Kết quả đánh giá thực hiện chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn 1996-2010

Kết luận - Về tính sẵn có của thuốc, tỷ lệ có thuốc bình quân tại Việt Nam ở mức trung bình so với số liệu các nớc với mức là 55-56%. Tỷ lệ này hầu nh không khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở khảo sát là các cơ sở y tế công lập, nhà thuốc BV và nhà thuốc t nhân, song lại có sự khác nhau khá rõ về tỷ lệ có thuốc bình quân giữa các vùng kinh tế- xã hội và giữa các tuyến y tế. 95% bệnh nhân BHYT đợc cấp thuốc đầy đủ theo đơn đợc kê. - Về giá thuốc và khả năng trả đợc tiền thuốc: giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh nhân tại Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá tham khảo quốc tế đối với biệt dợc của nhà phát minh và cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá thấp nhất. So với số liệu của WHO, chỉ số này tơng đối cao đối với thuốc biệt dợc độc quyền và tơng đối thấp đối với thuốc gốc. Khi đau ốm ngời dân Việt Nam có thể chi trả đợc tiền thuốc đối với thuốc gốc còn chi phí thuốc biệt dợc vợt quá khả năng chi trả của ngời dân. - Về chất lợng thuốc, tất cả các cơ sở khảo sát đều không có thuốc hết hạn tại thời điểm khảo sát. Tuy nhiên, tỷ lệ các cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện bảo quản thuốc còn khá thấp khi chỉ có gần 20% các cơ sở đạt 100% các yêu cầu về bảo quản. - Về vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý, nghiên cứu cho thấy kết quả tiến bộ ở một số chỉ số sử dụng thuốc tại bệnh viện nh: số thuốc bình quân trong một đợt điều trị nội trú tại các BV có xu hớng giảm đi so với năm 1997 và 2004, tỷ lệ tự đi mua thuốc kháng sinh giảm từ 42,4% năm 2004 xuống 30% năm 2010. Tuy nhiên, còn một số chỉ số sử dụng thuốc đáng lo ngại liên quan đến vấn đề sử dụng kháng sinh, tỷ lệ chỉ định thuốc thiết yếu và thuốc theo tên gốc khá thấp và tình trạng bán thuốc kê đơn không có đơn còn khá phổ biến.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả đánh giá thực hiện chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn 1996-2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 Nghiên cứu chính sách KếT QUả ĐáNH GIá THựC HIệN CHíNH SáCH QUốC GIA Về THUốC GIAI ĐOạN 1996-2010 TS. Nguyễn Khánh Phương, CN. Nguyễn Thị Thủy, BS. Hoàng Thu Thủy, TS. Hoàng Thị Phượng, 1 ThS. Vương Lan Mai và TS. Trần Thị Mai Oanh Đặt vấn đề 1 Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 2 WHO (2000), World Health Report 2000: Performance of health system 3 WHO (1996), Comparative Analysis of national drug policies in 12 countries, Geneva 4 WHO (1975), Resolution WHA 28.66 5 WHO (2006), Using indicators to measure country pharmaceutical situation 6 Bộ Y tế (2010), Tài khoản y tế quốc gia 1998-2008 Trong hệ thống y tế, cùng với tài chính, nhân lực, thuốc và các sản phẩm y học, vắc-xin và trang thiết bị y tế là yếu tố đầu vào quan trọng 2 của toàn bộ hệ thống . Đảm bảo tiếp cận thuốc thiết yếu có chất lượng và sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả là mục tiêu của mọi quốc 3 gia . Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 1975, Tổ chức Y tế Thế giới đã ra Nghị quyết số 28.66 khuyến cáo các nước thành viên xây dựng chính sách quốc gia về thuốc nhằm xác định các mục tiêu trong trung hạn, dài hạn và các giải pháp 4 thực hiện mục tiêu đó trong lĩnh vực Dược . Năm 2003, 108 nước trên thế giới đã có chính 5 sách quốc gia về thuốc . Cũng như nhiều nước đang phát triển, tại Việt Nam, chi cho thuốc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí y tế. Theo số liệu Tài khoản Y tế Quốc gia năm 2008, chi cho thuốc chiếm 40% tổng chi toàn xã hội cho y tế. Tiêu thụ thuốc bình quân đầu người, theo số liệu báo cáo của Cục Quản lý Dược, liên tục tăng từ mức 6 đô la Mỹ năm 2001 lên xấp xỉ 20 đô la Mỹ năm 2009. Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam được ban hành theo Nghị quyết 37/CP của Chính phủ ngày 20/6/1996 là kim chỉ nam cho việc hoạch định sự phát triển của ngành Dược. Sự ra đời của chính sách thuốc quốc gia đã thể hiện sự quan tâm và cam kết của Chính phủ đối với việc đảm bảo nhu cầu về thuốc cho nhân dân đồng thời đưa ra những giải pháp đồng bộ và dài hạn để thực hiện các mục tiêu được xác định bao gồm bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân; sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả... Thực tiễn sau 15 năm thực hiện Chính sách thuốc quốc gia cho thấy nhu cầu cần có đánh giá toàn diện việc thực hiện chính sách làm cơ sở cho việc xây dựng Chính sách quốc gia về thuốc giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của ngành phù hợp với tình hình thực tế. Nhằm chuẩn hóa phương pháp và công cụ theo dõi và đánh giá thực trạng lĩnh vực dược tại các nước thành viên, WHO đã xây dựng tài liệu hướng dẫn đánh giá hoạt động dược tại các quốc gia. Theo đó, lĩnh vực dược được đánh giá theo hai bộ chỉ số: Bộ chỉ số cấp I và Bộ chỉ số cấp II. Bộ chỉ số cấp I đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách thuốc. Bộ chỉ số cấp II đánh giá kết quả thực hiện chính sách theo ba mục tiêu chủ yếu liên quan đến khả năng tiếp cận thuốc, đảm bảo chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Phương pháp đánh giá được chuẩn hóa từ cách chọn mẫu nghiên cứu, cỡ mẫu và bộ công cụ khảo sát. Nghiên cứu này áp dụng phương pháp và bộ công cụ của WHO trong đánh giá 39 việc kết quả 15 năm thực hiện chính sách thuốc quốc gia. Bài báo này sẽ trình bày một số kết quả chính của nghiên cứu với mục tiêu chủ yếu là đánh giá kết quả thực hiện Chính sách thuốc quốc gia đối với khả năng tiếp cận thuốc, chất lượng thuốc và vấn đề sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Khả năng tiếp cận thuốc Khả năng tiếp cận thuốc được đánh giá theo tính sẵn có của thuốc và khả năng tiếp cận về mặt tài chính đo lường bằng khả năng chi trả được cho thuốc. Đối với mỗi loại thuốc, tính sẵn có và giá thuốc được so sánh giữa thuốc biệt dược độc quyền và thuốc gốc có giá thấp nhất. Tính sẵn có của mỗi thuốc được đo lường bằng tỷ lệ cơ sở có thuốc đó tại thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ có thuốc trung bình là giá trị trung bình tỷ lệ có thuốc của 30 thuốc trong danh mục khảo sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có thuốc theo danh mục 30 thuốc khảo sát hầu như không khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở khảo sát là các cơ sở y tế công lập, nhà thuốc BV và nhà thuốc tư nhân, dao động quanh giá trị 55-56% (Hình 1). Tỷ lệ này dao động rất lớn giữa các thuốc trong danh sách khảo sát từ 3% đến 97%. Nghiên cứu á p dụng phương pháp và bộ công cụ của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá hoạt động lĩnh vực dược với thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp điều tra khảo sát thực địa và phân tích số liệu sẵn có. Đối tượng nghiên cứu bao gồm các nhóm đối tượng liên quan tới việc triển khai và tác động của Chính sách quốc gia về thuốc, đặc biệt tại các cơ sở cung ứng thuốc tại bệnh viện công lập và nhà thuốc tư nhân. Việc khảo sát được tiến hành đối với người sử dụng trực tiếp là người mua thuốc và bệnh nhân. Việc điều tra đánh giá được tiến hành tại 6 tỉnh bao gồm Hà Nội, Lào Cai, Bình Định, Gia Lai, TP Hồ Chí Minh và Đồng Tháp đại diện cho 6 vùng địa lý trong cả nước. Việc xác định mẫu nghiên cứu dựa theo khung mẫu của Tổ chức Y tế Thế giới điều chỉnh theo thực tế Việt Nam. Các cơ sở y tế được chọn bao gồm các bệnh viện công lập các tuyến từ TƯ (2 BV), tuyến tỉnh (6 BVĐK tỉnh và 1 BV thành phố Hà Nội), tuyến huyện ( mỗi tỉnh chọn ngẫu nhiên 3 huyện, riêng Hà Nội chỉ có 2 BV huyện, tổng số 17 BV huyện) và trạm y tế xã (6 trạm). Số cơ sở bán lẻ thuốc tư nhân được chọn là nhà thuốc tư nhân gần cơ sở y tế được chọn, tổng số có 30 nhà thuốc tư nhân. Số lượng bệnh nhân và người mua thuốc được xác định theo công thức tính cỡ mẫu trong điều tra cắt ngang. Phỏng vấn bằng phiếu hỏi được tiến hành đối với 576 bệnh nhân sau khi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế khảo sát và 520 khách hàng sau khi mua thuốc tại các cơ sở bán lẻ thuốc tư nhân. Ngoài ra, 423 bệnh án tiêu chảy cấp trẻ em và 442 bệnh án viêm phổi trẻ em đã được thu thập tại các bệnh viện để phân tích việc dùng thuốc. Phương pháp Theo cách tiếp cận của WHO, việc đo lường các chỉ số về khả năng tiếp cận bao gồm tính sẵn có và khả năng chi trả được phải dựa theo danh mục thuốc xác định. Việc xây dựng danh mục thuốc dựa trên các nguyên tắc bao gồm: (1) Danh mục thuốc do WHO đề xuất cho toàn thế giới và khu vực Tây Thái Bình Dương (có Việt Nam); (2) Thuốc điều trị các bệnh phổ biến nhất theo mô hình bệnh tật và tử vong của VN; (3) Thuốc có trong danh mục thuốc chủ yếu ở các tuyến. Danh mục thuốc được điều chỉnh sau nhiều lần xin ý kiến của các chuyên gia lâm sàng, y tế công cộng và cán bộ quản lý. Danh mục thuốc hoàn chỉnh bao gồm 30 thuốc trong đó có 14 thuốc thuộc danh mục thuốc toàn cầu của WHO, 8 thuốc thuộc danh mục thuốc khu vực Tây Thái Bình Dương và 8 thuốc bổ sung riêng cho Việt Nam. Trong tổng số 30 thuốc có 21 thuốc nằm trong danh mục thuốc thiết yếu cho tất cả các tuyến, 7 thuốc là thuốc thiết yếu cho tuyến huyện trở lên. Kết quả đánh giá Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 40 Nghiên cứu chính sách Có sự dao động khá rõ về tỷ lệ có thuốc tại thời điểm nghiên cứu giữa các tuyến y tế. Tỷ lệ có thuốc giảm dần khi đi từ BV tuyến TW xuống BV tỉnh, BV huyện và tuyến xã. Tỷ lệ có thuốc cao nhất tại BVTW với 71,7% và thấp nhất tại trạm y tế xã với 28,3%. Tỷ lệ có thuốc