Kết luận
- Về tính sẵn có của thuốc, tỷ lệ có thuốc
bình quân tại Việt Nam ở mức trung bình so với
số liệu các nớc với mức là 55-56%. Tỷ lệ này
hầu nh không khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở
khảo sát là các cơ sở y tế công lập, nhà thuốc BV
và nhà thuốc t nhân, song lại có sự khác nhau
khá rõ về tỷ lệ có thuốc bình quân giữa các vùng
kinh tế- xã hội và giữa các tuyến y tế. 95% bệnh
nhân BHYT đợc cấp thuốc đầy đủ theo đơn
đợc kê.
- Về giá thuốc và khả năng trả đợc tiền
thuốc: giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh nhân tại
Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá tham khảo
quốc tế đối với biệt dợc của nhà phát minh và
cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá thấp nhất. So
với số liệu của WHO, chỉ số này tơng đối cao
đối với thuốc biệt dợc độc quyền và tơng đối
thấp đối với thuốc gốc. Khi đau ốm ngời dân
Việt Nam có thể chi trả đợc tiền thuốc đối với
thuốc gốc còn chi phí thuốc biệt dợc vợt quá
khả năng chi trả của ngời dân.
- Về chất lợng thuốc, tất cả các cơ sở khảo
sát đều không có thuốc hết hạn tại thời điểm
khảo sát. Tuy nhiên, tỷ lệ các cơ sở đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu về điều kiện bảo quản thuốc còn
khá thấp khi chỉ có gần 20% các cơ sở đạt 100%
các yêu cầu về bảo quản.
- Về vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý,
nghiên cứu cho thấy kết quả tiến bộ ở một số chỉ
số sử dụng thuốc tại bệnh viện nh: số thuốc
bình quân trong một đợt điều trị nội trú tại các
BV có xu hớng giảm đi so với năm 1997 và
2004, tỷ lệ tự đi mua thuốc kháng sinh giảm từ
42,4% năm 2004 xuống 30% năm 2010. Tuy
nhiên, còn một số chỉ số sử dụng thuốc đáng lo
ngại liên quan đến vấn đề sử dụng kháng sinh, tỷ
lệ chỉ định thuốc thiết yếu và thuốc theo tên gốc
khá thấp và tình trạng bán thuốc kê đơn không
có đơn còn khá phổ biến.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả đánh giá thực hiện chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn 1996-2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
Nghiên cứu chính sách
KếT QUả ĐáNH GIá THựC HIệN CHíNH SáCH QUốC GIA
Về THUốC GIAI ĐOạN 1996-2010
TS. Nguyễn Khánh Phương, CN. Nguyễn Thị Thủy,
BS. Hoàng Thu Thủy, TS. Hoàng Thị Phượng,
1
ThS. Vương Lan Mai và TS. Trần Thị Mai Oanh
Đặt vấn đề
1
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
2
WHO (2000), World Health Report 2000: Performance of
health system
3
WHO (1996), Comparative Analysis of national drug
policies in 12 countries, Geneva
4
WHO (1975), Resolution WHA 28.66
5
WHO (2006), Using indicators to measure country
pharmaceutical situation
6
Bộ Y tế (2010), Tài khoản y tế quốc gia 1998-2008
Trong hệ thống y tế, cùng với tài chính, nhân
lực, thuốc và các sản phẩm y học, vắc-xin và
trang thiết bị y tế là yếu tố đầu vào quan trọng
2
của toàn bộ hệ thống . Đảm bảo tiếp cận thuốc
thiết yếu có chất lượng và sử dụng thuốc hợp lý,
an toàn và hiệu quả là mục tiêu của mọi quốc
3
gia . Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 1975, Tổ
chức Y tế Thế giới đã ra Nghị quyết số 28.66
khuyến cáo các nước thành viên xây dựng chính
sách quốc gia về thuốc nhằm xác định các mục
tiêu trong trung hạn, dài hạn và các giải pháp
4
thực hiện mục tiêu đó trong lĩnh vực Dược .
Năm 2003, 108 nước trên thế giới đã có chính
5
sách quốc gia về thuốc .
