,66 4 8
F = 2,763
p = 0,046
M1-2 10 5,2 1,39 0,44 2 6
M3 30 4,6 1,49 0,27 2 8
M4 67 3,8 1,73 0,21 2 8
Coäng 110 4,2 1,67 0,15 2 8
Kết quả bảng trên cho thấy, những trường hợp phục hồi vận động tốt có điểm VAS trung bình thấp hơn có
ý nghĩa thống kê.
Phục hồi gấp khuỷu tay liệt
Bảng 3. Phục hồi gấp khuỷu (n = 110)
Nhoùm thôøi gian
Phuïc hoài gaáp khuyûu
Coäng
M0 M1-2 M3 M4
18 - 36 thaùng
n 1 4 16 15 36
% theo haøng 2,8% 11,1% 44,4% 41,7% 100%
36 - 60 thaùng
n 0 2 8 21 31
% theo haøng 0,0% 6,5% 25,8% 67,7% 100%
> 60 thaùng
n 2 4 6 31 43
% theo haøng 4,7% 9,3% 14,0% 72,1% 100%
Coäng
n 3 10 30 67 110
% theo haøng 2,7% 9,1% 27,3% 60,9% 100%
Kết quả phục hồi gấp khuỷu mức ≥ M3 là 88,2% (97/110 BN), riêng mức M4 là 60,9% (67/110 BN). Khi
so sánh kết quả phục hồi gấp khuỷu ở 3 nhóm thời gian trên bằng Likekihood Ratio Chi - Square test, kết quả
cho thấy tỉ lệ phục hồi giữa các nhóm là khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,04. Tuy nhiên, khi so sánh
giữa nhóm 36 - 60 tháng và nhóm trên 60 tháng thì sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,53.
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
263
Bảng 4. Liên quan giữa sức gấp khuỷu mức M4 và thời gian (n = 67)
Nhoùm thôøi
gian
n
Söùc gaáp
khuûyu trung
bình (kg)
Ñoä leäch
chuaån
Sai soá chuaån Min Max
18 - 36 thaùng 15 2,3 0,73 0,19 1,20 3,6
36 - 60 thaùng 21 3,2 0,76 0,17 2,20 4,8
> 60 thaùng 31 3,3 0,86 0,15 1,60 5,0
Coäng 67 3,1 0,89 0,11 1,20 5,0
Ở 67/110 BN (60,9%) có sức gấp khuỷu đạt mức M4,
sức gấp khuỷu có đối kháng trung bình là 3,1 kg. One way
- ANOVA test so sánh trung bình giữa các nhóm cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Post-hoc test cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về sức gấp khuỷu giữa nhóm 18 - 36 tháng so với 2
nhóm còn lại, nhưng kết quả này không có sự khác biệt
giữa nhóm 36 - 60 tháng và nhóm trên 60 tháng.
Khả năng vận động gấp khuỷu độc lập
Khả năng gấp khuỷu độc lập và phối hợp động tác hai
tay gặp ở những bệnh nhân có sức gấp khuỷu đạt mức M4.
Sự gấp khuỷu độc lập thực hiện được khi BN gấp khuỷu
với lực đối kháng dưới 2kg. Khi có lực đối kháng lớn hơn
2kg thì cần có sự co cơ đồng thời ở tay lành ở các mức độ
khác nhau. Chúng tôi chỉ thực hiện đánh giá phục hồi gấp
khuỷu độc lập ở nhóm sau mổ từ 36 tháng trở lên. Tỉ lệ
phục hồi gấp khuỷu độc lập là 52,2% (35/67).
Kết quả phục hồi vận động của thần kinh giữa
Đánh giá kết quả phục hồi thần kinh giữa chúng tôi
chỉ thực hiện ở nhưng bệnh nhân có thời gian theo dõi
trên 36 tháng.
Tỉ lệ phục hồi gấp cổ tay từ M3 trở lên là 39,5%
(30/76 BN). Trong đó, sự khác biệt về tỉ lệ phục hồi giữa
hai nhóm là không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Các trường phục hồi đạt M3 trở lên đều đồng vận với
gấp khuỷu. Do vậy, để gấp tốt cổ tay phải đồng thời gấp
khuỷu hoặc phải cố định cẳng tay.
