Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi ong

Kết luận 6.1. Nuôi ong còn là nghề tự phát. Người nuôi ong luôn di chuyển đàn ong theo nguồn mật, phấn. Mỗi vùng, miền có những cây nguồn mật, phấn đặc trưng và nguồn mật, phấn phụ thuộc vào diện tích, mật độ, tuổi cây, lượng mật hoặc phấn của cây, thời gian cho mật hoặc phấn trong năm. Khả năng tiết mật của hoa và lá phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tập quán canh tác, chất đất, giống cây của từng vùng, khu vực cụ thể. Loại cây nguồn mật chính của Việt Nam là cao su, keo lai, tràm, cà phê, điều, nhãn, vải, chôm chôm, ngô, lúa, trinh nữ, đơn buốt . Người nuôi ong cần nắm chắc lịch nở hoa, tung phấn của các cây trồng theo vùng miền, thiết lập quan hệ tốt với nhà vườn để bố trí di chuyển đàn ong phù hợp, tận dụng tối đa nguồn mật, phấn thiên nhiên và tiết kiệm thức ăn bổ sung cho ong. 6.2. Cho ong ăn thức ăn bổ sung là khá phổ biến trong chăn nuôi ong lấy mật. Thành phần thức ăn bổ sung cho ong chủ yếu gồm đường, phấn hoa tự nhiên, bột đậu nành, vi lượng vitamin. Thức ăn chăn nuôi bổ sung cho ong chưa được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và an toàn vệ sinh. 6.3. Tỷ lệ người nuôi ong hiểu về Quy trình thực hành chăn nuôi tốt (VietGAHP) còn thấp (18,3%). Khoảng 70% số người nuôi ong chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức về kỹ thuật nuôi ong, mật độ đặt thùng ong, bệnh ong, phòng trị bệnh ong, các loại thuốc thú y được dùng trong chăn nuôi ong (trong đó cấm hoàn toàn kháng sinh trong nuôi ong), các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, các chỉ tiêu cần kiểm soát trong mua bán sản phẩm cũng như các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. 6.4. Có 81,6% các trại ong sử dụng TTY để phòng và trị bệnh cho ong theo giới thiệu mà không rõ thành phần và trong số đó 11,1% các loại thuốc đã sử dụng là không rõ nguồn gốc bao gồm loại thuốc có nguồn gốc Trung Quốc được người nuôi ong sử dụng nằm ngoài sự đánh giá, kiểm soát và quản lý của các cơ quan chuyên môn. 6.5. Hồ sơ ghi chép theo dõi đàn ong về tình hình dịch bệnh, về nguồn thức ăn tự nhiên, nguồn thức ăn bổ sung, thuốc điều trị, chia đàn. được thiết lập ở hầu hết các trại. Tuy nhiên, việc ghi chép là chưa thường xuyên. Tỷ lệ ghi chép nhật ký sử dụng thuốc phòng, trị bệnh tại các trại điều tra chỉ là 5,5%.