Cũng như nhiều nước đang phát triển, tại
Việt Nam, chi cho thuốc chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng chi phí y tế. Theo số liệu Tài khoản Y
tế Quốc gia năm 2008, chi cho thuốc chiếm 40%
tổng chi toàn xã hội cho y tế. Tiêu thụ thuốc bình
quân đầu người, theo số liệu báo cáo của Cục
Quản lý Dược, liên tục tăng từ mức 6 đô la Mỹ
năm 2001 lên xấp xỉ 20 đô la Mỹ năm 2009.
Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam
được ban hành theo Nghị quyết 37/CP của
Chính phủ ngày 20/6/1996 là kim chỉ nam cho
việc hoạch định sự phát triển của ngành Dược.
Sự ra đời của chính sách thuốc quốc gia đã thể
hiện sự quan tâm và cam kết của Chính phủ đối
với việc đảm bảo nhu cầu về thuốc cho nhân dân
đồng thời đưa ra những giải pháp đồng bộ và dài
hạn để thực hiện các mục tiêu được xác định bao
gồm bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ
thuốc có chất lượng đến người dân; sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả... Thực tiễn sau
15 năm thực hiện Chính sách thuốc quốc gia cho
thấy nhu cầu cần có đánh giá toàn diện việc thực
hiện chính sách làm cơ sở cho việc xây dựng
Chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn mới, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn của ngành phù hợp với
tình hình thực tế.
Nhằm chuẩn hóa phương pháp và công cụ
theo dõi và đánh giá thực trạng lĩnh vực dược tại
các nước thành viên, WHO đã xây dựng tài liệu
hướng dẫn đánh giá hoạt động dược tại các quốc
gia. Theo đó, lĩnh vực dược được đánh giá theo
hai bộ chỉ số: Bộ chỉ số cấp I và Bộ chỉ số cấp II.
Bộ chỉ số cấp I đánh giá việc tổ chức thực hiện
chính sách thuốc. Bộ chỉ số cấp II đánh giá kết
quả thực hiện chính sách theo ba mục tiêu chủ
yếu liên quan đến khả năng tiếp cận thuốc, đảm
bảo chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an toàn,
hợp lý. Phương pháp đánh giá được chuẩn hóa từ
cách chọn mẫu nghiên cứu, cỡ mẫu và bộ công
cụ khảo sát. Nghiên cứu này áp dụng phương
pháp và bộ công cụ của WHO trong đánh giá
39
việc kết quả 15 năm thực hiện chính sách thuốc
quốc gia. Bài báo này sẽ trình bày một số kết quả
chính của nghiên cứu với mục tiêu chủ yếu là
đánh giá kết quả thực hiện Chính sách thuốc
quốc gia đối với khả năng tiếp cận thuốc, chất
lượng thuốc và vấn đề sử dụng thuốc an toàn,
hợp lý.
Khả năng tiếp cận thuốc
Khả năng tiếp cận thuốc được đánh giá theo
tính sẵn có của thuốc và khả năng tiếp cận về
mặt tài chính đo lường bằng khả năng chi trả
được cho thuốc. Đối với mỗi loại thuốc, tính
sẵn có và giá thuốc được so sánh giữa thuốc
biệt dược độc quyền và thuốc gốc có giá thấp
nhất. Tính sẵn có của mỗi thuốc được đo lường
bằng tỷ lệ cơ sở có thuốc đó tại thời điểm
nghiên cứu. Tỷ lệ có thuốc trung bình là giá trị
trung bình tỷ lệ có thuốc của 30 thuốc trong
danh mục khảo sát.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có thuốc
theo danh mục 30 thuốc khảo sát hầu như không
khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở khảo sát là các cơ
sở y tế công lập, nhà thuốc BV và nhà thuốc tư
nhân, dao động quanh giá trị 55-56% (Hình 1).
Tỷ lệ này dao động rất lớn giữa các thuốc trong
danh sách khảo sát từ 3% đến 97%.