Bảng 5. Phục hồi gấp cổ tay (n = 76)
Nhoùm thôøi gian
Phuïc hoài gaáp coå tay
Toång
P > 0,05
M0 M1 M2 M3 M4
36 - 60 thaùng
n 3 7 11 9 3 33
% theo haøng 9,1% 21,2% 33,3% 27,3% 9,1% 100%
> 60 thaùng
n 0 4 21 14 4 43
% theo haøng 0% 9,3% 48,8% 32,6% 9,3% 100%
Coäng
n 3 11 32 23 7 76
% theo haøng 3,9% 14,5% 42,1% 30,3% 9,2% 100%
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
264
Bảng 6. Phục hồi gấp các ngón (n = 76)
Nhoùm thôøi gian
Phuïc hoài gaáp ngoùn
Toång
P > 0,05
M0 M1 M2 M3 M4
36 - 60
thaùng
n 6 13 9 5 0 33
% theo haøng 18,2% 39,4% 27,3% 15,2% 0% 100%
> 60 thaùng
n 2 10 16 13 2 43
% theo haøng 4,7% 23,3% 37,2% 30,2% 4,7% 10%
Toång
n 8 23 25 18 2 76
% theo haøng 10,5% 30,3% 32,9% 23,7% 2,6% 100%
Phục hồi gấp các ngón tay đạt mức ≥ M3 là 26,3% (20/76 BN).
Kết quả phục hồi cảm giác thần kinh giữa
Bảng 7. Phục hồi cảm giác bàn tay theo thang phân loại BMRc ở nhóm trên 36 tháng sau mổ
Nhoùm thôøi gian
Phuïc hoài caûm giaùc
Toång
p = 0,605
S1 S2 S2+ S3
36 - 60 thaùng
N 3 10 11 9 33
% theo haøng 9,1% 30,3% 33,3% 27,3% 100%
> 60 thaùng
N 2 9 16 16 43
% theo haøng 4,7% 20,9% 37,2% 37,2% 100%
Toång
N 5 19 27 25 76
% theo haøng 6,6% 25,0% 35,5% 32,9% 100%
100% BN sau mổ trên 36 tháng đều phục hồi cảm
giác ở mức S1 trở lên. Trong đó, 95,4% BN đạt mức
S2 ( ngưỡng cảm giác bảo vệ) trở lên. Tỉ lệ phục hồi
cảm giác giữa hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa
thống kế với p > 0,05.
4. BÀN LUẬN
Phẫu thuật chuyển rễ C7 bên lành qua đoạn ghép
TK trụ đảo chiều có mạch nuôi dựa trên động mạch
bên trong trụ trên được Gu YD mô tả từ năm 1986.
Trong kỹ thuật này, đoạn ghép được đưa luồn qua
đường hầm dưới da phía trước thành ngực rồi vòng
qua phía trên xương đòn tới nền cổ bên lành, tại đây
đầu ngoại vi của đoạn ghép thần kinh trụ sẽ nối tận
- tận với đầu trung tâm của rễ C7 bên lành. Đây là
kỹ thuật về cơ bản đang được áp dụng rộng rãi trên
thế giới [4], [6] [7]. Với kỹ thuật này, chiều dài trung
bình của đoạn ghép là 35 - 40 cm tùy từng tác giả [8].
Chiều dài này bằng khoảng 2/3 tổng chiều dài của
thần kinh trụ từ nguyên ủy tới cổ tay và như vậy chỉ
có thể sử dụng một đoạn ghép thần kinh trụ.
Trong nghiên cứu này, phương pháp phẫu thuật
của chúng tôi có một số điểm khác biệt so với các
phương pháp phẫu thuật đã được trình bày trong y
văn. Thứ nhất, về cơ bản đoạn ghép thần kinh trụ
được chúng tôi sử dụng dưới dạng vạt ghép thần kinh
trụ tự do cấp máu xuôi dòng. Thứ hai, đoạn ghép được
gập đôi và luồn qua hai đường hầm gồm: đường hầm
dưới xương đòn bên tổn thương và đường hầm phía
trước khí quản để luồn đoạn ghép từ nách bên liệt
sang nền cổ bên lành. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
chiều dài trung bình của đoạn ghép cho thần kinh cơ
bì và thần kinh giữa lần lượt là 22,7 ± 1,5cm và 24,1
± 1,6cm, ngắn hơn khoảng 10cm so với đường hầm
dưới da qua thành ngực. Nhờ có đường đi ngắn tối ưu
nên chúng tôi có thể sử dụng hai đoạn ghép riêng biệt
cho thần kinh cơ bì và thần kinh giữa bên liệt. Đây là
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
265
kỹ thuật mà chúng tôi chưa thấy báo cáo trong y văn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có hai trường hợp liệt
thần kinh hoành bên lành do tai biến phẫu thuật trên BN
đã có liệt thần kinh hoành bên tổn thương do chấn thương.