cũng khác nhau rõ rệt giữa các địa bàn nghiên cứu. Trong 6 tỉnh/thành khảo sát, hai thành phố lớn đồng thời là hai trung tâm bán buôn thuốc là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có tỷ lệ có thuốc cao nhất (65- 66%). Tỷ lệ có thuốc thấp nhất tại hai tỉnh miền núi là Gia Lai và Lào Cai (42-45%). Phân tích tỷ lệ có thuốc theo nhóm thuốc cho thấy nhóm thuốc kháng sinh có tỷ lệ sẵn có khá cao. Một số nhóm thuốc có tỷ lệ sẵn có thấp như: thuốc hạ lipid máu, thuốc điều trị trầm cảm, thuốc cho trẻ em. Kết quả này đáng lưu ý khi bệnh rối loạn chuyển hóa lipid và trầm cảm đang gia tăng và gây gánh nặng bệnh tật lớn ở Việt Nam. Trong 30 thuốc được chọn có 3 loại thuốc chuyên dùng cho trẻ em là Clamoxyl gói bột, Co-trimoxazole hỗn dịch, Paracetamol hỗn dịch. Bảng 1 cho thấy tỷ lệ sẵn có các thuốc trẻ em khá thấp tại các cơ sở y tế công lập khảo sát. Khoảng một phần ba cơ sở y tế công lập không có bất kỳ loại thuốc trẻ em nào trong ba thuốc có trong danh mục thuốc khả sát trong khi tỷ lệ này tại các nhà thuốc tư nhân chỉ là 17,2%. Trong khi đó, 100% các BV các tuyến đều có ít nhất một loại thuốc điều trị tăng huyết áp, tại tuyến Hình 1: Tỷ lệ có thuốc tại các cơ sở khảo sát xã tỷ lệ này thấp hơn với 83,3%. Tính sẵn có của thuốc BHYT được đo lường bằng tỷ lệ thuốc được BHYT cấp so với tổng số thuốc được kê đơn cho mỗi bệnh nhân. Bệnh nhân BHYT được cấp thuốc khá đầy đủ theo đơn được kê (95%). Chỉ riêng tại BV tuyến tỉnh, tỷ lệ cấp thuốc kê đơn cho bệnh nhân BHYT thấp hơn 90%. Như vậy, việc cung ứng thuốc cho bệnh nhân BHYT được đảm bảo đầy đủ tại các cơ sở y tế công lập. Để đảm bảo người dân được tiếp cận thuốc khi có nhu cầu, ngoài việc đảm bảo tính sẵn có của thuốc, việc đảm bảo giá thuốc hợp lý, ở mức chi trả được đóng vai trò vô cùng quan trọng. Giá thuốc được đánh giá thông qua chỉ số giá thuốc so sánh với giá tham khảo quốc tế là trung vị của giá đấu thầu quốc tế (theo tên gốc) do các nhà cung ứng thuốc phi lợi nhuận áp dụng tại các nước đang phát triển. Giá tham khảo quốc tế là giá do tổ chức MSH cung cấp năm 2010. Chỉ số giá của mỗi thuốc là trung vị giá thuốc đó tại các cơ sở khảo sát và trung vị giá tham khảo quốc tế. Bảng 1 trình bày kết quả tổng hợp về giá thuốc cho thấy giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh nhân tại Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá tham khảo quốc tế đối với biệt dược của nhà phát minh và cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá thấp nhất. Tại khu vực công lập, giá thuốc biệt 41 dược cao gấp 10,4 lần giá tham khảo quốc tế trong khi giá thuốc gốc cao gấp 1,1 lần giá tham khảo quốc tế. Tại khu vực nhà thuốc tư nhân, giá thuốc cao hơn các cơ sở y tế công lập, cụ thể là biệt dược cao gấp 13,4 lần giá thuốc tham khảo quốc tế và giá thuốc gốc cao gấp 1,7 lần giá tham khảo quốc tế. Giá thuốc tại nhà thuốc bệnh viện cũng cao hơn giá bệnh viện cấp phát cho bệnh nhân với chỉ số giá tham khảo tương ứng là 13 và 1,4 đối với thuốc biệt dược và thuốc gốc. Bảng 1: Tỷ lệ trung vị giá thuốc bán cho bệnh nhân so với giá tham khảo quốc tế giữa khu vực công lập và tư nhân Chỉ số Cơ sở y tế công lập (32) Nhà thuốc BV (22) Nhà thuốc tư nhân (30) Chung (83) Biệt dược độc quyền của nhà phát minh 10,4 (9) 0,4 - 22,2 1,1 (17) 0,1 - 3,4 13,0 (13) 0,4 - 41,8 1,4 (15) 0,1 - 5,1 13,4 (17) 0,4 - 41,5 1,7 (19) 0,1 - 5,1 12.1 (19) 0,4 - 41,1 1,4 (22) 0,1 - 4,9 Thuốc gốc có giá thấp nhất Theo số liệu khảo sát trên phạm vi toàn cầu của WHO, tại khu vực công lập giá thuốc gốc bán cho bệnh nhân có giá dao động từ 1,9 lần đến 3,7 lần so với giá tham khảo quốc tế, còn giá biệt dược dao động từ 5,3 đến 20,5 lần giá tham 7 khảo quốc tế. Do giá thuốc chưa được điều chỉnh theo lạm phát và sức mua tương đương nên chưa thể nói giá thuốc Việt Nam rẻ hơn giá thuốc các nước khác. Tuy nhiên, có thể thấy mức chênh lệch giữa giá thuốc gốc so với giá tham khảo quốc tế tại các cơ sở y tế công lập của Việt Nam thấp hơn mặt bằng chung quốc tế và ở trong giới hạn được cho là mức giá phù hợp (từ 1-1,5 lần). Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa giá thuốc biệt dược độc quyền của nhà phát minh và thuốc gốc tương đương có giá thấp nhất tại Việt Nam cao hơn nhiều so với thế giới và khu vực. Tại các cơ sở y tế công lập, cùng một loại thuốc, mức chênh lệch là 12,4 lần. Mức chênh lệch tại khu vực tư nhân thấp hơn với 9,1 lần. Chỉ số này trong báo cáo của WHO là hơn 4 lần và tại khu vực Tây Thái Bình Dương là 5,5. Để đánh giá tính phù hợp của giá thuốc với khả năng chi trả của người dân nói chung, WHO dùng chỉ số tính số ngày lương tối thiểu tương ứng với chi phí một đợt điều trị một số bệnh theo phác đồ chuẩn. Khi đau ốm người dân Việt Nam có thể chi trả được tiền thuốc đối với thuốc gốc còn chi phí thuốc biệt dược vượt quá khả năng chi trả của người dân. Chất lượng thuốc Trong khảo sát này, chất lượng thuốc giới hạn ở các chỉ số phản á nh tình trạng có thuốc hết hạn và điều kiện bảo quản thuốc so với yêu cầu. Tại tất cả các cơ sở khảo sát đều không có thuốc hết hạn tại thời điểm khảo sát. Về điều kiện bảo quản thuốc, các cơ sở khảo sát chỉ đạt bình quân 7/10 điểm yêu cầu bảo quản. Chỉ có 20% cơ sở đáp ứng 100% yêu cầu bảo quản. Không chỉ số nào trong các chỉ số đánh giá có 100% các cơ sở đạt yêu cầu. Một số yêu cầu có tỷ lệ đạt thấp hơn 50% như: có thông gió, biểu đồ nhiệt độ, độ ẩm thường xuyên được theo dõi và ghi chép. Nhìn chung, việc tuân thủ các điều kiện bảo quản tại khoa Dược BV tốt nhất, tiếp đến là nhà thuốc BV. Khu vực tư nhân đáp ứng các yêu cầu về bảo quản thuốc kém hơn khu vực nhà nước đối với hầu hết các chỉ số. Mặc dù số trạm y tế xã được khảo sát khá ít (05) nhưng kết quả khảo sát cho thấy đa số điều kiện bảo quản thuốc của quầy thuốc tại trạm y tế xã không được đảm bảo tốt. Sử dụng thuốc hợp lý Tại các cơ sở y tế công lập, việc sử dụng thuốc 7 WHO (2011), Medicines prices, availability and affordability in World medicines situation 2011, Geneva Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 42 Nghiên cứu chính sách hợp lý được đánh giá theo góc độ hành vi kê đơn và cấp phát thuốc thông qua phỏng vấn bệnh nhân sau khi mua thuốc hoặc nhận thuốc sau khi được kê đơn. Trung bình một đơn thuốc khám bệnh tại các cơ sở y tế công lập có 3,6 thuốc được kê. Số thuốc bình quân trong một đợt điều trị nội trú tại các BV là 5,6 thuốc giảm đi so với năm 1997 và 2004 (Hình 2). 