Nghiên cứu á p dụng phương pháp và bộ công
cụ của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá hoạt động
lĩnh vực dược với thiết kế nghiên cứu cắt ngang,
kết hợp điều tra khảo sát thực địa và phân tích số
liệu sẵn có.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các nhóm đối
tượng liên quan tới việc triển khai và tác động
của Chính sách quốc gia về thuốc, đặc biệt tại
các cơ sở cung ứng thuốc tại bệnh viện công lập
và nhà thuốc tư nhân. Việc khảo sát được tiến
hành đối với người sử dụng trực tiếp là người
mua thuốc và bệnh nhân. Việc điều tra đánh giá
được tiến hành tại 6 tỉnh bao gồm Hà Nội, Lào
Cai, Bình Định, Gia Lai, TP Hồ Chí Minh và
Đồng Tháp đại diện cho 6 vùng địa lý trong cả
nước. Việc xác định mẫu nghiên cứu dựa theo
khung mẫu của Tổ chức Y tế Thế giới điều chỉnh
theo thực tế Việt Nam. Các cơ sở y tế được chọn
bao gồm các bệnh viện công lập các tuyến từ
TƯ (2 BV), tuyến tỉnh (6 BVĐK tỉnh và 1 BV
thành phố Hà Nội), tuyến huyện ( mỗi tỉnh chọn
ngẫu nhiên 3 huyện, riêng Hà Nội chỉ có 2 BV
huyện, tổng số 17 BV huyện) và trạm y tế xã (6
trạm). Số cơ sở bán lẻ thuốc tư nhân được chọn
là nhà thuốc tư nhân gần cơ sở y tế được chọn,
tổng số có 30 nhà thuốc tư nhân. Số lượng bệnh
nhân và người mua thuốc được xác định theo
công thức tính cỡ mẫu trong điều tra cắt ngang.
Phỏng vấn bằng phiếu hỏi được tiến hành đối
với 576 bệnh nhân sau khi khám chữa bệnh tại
các cơ sở y tế khảo sát và 520 khách hàng sau
khi mua thuốc tại các cơ sở bán lẻ thuốc tư nhân.
Ngoài ra, 423 bệnh án tiêu chảy cấp trẻ em và
442 bệnh án viêm phổi trẻ em đã được thu thập
tại các bệnh viện để phân tích việc dùng thuốc.
Phương pháp
Theo cách tiếp cận của WHO, việc đo lường
các chỉ số về khả năng tiếp cận bao gồm tính sẵn
có và khả năng chi trả được phải dựa theo danh
mục thuốc xác định. Việc xây dựng danh mục
thuốc dựa trên các nguyên tắc bao gồm: (1)
Danh mục thuốc do WHO đề xuất cho toàn thế
giới và khu vực Tây Thái Bình Dương (có Việt
Nam); (2) Thuốc điều trị các bệnh phổ biến nhất
theo mô hình bệnh tật và tử vong của VN; (3)
Thuốc có trong danh mục thuốc chủ yếu ở các
tuyến. Danh mục thuốc được điều chỉnh sau
nhiều lần xin ý kiến của các chuyên gia lâm
sàng, y tế công cộng và cán bộ quản lý. Danh
mục thuốc hoàn chỉnh bao gồm 30 thuốc trong
đó có 14 thuốc thuộc danh mục thuốc toàn cầu
của WHO, 8 thuốc thuộc danh mục thuốc khu
vực Tây Thái Bình Dương và 8 thuốc bổ sung
riêng cho Việt Nam. Trong tổng số 30 thuốc có
21 thuốc nằm trong danh mục thuốc thiết yếu
cho tất cả các tuyến, 7 thuốc là thuốc thiết yếu
cho tuyến huyện trở lên.
Kết quả đánh giá
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
40
Nghiên cứu chính sách
Có sự dao động khá rõ về tỷ lệ có thuốc tại
thời điểm nghiên cứu giữa các tuyến y tế. Tỷ lệ
có thuốc giảm dần khi đi từ BV tuyến TW xuống
BV tỉnh, BV huyện và tuyến xã. Tỷ lệ có thuốc
cao nhất tại BVTW với 71,7% và thấp nhất tại
trạm y tế xã với 28,3%. Tỷ lệ có thuốc cũng khác
nhau rõ rệt giữa các địa bàn nghiên cứu. Trong 6
tỉnh/thành khảo sát, hai thành phố lớn đồng thời
là hai trung tâm bán buôn thuốc là Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh có tỷ lệ có thuốc cao nhất (65-
66%). Tỷ lệ có thuốc thấp nhất tại hai tỉnh miền
núi là Gia Lai và Lào Cai (42-45%).