Nguyên nhân được xác định là do thần kinh hoành bị kéo
căng để banh rộng vết mổ trong quá trình phẫu tích để
thấy được toàn bộ các rễ của ĐRTK bên lành, nhất là khi
phẫu tích các rễ cổ dưới C8 và T1. Hai BN này đều phục
hồi và không để lại di chứng.
Một vấn đề cũng được đặt ra là tỉ lệ tắc mạch vạt ghép
thần kinh. Để đánh giá tình trạng thông mạch sau mổ trong
những ngày đầu, chúng tôi sử dụng doppler mạch cầm tay
để theo dõi. Mặc dù, chưa phát hiện trường hợp nào tắc
mạch sau mổ trong tuần đầu nhưng những trường hợp tắc
mạch muộn chưa được kiểm chứng và đây là một trong
những hạn chế của đề tài.
Động tác gấp khuỷu là động tác được ưu tiên hàng đầu
trong phẫu thuật phục hồi chi liệt. Kết quả nghiên cứu
ở Bảng 3 cho thấy, với thời gian đánh giá tối thiểu là 18
tháng thì kết quả phục hồi gấp khuỷu đạt M3 trở lên là
88,2%. Trong đó, tỉ lệ sức gấp khuỷu đạt M4 là 60,9%
với khả năng nâng tạ trung bình là 3,1kg. Nghiên cứu của
Chuang DCC [2] ở 23 BN phục hồi đồng thời thần kinh cơ
bì và thần kinh giữa qua đoạn ghép thần kinh trụ với thời
gian theo dõi tối thiểu trên 4 năm cho thấy động tác gấp
khuỷu phục hồi mức M3 trở lên là 83%. Một nghiên cứu
khác của Gao K và cộng sự [9] ở 22 BN cũng với phương
pháp phẫu thuật như trên và thời gian theo dõi tối thiểu là
4 năm thì tỉ lệ phục hồi gấp khuỷu đạt M3 trở lên là 66,7%.
Trong hai nghiên cứu này, Chuang DCC và Gao K chuyển
đồng thời cho hai nguồn nhận qua một đoạn ghép là thần
kinh trụ có mạch nuôi với đường hầm dưới da đi qua trước
thành ngực. Như vậy, cũng là chuyển rễ C7 đồng thời cho
hai nguồn nhận là thần kinh giữa và thần kinh cơ bì nhưng
phương pháp phẫu thuật của hai tác giả trên khác với của
chúng tôi.
Trong nghiên cứu này, như đã nêu ở trên, phương pháp
phẫu thuật của chúng tôi là sử dụng hai đoạn ghép thần
kinh trụ riêng biệt đều có mạch nuôi cho thần kinh cơ bì
và thần kinh giữa. Phương pháp này có thể mang đến một
số ưu điểm như sau: thứ nhất, kích thước giữa thần kinh
cho, đoạn ghép và thần kinh nhận khá tương đồng; thứ hai,
cả hai đoạn ghép đều có mạch nuôi và được cấp máu thỏa
đáng; thứ ba, kiểm soát được số lượng sợi trục đi vào từng
thần kinh nhận.
Một trong những chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá chất
lượng phục hồi gấp khuỷu là khả năng gấp khuỷu độc lập.
Phục hồi gấp khuỷu độc lập của tay liệt sau tái phân bố
thần kinh là tiền đề cho những hoạt động phối hợp hai tay.