pdf17 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi ong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 KEÁT QUAÛ ÑIEÀU TRA TÌNH HÌNH SÖÛ DUÏNG THUOÁC THUÙ Y TRONG CHAÊN NUOÂI ONG Phùng Minh Phong1, Bùi Thị Phương Hòa2, Đinh Quyết Tâm3, Trần Thị Mai Thảo1, Phạm Thị Trang1, Khúc Thi San1, Chử Văn Tuất1 1. Trung tâm Kiểm tra vệ sinh thú y TW1 2. Hội Thú y Việt Nam 3. Hội nuôi ong Việt Nam 1. Đặt vấn đề Hệ sinh thái thực vật nước ta rất phong phú, thuận lợi cho sự phát triển của ngành chăn nuôi ong lấy mật. Người nuôi ong thường di chuyển đàn ong từ vùng này đến các vùng khác để đón mùa hoa nở hoặc để dưỡng ong. Tiêu thụ mật ong của nước ta phụ thuộc phần lớn vào thị trường xuất khẩu, chiếm khoảng 90% tổng sản lượng. Việt Nam đã triển khai Chương trình giám sát chất tồn dư trong mật ong từ năm 2001. Sau nhiều năm nỗ lực khắc phục các tồn tại theo các khuyến nghị của Tổng vụ các vấn đề về sức khỏe và an toàn thực phẩm của liên minh châu Âu (DG-SANTE), từ tháng 3 năm 2013, mật ong Việt Nam đã vào được thị trường EU (quyết định 2013/161/EU ngày 11. 03. 2013 về việc sửa đổi quyết định số 2011/163/EU), nhưng trên thực tế mức độ rủi ro cũng còn cao. Việt Nam gia nhập WTO, AFTA vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức trong sản xuất và tiêu thụ mật ong. Dự án “Điều tra tình hình sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi ong” là hết sức cần thiết, góp phần quan trọng nhằm đánh giá được thực trạng tình hình sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi ong và đề xuất các giải pháp về sản xuất, quản lý, sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi ong, góp phần phát triển chăn nuôi ong bền vững, đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. 2. Đối tượng và phạm vi điều tra Danh sách các tỉnh lấy mẫu và số mẫu phiếu cho đối tượng điều tra (trại) và loại mẫu như bảng 1. Bảng 1. Phân bổ quy mô điều tra STT Tỉnh Tổng số trại Mẫu mật ong Mẫu thức ăn nuôi ong Mẫu thuốc thú y 1 Sơn La 17 10 2 Hòa Bình 12 7 3 Bắc Giang 07 0 4 Bình Phước 26 5 4 1 5 Bình Dương 6 3 1 6 Đồng Nai 17 6 6 7 Bà Rịa – Vũng Tàu 10 6 6 8 Bình Thuận 4 4 3 9 Đăk Lăk 33 24 5 Tổng số 132 65 24 2 80 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 3. Thời gian và địa điểm - Thời gian điều tra chính thức được tiến hành vào tháng 10 năm 2016. - Các thông tin, văn bản liên quan tới chăn nuôi ong mật và quản lý ngành ong chốt đến ngày 31/12/ 2016. Kết quả điều tra đã cập nhật các văn bản mới nhất vì Luật thú y 2015 có hiệu lực từ 01/7/2016 và vào thời điểm điều tra chính thức, tháng 10/2016, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành, đã có hiệu lực và thay thế nhiều văn bản trước đây. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế Tiến hành điều tra theo Phiếu điều tra được thiết kế sẵn kết hợp phỏng vấn và quan sát thực địa để thu thập thông tin về địa điểm nuôi ong như vùng nguyên liệu phấn hoa, cây nguồn mật; các yếu tố ảnh hưởng như khói, bụi và các nhà máy hóa chất độc hại; Dụng cụ nuôi ong, thiết bị quay mật và các vật dụng chứa đựng mật ong, tình trạng vệ sinh; Hồ sơ quản lý đàn ong, thông tin về quản lý tình hình dịch bệnh, loại bệnh, biện pháp phòng trị bệnh; Loại thuốc thú y đã và đang sử dụng trong chăn nuôi ong; Thức ăn chăn nuôi ong như loại thức ăn, nguồn gốc xuất xứ, thành phần chính và tình trạng bổ sung kháng sinh; Nguồn nước sử dụng tại trại ong; Các thông tin về người nuôi ong như tuổi tác, giới tính, số năm kinh nghiệm trong