Phân tích tỷ lệ có thuốc theo nhóm thuốc cho
thấy nhóm thuốc kháng sinh có tỷ lệ sẵn có khá
cao. Một số nhóm thuốc có tỷ lệ sẵn có thấp như:
thuốc hạ lipid máu, thuốc điều trị trầm cảm,
thuốc cho trẻ em. Kết quả này đáng lưu ý khi
bệnh rối loạn chuyển hóa lipid và trầm cảm
đang gia tăng và gây gánh nặng bệnh tật lớn ở
Việt Nam. Trong 30 thuốc được chọn có 3 loại
thuốc chuyên dùng cho trẻ em là Clamoxyl gói
bột, Co-trimoxazole hỗn dịch, Paracetamol hỗn
dịch. Bảng 1 cho thấy tỷ lệ sẵn có các thuốc trẻ
em khá thấp tại các cơ sở y tế công lập khảo sát.
Khoảng một phần ba cơ sở y tế công lập không
có bất kỳ loại thuốc trẻ em nào trong ba thuốc có
trong danh mục thuốc khả sát trong khi tỷ lệ này
tại các nhà thuốc tư nhân chỉ là 17,2%. Trong
khi đó, 100% các BV các tuyến đều có ít nhất
một loại thuốc điều trị tăng huyết áp, tại tuyến
Hình 1: Tỷ lệ có thuốc tại các cơ sở khảo sát
xã tỷ lệ này thấp hơn với 83,3%.
Tính sẵn có của thuốc BHYT được đo lường
bằng tỷ lệ thuốc được BHYT cấp so với tổng số
thuốc được kê đơn cho mỗi bệnh nhân. Bệnh
nhân BHYT được cấp thuốc khá đầy đủ theo đơn
được kê (95%). Chỉ riêng tại BV tuyến tỉnh, tỷ lệ
cấp thuốc kê đơn cho bệnh nhân BHYT thấp hơn
90%. Như vậy, việc cung ứng thuốc cho bệnh
nhân BHYT được đảm bảo đầy đủ tại các cơ sở y
tế công lập.
Để đảm bảo người dân được tiếp cận thuốc
khi có nhu cầu, ngoài việc đảm bảo tính sẵn có
của thuốc, việc đảm bảo giá thuốc hợp lý, ở mức
chi trả được đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Giá thuốc được đánh giá thông qua chỉ số giá
thuốc so sánh với giá tham khảo quốc tế là trung
vị của giá đấu thầu quốc tế (theo tên gốc) do các
nhà cung ứng thuốc phi lợi nhuận áp dụng tại
các nước đang phát triển. Giá tham khảo quốc tế
là giá do tổ chức MSH cung cấp năm 2010. Chỉ
số giá của mỗi thuốc là trung vị giá thuốc đó tại
các cơ sở khảo sát và trung vị giá tham khảo
quốc tế.
Bảng 1 trình bày kết quả tổng hợp về giá
thuốc cho thấy giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh
nhân tại Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá
tham khảo quốc tế đối với biệt dược của nhà
phát minh và cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá
thấp nhất. Tại khu vực công lập, giá thuốc biệt
41
dược cao gấp 10,4 lần giá tham khảo quốc tế
trong khi giá thuốc gốc cao gấp 1,1 lần giá tham
khảo quốc tế. Tại khu vực nhà thuốc tư nhân, giá
thuốc cao hơn các cơ sở y tế công lập, cụ thể là
biệt dược cao gấp 13,4 lần giá thuốc tham khảo
quốc tế và giá thuốc gốc cao gấp 1,7 lần giá
tham khảo quốc tế. Giá thuốc tại nhà thuốc bệnh
viện cũng cao hơn giá bệnh viện cấp phát cho
bệnh nhân với chỉ số giá tham khảo tương ứng là
13 và 1,4 đối với thuốc biệt dược và thuốc gốc.