Một số tác giả cũng đặt vấn đề rằng nếu vận động tay sau
tái phân bố thần kinh từ rễ C7 bên lành không thành lập
được vận động độc lập thì phương pháp này coi như thất
bại. Nói cách khác, sự phục hồi co cơ tay liệt dù có đạt đến
M4 cũng chỉ là hoạt động mang tính chất “tượng trưng”
chứ không phải là hoạt động chức năng. Qua nghiên cứu
này, chúng tôi khẳng định rằng khả năng phục hồi gấp
khuỷu độc lập và sự phối hợp động tác hai tay giữa tay
lành và tay sau tái phân bố thần kinh sau chuyển rễ C7 bên
lành được thành lập qua quá trình luyện tập, rèn luyện kỹ
năng vận động mới của người bệnh.
Phục hồi lại chức năng vận động cầm nắm của bàn tay
ở những trường hợp liệt hoàn toàn ĐRCT là thách thức lớn
nhất của y học hiện đại. Báo cáo của Waikakul và cộng
sự [7] trên 96 BN với kỹ thuật chuyển nửa rễ C7 cho thần
kinh giữa có thời gian theo dõi trên 3 năm cho thấy tỉ lệ
phục hồi gấp cổ tay và gấp các ngón tay từ M3 trở lên lần
lượt là 29% và 21%. Tác giả cũng chỉ ra rằng kết quả phục
hồi tốt hơn ở nhóm dưới 18 tuổi. Với phương pháp tương
tự như vậy, kết quả nghiên cứu của Songcharoen P [6] cho
thấy tỉ lệ phục hồi gấp cổ tay và các ngón tay là 29%. Báo
cáo của Chuang DCC [2] trên 23 BN với thời gian theo
dõi tối thiểu 4 năm thì tỉ lệ phục hồi gấp các ngón tay đạt
M3 trở lên là 39% cho nhóm 2 nguồn nhận.
Một nghiên cứu so sánh giữa nhóm chuyển nửa rễ C7
và nhóm chuyển toàn bộ rễ C7 cho thần kinh giữa của
Yuan-Kun TU [10] trên 40 BN với thời gian theo dõi trung
bình là 4,5 năm cho thấy tỉ lệ phục hồi gấp các ngón tay từ
M3 trở lên của nhóm chuyển nửa rễ và nhóm chuyển toàn
bộ rễ C7 lần lượt là 30% và 65%.
Gao K [9] với kỹ thuật chuyển toàn bộ rễ C7 bên lành
đồng thời cho hai nguồn nhận là nhánh thần kinh vận động
cơ nhị đầu và thần kinh giữa qua cùng một đoạn ghép thần
kinh trụ cho thấy kết quả phục hồi gấp cổ tay và các ngón
đạt M3 trở lên là 68,2% nhưng phục hồi gấp khuỷu từ M3
trở lên chỉ đạt 66,7%. Kết quả này so với nghiên cứu của
Chuang DCC [] có hiện tượng đảo ngược.
Trong nghiên cứu này, phương pháp phẫu thuật của
chúng tôi có thể so sánh với các phương pháp chuyển nửa
rễ C7 cho thần kinh giữa. Kết quả nghiên cứu ở Bảng 5 và
Bảng 6 cho thấy tỉ lệ phục hồi gấp cổ tay và gấp các ngón
tay đạt M3 trở lên lần lượt là 39,5% và 26,3%.
Về cảm giác, chúng tôi đánh giá sự phục hồi cảm giác
ở những BN sau mổ 36 tháng trở lên, dựa trên ba test chính
gồm: cảm giác đau sâu qua test gây đau do áp lực; cảm
giác đau nông qua test lẩy da (pinprick test); cảm giác
chạm phân biệt qua test phân biệt hai điểm. Ngược lại
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
266
với kết quả phục hồi vận động thay đổi rất lớn từ các
nhóm nghiên cứu thì kết quả phục hồi cảm giác do
thần kinh giữa chi phối lại khả quan hơn. Tuy nhiên,
mỗi nghiên cứu lại sử dụng một thang phân loại khác
nhau. Theo báo cáo của Terzis và cộng sự [3] thì tỉ lệ
phục hồi đạt mức cảm giác bảo vệ trở lên là 91,6%.