chăn nuôi, tham gia lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi ong và một số câu hỏi để đánh giá nhận thức của người chăn nuôi ong về sử dụng thuốc thú y, đặc biệt là kháng sinh trong chăn nuôi ong. Phân tích mẫu - Lấy mẫu mật ong, mẫu thức ăn cho ong, mẫu thuốc thú y dùng tại trại ong theo Thông tư số 08/2015/TT-BNNPTNT ngày 02/ 3/ 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. - Phân tích dư lượng kháng sinh trong mẫu mật ong, mẫu thức ăn chăn nuôi ong, thuốc thú y dùng trong chăn nuôi ong bằng kỹ thuật sàng lọc ELISA, sau đó mẫu sàng lọc dương tính bằng ELISA sẽ phân tích khẳng định bằng LC-MS/MS. - Dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật: Các chỉ tiêu dư lượng HCBVTV trong mẫu thuốc phân tích bằng GC/MS; Carbendazim trong mẫu mật ong phân tích bằng LC-MS/MS. - Nơi phân tích: Phòng thử nghiệm của Trung tâm Kiểm tra vệ sinh thú y Trung ương 1 - Cục Thú y (VILAS 059, ISO/IEC 17025). 5. Kết quả 5.1. Kết quả điều tra trại nuôi ong 5.1.1. Vùng nguyên liệu phấn hoa, cây nguồn mật Thực vật ở Việt Nam rất đa dạng phong phú, có trên 145 loài cây nguồn mật phấn và thời gian nở hoa đan xen cung cấp thức ăn tự nhiên cho ong và phân bố trên nhiều vùng. Nguồn hoa nuôi ong đa dạng, đủ điều kiện để khai thác sản xuất khoảng 50.000 tấn mật ong/ năm, đồng thời để nuôi giữ các đàn ong giống duy trì và phát triển quanh năm. Các loại cây nguồn mật phấn, mật ong khai thác được với trữ lượng lớn và là nguồn mật xuất khẩu chủ yếu từ cây cao su, cà phê, điều, chôm chôm, đơn buốt, vải, nhãn... trong đó mật ong cao su là lớn nhất. theo sản lượng mật ong, các vụ khai thác mật chính ở Việt Nam bao gồm: Vụ khai thác mật cao su tháng 2 - tháng 4; Vụ khai thác mật cà phê tháng 10 - tháng 3; Vụ khai thác mật tràm tháng 1 - tháng 8; Vụ khai thác mật keo lai tháng 4 - tháng 7; Vụ khai thác mật vải, nhãn tháng 3 - tháng 4; Vụ khai thác mật đơn buốt tháng 10 - tháng 12. Đặc thù của nghề nuôi ong là người nuôi ong cùng đàn ong luôn di chuyển nhiều nơi; người nuôi ong của tỉnh này nhưng lại chuyển ong đến khai thác mật ở tỉnh khác để tận dụng mật phấn hoa của các loại cây từ các tỉnh khác. Ở các tỉnh miền Bắc, mùa khai thác mật chủ yếu vào tháng 3-4. Cũng vào thời điểm này, người nuôi ong ở các tỉnh phía Nam di chuyển ong tới một số tỉnh phía Bắc để khai thác nguồn mật, phấn. Người nuôi ong ở khắp nước có thể chuyển ong đến các địa điểm như Bắc Giang, Hưng Yên hoặc Sông Mã (Sơn La) để khai thác nhãn, vải trong tháng 3, 4; đến Hòa Bình, Mộc Châu (Sơn La) để nuôi dưỡng ong từ tháng 5 đến tháng 10; khai thác mật cúc áo từ tháng 10 đến tháng 11; đến Yên Châu, Sơn La khai thác mật cỏ lào từ tháng 12 đến tháng 2. Vào mùa Đông, người nuôi ong ở các tỉnh phía Bắc lại di chuyển ong tới các tỉnh phía Nam để tránh rét. Các tỉnh phía Nam có vụ mật chính rất dài từ cao 81 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 su lá già, điều, cao su lá non, cà phê, chôm chôm và nhãn từ cuối tháng 11 đến tháng 5 tại các tỉnh có nguồn hoa tập trung như Đồng Nai, Đắc Lắc, Gia Lai, Bình Phước, Lâm Đồng. Vụ dưỡng ong, người nuôi ong có thể chuyển ong đến các vùng thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Vũng Tàu, Côn Đảo, Phan Thiết. Riêng các tỉnh như Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long thì từ tháng 6 đến tháng 10, người nuôi ong có thể khai thác được mật nhãn, mật tràm Vụ phấn hoa lớn nhất của phía Nam là vụ hoa trinh nữ vào tháng 10, khi đó người nuôi ong chuyển ong