Bảng 1: Tỷ lệ trung vị giá thuốc bán cho bệnh nhân so với
giá tham khảo quốc tế giữa khu vực công lập và tư nhân
Chỉ số
Cơ sở y tế
công lập (32)
Nhà thuốc
BV (22)
Nhà thuốc
tư nhân (30)
Chung (83)
Biệt dược độc quyền
của nhà phát minh
10,4 (9)
0,4 - 22,2
1,1 (17)
0,1 - 3,4
13,0 (13)
0,4 - 41,8
1,4 (15)
0,1 - 5,1
13,4 (17)
0,4 - 41,5
1,7 (19)
0,1 - 5,1
12.1 (19)
0,4 - 41,1
1,4 (22)
0,1 - 4,9
Thuốc gốc có giá
thấp nhất
Theo số liệu khảo sát trên phạm vi toàn cầu
của WHO, tại khu vực công lập giá thuốc gốc
bán cho bệnh nhân có giá dao động từ 1,9 lần
đến 3,7 lần so với giá tham khảo quốc tế, còn giá
biệt dược dao động từ 5,3 đến 20,5 lần giá tham
7
khảo quốc tế. Do giá thuốc chưa được điều
chỉnh theo lạm phát và sức mua tương đương
nên chưa thể nói giá thuốc Việt Nam rẻ hơn giá
thuốc các nước khác. Tuy nhiên, có thể thấy
mức chênh lệch giữa giá thuốc gốc so với giá
tham khảo quốc tế tại các cơ sở y tế công lập của
Việt Nam thấp hơn mặt bằng chung quốc tế và ở
trong giới hạn được cho là mức giá phù hợp (từ
1-1,5 lần). Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa giá
thuốc biệt dược độc quyền của nhà phát minh và
thuốc gốc tương đương có giá thấp nhất tại Việt
Nam cao hơn nhiều so với thế giới và khu vực.
Tại các cơ sở y tế công lập, cùng một loại thuốc,
mức chênh lệch là 12,4 lần. Mức chênh lệch tại
khu vực tư nhân thấp hơn với 9,1 lần. Chỉ số này
trong báo cáo của WHO là hơn 4 lần và tại khu
vực Tây Thái Bình Dương là 5,5.
Để đánh giá tính phù hợp của giá thuốc với
khả năng chi trả của người dân nói chung, WHO
dùng chỉ số tính số ngày lương tối thiểu tương
ứng với chi phí một đợt điều trị một số bệnh theo
phác đồ chuẩn. Khi đau ốm người dân Việt Nam
có thể chi trả được tiền thuốc đối với thuốc gốc
còn chi phí thuốc biệt dược vượt quá khả năng
chi trả của người dân.
Chất lượng thuốc
Trong khảo sát này, chất lượng thuốc giới
hạn ở các chỉ số phản á nh tình trạng có thuốc hết
hạn và điều kiện bảo quản thuốc so với yêu cầu.
Tại tất cả các cơ sở khảo sát đều không có thuốc
hết hạn tại thời điểm khảo sát. Về điều kiện bảo
quản thuốc, các cơ sở khảo sát chỉ đạt bình quân
7/10 điểm yêu cầu bảo quản. Chỉ có 20% cơ sở
đáp ứng 100% yêu cầu bảo quản. Không chỉ số
nào trong các chỉ số đánh giá có 100% các cơ sở
đạt yêu cầu. Một số yêu cầu có tỷ lệ đạt thấp hơn
50% như: có thông gió, biểu đồ nhiệt độ, độ ẩm
thường xuyên được theo dõi và ghi chép. Nhìn
chung, việc tuân thủ các điều kiện bảo quản tại
khoa Dược BV tốt nhất, tiếp đến là nhà thuốc
BV. Khu vực tư nhân đáp ứng các yêu cầu về bảo
quản thuốc kém hơn khu vực nhà nước đối với
hầu hết các chỉ số. Mặc dù số trạm y tế xã được
khảo sát khá ít (05) nhưng kết quả khảo sát cho
thấy đa số điều kiện bảo quản thuốc của quầy
thuốc tại trạm y tế xã không được đảm bảo tốt.
Sử dụng thuốc hợp lý
Tại các cơ sở y tế công lập, việc sử dụng thuốc
7
WHO (2011), Medicines prices, availability and
affordability in World medicines situation 2011, Geneva
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
42
Nghiên cứu chính sách
hợp lý được đánh giá theo góc độ hành vi kê đơn
và cấp phát thuốc thông qua phỏng vấn bệnh
nhân sau khi mua thuốc hoặc nhận thuốc sau khi
được kê đơn. Trung bình một đơn thuốc khám
bệnh tại các cơ sở y tế công lập có 3,6 thuốc được
kê. Số thuốc bình quân trong một đợt điều trị nội
trú tại các BV là 5,6 thuốc giảm đi so với năm
1997 và 2004 (Hình 2).