Nghiên cứu của Gao K [9] tỉ lệ đạt mức S2 trở lên là
72,7%, trong đó mức S3 trở lên là 45,5%. Waikakul
và cộng sự [7] đánh giá phục hồi theo thang điểm của
Sunderland năm 1991 cũng cho thấy tỉ lệ phục hồi P3
trở lên (pinprick test) là 83,3%, tác giả nhận xét rằng
phục hồi cảm giác trong chuyển rễ C7 tốt hơn so với
các phương pháp chuyển thần kinh liên sườn. Thực tế
trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng mức phục
hồi cảm giác tối đa là S3, tức là chỉ phục hồi được một
phần cảm giác chạm và BN không có khả năng định
khu cảm giác (mức S3+) vì đây là cảm giác đối bên.
Phục hồi cảm giác ở mức bảo vệ trở lên không
những có ý nghĩa quan trọng giúp BN tránh được các
thương tích đối với tay liệt mà còn tham gia vào quá
trình tạo đường liên hệ võ não mới khi người bệnh
học một kỹ năng vận động mới.
Đau trong tổn thương ĐRCT là kiểu đau thần kinh
dạng gián đoạn tín hiệu thần kinh hướng tâm. Đau có
thể rất nặng xuất hiện ngay sau chấn thương hoặc bắt
đầu một vài ngày sau chấn thương. Triệu chứng đau
được BN mô tả khá giống nhau, đó là cảm giác đau
nóng bỏng hoặc bóp chặt vào tay liệt, liên tục cả ngày
lẫn đêm. Thỉnh thoảng xuất hiện các cơ đau chói, dữ
dội đột ngột như điện giật. Đau thường trầm trọng
hơn khi thay đổi thời tiết. Cơ chế gây đau được cho là
xuất phát từ sự thoát ức chế của các neuron sừng sau
tủy sống và thỉnh thoảng phát xung bất thường gây
đau chói đột ngột. Mức độ đau có liên quan đến số
lượng rễ bị nhổ [13].
Nghiên cứu của Kanto N [13] trên 184 BN cũng
cho thấy điểm VAS giảm có ý nghĩa thống kê trên
những BN được mổ chuyển thần kinh sớm và VAS
giảm liên quan đến quá trình phục hồi sau chuyển
thần kinh. Nghiên cứu của Terzis và cộng sự [3] thấy
rằng điểm VAS sau mổ chuyển thần kinh giảm 30%
so với trước mổ. Tuy nhiên, nghiên cứu của Bruxelle
J và cộng sự [12] trên 118 BN, trong đó 95 BN được
phẫu thuật, theo dõi sau 14 năm thấy rằng 91% BN
vẫn chịu ảnh hưởng của các cơn đau mạn tính, dai
dẳng, trong đó 40% ở mức độ nặng và 51% ở mức
độ trung bình. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở
Bảng 1 cho thấy điểm VAS sau mổ giảm 28,4 % so
với điểm VAS trước mổ, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01. Tuy nhiên, tỷ lệ khá lớn BN
(72,7%) vẫn còn đau ở mức có ý nghĩa gây khó chịu
cho người bệnh; trong đó, 34,5% BN vẫn còn đau mở
mức độ nặng đến rất nặng và không giảm theo thời
gian. Đau nói chung và đặc biệt là đau thần kinh mạn
tính sau nhổ rễ thần kinh ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng sống của BN. Mặt khác, đau là một trở ngại
lớn nhất đối với quá trình phục hồi chức năng, BN có
xu hướng bỏ tập phục hồi chức năng do những cơn
đau và do vậy kéo theo kết quả phục hồi kém. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi ở Bảng 2 cũng cho thấy
nhóm phục hồi gấp khuỷu tốt có điểm VAS sau mổ
thấp hơn so với nhóm phục hồi kém, khác biệt này có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
KẾT LUẬN
Phương pháp chuyển rễ C7 bên lành đồng thời
cho thần kinh cơ bì và thần kinh giữa bên liệt qua hai
đoạn ghép thần kinh trụ có mạch nuôi với đường đi
của đoạn ghép qua đường hầm trước khí quản và dưới
đòn là một phương pháp mổ an toàn. Chiều dài trung
bình của đoạn ghép đi theo đường hầm này ngắn hơn
so với đường hầm dưới da ở thành ngực trước.