0 1 2 3 4 5 6 7 8 1997 2004 2011 Hình 2: Số thuốc bình quân trên một bệnh án nội trú tại bệnh viện công lập, 1997-2011 Tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh chung là 49,2%. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước có mức thu nhập thấp (51,7%) song lại cao hơn các nước có thu nhập trung bình (43,3%). Giữa các tuyến y tế cũng có sự dao động khá lớn. Tại tuyến huyện xã, có tới 60% đơn thuốc có kháng sinh trong khi tỷ lệ này tại tuyến TW chưa tới 30% và tuyến tỉnh là 40% (Hình 3). Việc sử dụng kháng sinh phổ biến tại tuyến dưới trong điều kiện hạn chế về xét nghiệm vi sinh, thử kháng sinh đồ càng làm vấn đề vi khuẩn kháng thuốc thêm trầm trọng. 0 10 20 30 40 50 60 70 BVTW BV tỉnh BV huyện TYT xã Chung Kết quả khảo sát cho thấy nhìn chung các đơn thuốc hầu như không kê thuốc tiêm. Trong khi đó, tỷ lệ thuốc tiêm được kê vẫn khá cao tại các nước Hình 3: Tỷ lệ có kháng sinh trong đơn thuốc kê tại các cơ sở y tế công lập có mức thu nhập thấp với 23,1% và ngay tại các nước có mức thu nhập trung bình tỷ lệ này vẫn còn là 6,7%. Tuy nhiên, hơn một nửa đơn thuốc 43 khảo sát được kê Vitamin cho thấy xu hướng dùng vitamin phổ biến ở tất cả các cơ sở y tế. Tỷ lệ thuốc thiết yếu được sử dụng trong các đơn thuốc khám bệnh là 40,8% thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này theo khảo sát của WHO, trong khi tại hầu hết các nước tỷ lệ này đều trên 80% ở khu vực y tế công lập. Càng lên tuyến trên việc sử dụng thuốc thiết yếu càng giảm đi. Tại tuyến TW, tỷ lệ thuốc thiết yếu trong đơn thuốc được kê chỉ là 21,3%. Kết quả này cho thấy hiệu quả của chính sách thuốc thiết yếu còn xa so với mong đợi. Thuốc thiết yếu chưa thực sự được chú trọng trong thực tế sử dụng thuốc tại bệnh viện. Tỷ lệ dùng thuốc nội chung là 67,1% song có sự dao động lớn giữa các tuyến y tế. Tỷ lệ này tại TYT xã là 91,6% trong khi tại tuyến TW chỉ là 25,7%. Việc sử dụng tên gốc trong kê đơn thuốc ít phổ biến với tỷ lệ chung là 28%. Tại BV tuyến tỉnh chỉ có 20% thuốc được dùng theo tên gốc trong đơn kê cho bệnh nhân. Tỷ lệ này tại BV huyện cũng chưa tới 30%. Trong khi đó, khảo sát của WHO cho thấy tỷ lệ kê đơn tên gốc 8 ở các nước khá cao lên tới 80% . Để đạt mục tiêu sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, bên cạnh việc kê đơn thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả, việc người bán thuốc hoặc cấp phát thuốc, tư vấn, cung cấp đủ thông tin về thuốc cho người dùng thuốc biết cách sử dụng thuốc cũng rất quan trọng. Kết quả khảo sát tại các cơ sở cho thấy, tỷ lệ thuốc được ghi nhãn phù hợp khi đến tay bệnh nhân/khách hàng là 64,1% tại các cơ sở y tế nhà nước và thấp hơn tại các nhà thuốc tư nhân là 47,2%. So với số liệu quốc tế, tỷ lệ thuốc được ghi nhãn phù hợp của Việt Nam thấp hơn (64,1% so với 79,4% tại các nước thu nhập thấp và 87% tại các nước thu nhập trung bình). Tại các nhà thuốc tư nhân, kết quả khảo sát khách hàng mua thuốc cho biết gần 40% thuốc không thuộc danh mục thuốc không kê đơn được bán không có đơn thuốc. Gần 30% lượt khách hàng mua thuốc kháng sinh. Tỷ lệ này giảm đáng kể so với tỷ lệ 