0
1
2
3
4
5
6
7
8
1997 2004 2011
Hình 2: Số thuốc bình quân trên một bệnh án nội trú
tại bệnh viện công lập, 1997-2011
Tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chung là
49,2%. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước có
mức thu nhập thấp (51,7%) song lại cao hơn
các nước có thu nhập trung bình (43,3%). Giữa
các tuyến y tế cũng có sự dao động khá lớn. Tại
tuyến huyện xã, có tới 60% đơn thuốc có kháng
sinh trong khi tỷ lệ này tại tuyến TW chưa tới
30% và tuyến tỉnh là 40% (Hình 3). Việc sử
dụng kháng sinh phổ biến tại tuyến dưới trong
điều kiện hạn chế về xét nghiệm vi sinh, thử
kháng sinh đồ càng làm vấn đề vi khuẩn kháng
thuốc thêm trầm trọng.
0
10
20
30
40
50
60
70
BVTW BV tỉnh BV huyện TYT xã Chung
Kết quả khảo sát cho thấy nhìn chung các đơn
thuốc hầu như không kê thuốc tiêm. Trong khi đó,
tỷ lệ thuốc tiêm được kê vẫn khá cao tại các nước
Hình 3: Tỷ lệ có kháng sinh trong đơn thuốc kê tại các cơ sở y tế công lập
có mức thu nhập thấp với 23,1% và ngay tại các
nước có mức thu nhập trung bình tỷ lệ này vẫn
còn là 6,7%. Tuy nhiên, hơn một nửa đơn thuốc
43
khảo sát được kê Vitamin cho thấy xu hướng
dùng vitamin phổ biến ở tất cả các cơ sở y tế.
Tỷ lệ thuốc thiết yếu được sử dụng trong các
đơn thuốc khám bệnh là 40,8% thấp hơn nhiều
so với tỷ lệ này theo khảo sát của WHO, trong
khi tại hầu hết các nước tỷ lệ này đều trên 80% ở
khu vực y tế công lập. Càng lên tuyến trên việc
sử dụng thuốc thiết yếu càng giảm đi. Tại tuyến
TW, tỷ lệ thuốc thiết yếu trong đơn thuốc được
kê chỉ là 21,3%. Kết quả này cho thấy hiệu quả
của chính sách thuốc thiết yếu còn xa so với
mong đợi. Thuốc thiết yếu chưa thực sự được
chú trọng trong thực tế sử dụng thuốc tại bệnh
viện. Tỷ lệ dùng thuốc nội chung là 67,1% song
có sự dao động lớn giữa các tuyến y tế. Tỷ lệ này
tại TYT xã là 91,6% trong khi tại tuyến TW chỉ
là 25,7%. Việc sử dụng tên gốc trong kê đơn
thuốc ít phổ biến với tỷ lệ chung là 28%. Tại BV
tuyến tỉnh chỉ có 20% thuốc được dùng theo tên
gốc trong đơn kê cho bệnh nhân. Tỷ lệ này tại
BV huyện cũng chưa tới 30%. Trong khi đó,
khảo sát của WHO cho thấy tỷ lệ kê đơn tên gốc
8
ở các nước khá cao lên tới 80% .
Để đạt mục tiêu sử dụng thuốc an toàn, hợp
lý, bên cạnh việc kê đơn thuốc hợp lý, an toàn và
hiệu quả, việc người bán thuốc hoặc cấp phát
thuốc, tư vấn, cung cấp đủ thông tin về thuốc
cho người dùng thuốc biết cách sử dụng thuốc
cũng rất quan trọng. Kết quả khảo sát tại các cơ
sở cho thấy, tỷ lệ thuốc được ghi nhãn phù hợp
khi đến tay bệnh nhân/khách hàng là 64,1% tại
các cơ sở y tế nhà nước và thấp hơn tại các nhà
thuốc tư nhân là 47,2%. So với số liệu quốc tế, tỷ
lệ thuốc được ghi nhãn phù hợp của Việt Nam
thấp hơn (64,1% so với 79,4% tại các nước thu
nhập thấp và 87% tại các nước thu nhập trung
bình).