Kết quả phục hồi gấp khuỷu với sức gấp M3 trở
lên đạt 88,2%, trong đó đạt M4 là 60,9%. Gấp khuỷu
bên liệt độc lập được với tay lành chiếm 52,2%
(35/67). Phục hồi gấp cổ tay và gấp các ngón tay đạt
M3 trở lên lần lượt là 39,5% và 26,3%. Phục hồi cảm
giác đạt mức S2 trở lên là 95,4%, trong đó mức đạt
tối đa là S3. Đau do nhổ rễ giảm 28,4% so với trước
mổ. Tuy nhiên, 72,7% vẫn còn đau ở mức khó chịu,
ảnh hưởng đến cuộc sống của người bệnh.
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
267
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Việt Tiến (2010). Chuyển rễ thần kinh C7 chéo ngực
qua thần kinh ghép có mạch nuôi trong điều trị tổn thương nhổ
các rễ đám rối thần kinh cánh tay - kết quả 32 trường hợp. Tạp
chí Y Dược lâm sàng 108 Tập 5 - Số 4/2010: Tr 92-98.
[2]. Chuang DCC (2012). Minimum 4 – year follow-up on
contralateral C7 nerve transfers for brachial plexus injuries. J
Hand Surg Am, Feb; 37 (2): pp 270 – 276.
[3]. Terzis, J. K., Vekris, M. D, Soucacos, P. N. (1999). Outcomes
of brachial plexus reconstruction in 204 patients with devastating
paralysis. Plast. Reconstr. Surg. 104: pp. 1221 - 1225.
[4]. Songcharoen, P., Wongtrakul, S., and Spinner, R. (2005).
Brachialplexus injuries in the adult: Nerve transfers. The Siriraj
Hospital experience. Hand Clin. 21: pp 83 -89.
[5]. Gu Y, Xu J, Chen L, Wang H, Hu S. (2002). Long term outcome
of contralateral C7 transfer: a report of 32 cases. Chin Med J
(Engl); 115: pp. 866-868.
[6]. Songcharoen P, Wongtrakul S, Mahaisavariya B, Spinner
RJ. (2001) Hemi-contralateral C7 transfer to median nerve in
the treatment of root avulsion brachial plexus injury. J Hand
Surg Am; 26: pp. 1058-1064.
[7]. Waikakul S, Orapin S, Vanadurongwan V. (1999). Clinical
results of contralateral C7 root neurotization to the median
nerve in brachial plexus injuries with total root avulsions. J Hand
Surg Br; 24: pp. 556-560.
[8]. Chuang, D. C. C. (1999). Contralateral C7 Transfer (CC- 7T)
for Avulsion Injury of the Brachial Plexus. Techniques in Hand
and Upper Extremity Surgery 3 (3); pp. 185-192.
[9]. Gao K, Lao J, Zhao X, Gu Y. (2013). Outcome of contralateral
C7 transfer to two recipient nerves in 22 patients with the total
brachial plexus avulsion injury. Microsurgery. Aug (1). doi:
10.1002/micr.22137. [Epub ahead of print]
[10]. Tu YK, Tsai YJ, Chang CH, Su FC, Hsiao CK, Tan JS. (2013).
Surgical treatment for total root avulsion type brachial plexus
injuries by neurotization: A prospective comparison study
between total and hemicontralateral C7 nerve root transfer.
Microsurgery. Aug (2). doi: 10.1002/micr.22148. [Epub ahead
of print]
[11]. Gu YD, Zhang GM, Chen DS, Yan JG, Cheng XM, Chen L.
(1992). Seventh cervical nerve root transfer from contralateral
healthy side for treatment of brachial plexus root avulsion. J
Hand Surg Br; 17: pp. 518-521.
[12]. Bruxelle J, Travers V, Thiebaut JB (1988) Occurrence
and treatment of pain after brachial plexus injury. Clinical
Orthopaedics and Related Research (273), pp 87 – 95.
[13]. N. Kato, M. Htut, M. Taggart (2006). The effects of operative
delay on the relief of neuropathic pain after injury to the brachial
plexus: a review of 148 case. Journal of bone and joint surgery
88-B, (6), pp 756 - 759
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_chuyen_re_c7_ben_lanh_tai_phan_bo_cho_than_kinh_co_b.pdf