42,4% khách hàng tại nhà thuốc tư nhân có mua thuốc kháng sinh theo 9 khảo sát năm 2004 . Tuy nhiên, vẫn có 6,6% lượt khách hàng tại nhà thuốc tư nhân có mua thuốc tiêm. Tỷ lệ này đặc biệt cao tại Đồng Tháp, lên tới 25% lượt khách hàng. Một phần ba số khách hàng tại nhà thuốc tư nhân đã mua vitamin hoặc thuốc bổ. 8 WHO (2006), Using indicators to measure country pharmaceutical situation: A fact book on Level I and level II monitoring indicators 9 Nguyễn Thị Kim Chúc và cộng sự (2004), Đánh giá tình hình thực hiện chính sách quốc gia về thuốc tại Việt Nam từ 1996-2004 Kết luận và khuyến nghị Kết luận - Về tính sẵn có của thuốc, tỷ lệ có thuốc bình quân tại Việt Nam ở mức trung bình so với số liệu các nước với mức là 55-56%. Tỷ lệ này hầu như không khác nhau giữa 3 nhóm cơ sở khảo sát là các cơ sở y tế công lập, nhà thuốc BV và nhà thuốc tư nhân, song lại có sự khác nhau khá rõ về tỷ lệ có thuốc bình quân giữa các vùng kinh tế- xã hội và giữa các tuyến y tế. 95% bệnh nhân BHYT được cấp thuốc đầy đủ theo đơn được kê. - Về giá thuốc và khả năng trả được tiền thuốc: giá thuốc bán lẻ đến tay bệnh nhân tại Việt Nam cao gấp 12,1 lần so với giá tham khảo quốc tế đối với biệt dược của nhà phát minh và cao gấp 1,4 lần thuốc gốc có giá thấp nhất. So với số liệu của WHO, chỉ số này tương đối cao đối với thuốc biệt dược độc quyền và tương đối thấp đối với thuốc gốc. Khi đau ốm người dân Việt Nam có thể chi trả được tiền thuốc đối với thuốc gốc còn chi phí thuốc biệt dược vượt quá khả năng chi trả của người dân. - Về chất lượng thuốc, tất cả các cơ sở khảo sát đều không có thuốc hết hạn tại thời điểm khảo sát. Tuy nhiên, tỷ lệ các cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện bảo quản thuốc còn khá thấp khi chỉ có gần 20% các cơ sở đạt 100% các yêu cầu về bảo quản. Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 44 Nghiên cứu chính sách - Về vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý, nghiên cứu cho thấy kết quả tiến bộ ở một số chỉ số sử dụng thuốc tại bệnh viện như: số thuốc bình quân trong một đợt điều trị nội trú tại các BV có xu hướng giảm đi so với năm 1997 và 2004, tỷ lệ tự đi mua thuốc kháng sinh giảm từ 42,4% năm 2004 xuống 30% năm 2010. Tuy nhiên, còn một số chỉ số sử dụng thuốc đáng lo ngại liên quan đến vấn đề sử dụng kháng sinh, tỷ lệ chỉ định thuốc thiết yếu và thuốc theo tên gốc khá thấp và tình trạng bán thuốc kê đơn không có đơn còn khá phổ biến. Khuyến nghị - Cần có chính sách rõ ràng, mạnh mẽ và nhất quán về thuốc thiết yếu và thuốc gốc từ khâu sản xuất, cung ứng, quản lý chất lượng đến sử dụng thuốc, đảm bảo người dân được tiếp cận thuốc có chất lượng với giá cả phù hợp và không phải chịu gánh nặng tài chính do chi phí thuốc. - Cần có chiến lược quốc gia về kháng sinh, trước mắt cần có kế hoạch phân bổ kinh phí thực hiện Chương trình quốc gia về sử dụng kháng sinh và giám sát kháng kháng sinh mới được ban hành. - Cần tăng cường việc thông tin sử dụng thuốc hợp lý, an toàn cho người bệnh, khách hàng và người dân trong cộng đồng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_danh_gia_thuc_hien_chinh_sach_quoc_gia_ve_thuoc_giai.pdf
Tài liệu liên quan