Tại các nhà thuốc tư nhân, kết quả khảo sát
khách hàng mua thuốc cho biết gần 40% thuốc
không thuộc danh mục thuốc không kê đơn
được bán không có đơn thuốc. Gần 30% lượt
khách hàng mua thuốc kháng sinh. Tỷ lệ này
giảm đáng kể so với tỷ lệ 42,4% khách hàng tại
nhà thuốc tư nhân có mua thuốc kháng sinh theo
9
khảo sát năm 2004 . Tuy nhiên, vẫn có 6,6%
lượt khách hàng tại nhà thuốc tư nhân có mua
thuốc tiêm. Tỷ lệ này đặc biệt cao tại Đồng
Tháp, lên tới 25% lượt khách hàng. Một phần ba
số khách hàng tại nhà thuốc tư nhân đã mua
vitamin hoặc thuốc bổ.
8
WHO (2006), Using indicators to measure country
pharmaceutical situation: A fact book on Level I and level II
monitoring indicators
9
Nguyễn Thị Kim Chúc và cộng sự (2004), Đánh giá tình
hình thực hiện chính sách quốc gia về thuốc tại Việt Nam từ
1996-2004
Kết luận và khuyến nghị
Kết luận
- Về tính sẵn có của thuốc, tỷ lệ có thuốc
bình quân tại Việt Nam ở mức trung bình so với
số liệu các nước với mức là 55-56%. Tỷ lệ này
hầu như không khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở
khảo sát là các cơ sở y tế công lập, nhà thuốc BV
và nhà thuốc tư nhân, song lại có sự khác nhau
khá rõ về tỷ lệ có thuốc bình quân giữa các vùng
kinh tế- xã hội và giữa các tuyến y tế. 95% bệnh
nhân BHYT được cấp thuốc đầy đủ theo đơn
được kê.
- Về giá thuốc và khả năng trả được tiền
thuốc: giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh nhân tại
Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá tham khảo
quốc tế đối với biệt dược của nhà phát minh và
cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá thấp nhất. So
với số liệu của WHO, chỉ số này tương đối cao
đối với thuốc biệt dược độc quyền và tương đối
thấp đối với thuốc gốc. Khi đau ốm người dân
Việt Nam có thể chi trả được tiền thuốc đối với
thuốc gốc còn chi phí thuốc biệt dược vượt quá
khả năng chi trả của người dân.
- Về chất lượng thuốc, tất cả các cơ sở khảo
sát đều không có thuốc hết hạn tại thời điểm
khảo sát. Tuy nhiên, tỷ lệ các cơ sở đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu về điều kiện bảo quản thuốc còn
khá thấp khi chỉ có gần 20% các cơ sở đạt 100%
các yêu cầu về bảo quản.
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
44
Nghiên cứu chính sách
- Về vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý,
nghiên cứu cho thấy kết quả tiến bộ ở một số chỉ
số sử dụng thuốc tại bệnh viện như: số thuốc
bình quân trong một đợt điều trị nội trú tại các
BV có xu hướng giảm đi so với năm 1997 và
2004, tỷ lệ tự đi mua thuốc kháng sinh giảm từ
42,4% năm 2004 xuống 30% năm 2010. Tuy
nhiên, còn một số chỉ số sử dụng thuốc đáng lo
ngại liên quan đến vấn đề sử dụng kháng sinh, tỷ
lệ chỉ định thuốc thiết yếu và thuốc theo tên gốc
khá thấp và tình trạng bán thuốc kê đơn không
có đơn còn khá phổ biến.
Khuyến nghị
- Cần có chính sách rõ ràng, mạnh mẽ và
nhất quán về thuốc thiết yếu và thuốc gốc từ
khâu sản xuất, cung ứng, quản lý chất lượng đến
sử dụng thuốc, đảm bảo người dân được tiếp cận
thuốc có chất lượng với giá cả phù hợp và không
phải chịu gánh nặng tài chính do chi phí thuốc.
- Cần có chiến lược quốc gia về kháng sinh,
trước mắt cần có kế hoạch phân bổ kinh phí thực
hiện Chương trình quốc gia về sử dụng kháng
sinh và giám sát kháng kháng sinh mới được ban
hành.
- Cần tăng cường việc thông tin sử dụng
thuốc hợp lý, an toàn cho người bệnh, khách
hàng và người dân trong cộng đồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_danh_gia_thuc_hien_chinh_sach_quoc_gia_ve_thuoc_giai.pdf