đến các vùng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào, vừa phát triển đàn ong, vừa nhân đàn chuẩn bị cho vụ mật sắp tới và khai thác phấn tại Lâm Đồng, Phan Thiết, Đồng Nai, Bình Phước, Vũng Tàu, Côn Đảo. 5.1.2. Vị trí đặt trại nuôi ong + Vị trí đặt trại nuôi ong, thùng ong và nơi quay mật được trình bày tại bảng 2. Bảng 2. Vị trí đặt trại nuôi ong, thùng ong và nơi quay mật STT Tiêu chí Đánh giá Ký hiệu Số trại Tỷ lệ (%) 1 Vị trí đặt trại nuôi ong có phù hợp với vùng nuôi ong (có đủ cây nguồn mật, phấn hoa; không bị dịch bệnh ong trong khoảng thời gian 3 tháng trước khi đặt nuôi) Có 1 129 98,5 Không 2 2 1,5 2 Vị trí nơi đặt thùng ong ở khu vực cao ráo, không bị ngập nước Phù hợp 1 127 98,4 Không phù hợp 2 2 1,6 Tổng 129 3 Khu vực quay mật được bố trí riêng biệt với khu vực đặt thùng ong Phù hợp 1 124 96,1 Không phù hợp 2 5 3,9 Tổng 129 Kết quả điều tra chỉ ra: 98,5% trại nuôi ong đặt ở vị trí phù hợp với vùng nuôi ong (có đủ cây nguồn mật, phấn hoa; không bị dịch bệnh ong trong khoảng thời gian 3 tháng trước khi đặt nuôi); 98,8% thùng ong đặt ở khu vực cao ráo, không bị ngập nước; 96,1% khu vực quay mật được bố trí riêng biệt với khu vực đặt thùng ong. Tuy nhiên do những điểm đặt ong thường ở trong rừng, xa nguồn nước sinh hoạt nên người nuôi ong thường tùy tiện, việc quay mật thường rất khẩn trương, nếu người nuôi ong không nắm được các yêu cầu về vệ sinh cần thiết đối với trại ong, với thao tác quay mật và vệ sinh nơi quay mật sẽ dễ có hành động dẫn đến mất vệ sinh an toàn thực phẩm của mật ong. + Khi chuẩn bị chuyển đàn ong đến địa điểm mới, người nuôi ong thường đi trước kiểm tra xem vùng đó người dân có đang sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không, tình hình an ninh khu dân cư thế nào, thiết lập quan hệ với địa phương và nhà vườn nơi đặt đàn ong. Các loại HCBVTV đã phun cho cây trồng trong vòng bán kính 2 km so với nơi đặt ong chủ yếu gồm thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt rầy, thuốc diệt rệp, thuốc diệt kiến, thuốc xịt lá, thuốc xịt cỏ, thuốc diệt nấm bao gồm carbendazim (bảng 3). Kết quả điều tra cho thấy có nhiều loại hóa chất BVTV được sử dụng để bảo vệ cây trồng trong nông, lâm nghiệp. Thông tư số 03/2016/ TT-BNNPTNT ngày 21/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, quy định danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam chủ yếu là các hóa chất BVTV thuộc nhóm cacbamate và nhóm cúc tổng hợp. Đây là các loại thuốc có thời gian bán hủy nhanh, không tồn tại lâu ở thể gốc trong môi trường. Do đặc thù của ong kiếm mật phấn là bay trong bán kính khoảng 2 km so với nơi đặt thùng ong, nên ong mật có thể lấy mật phấn từ nhiều loại cây nông nghiệp mà ở đó bà con nông dân vừa sử dụng HCBVTV để phòng trị bệnh cho cây trồng. Trong nhiều năm qua, không có trường hợp nào mẫu mật ong của Chương trình giám sát chất tồn dư trong mật ong vi phạm về dư lượng HCBVTV, song người nuôi ong phải hết sức cảnh giác, thường xuyên bám sát, cập nhật thông tin về nguồn mật hoa tại nơi 82 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Bảng 3. Hóa chất BVTV đã phun cho cây trồng trong vòng bán kính 2 km so với nơi đặt ong N = 28 TT HCBVTV đã phun cho cây trồng trong phạm vi 2 km Số trại Tỷ lệ (%) 1 trừ sâu 2 7,1 2 diệt cỏ 13 46,4 3 diệt rầy 1 3,6 4 diệt rệp 2 7,1 5 diệt kiến 2 7,1 6 xịt lá 1 3,6 7 xịt cỏ 3 10,7 8 nấm 1 3,6 9 carbendazim 3 10,7 đặt thùng ong, đặc biệt là vùng cây lâm nghiệp mà bà con nông dân có sử dụng carbendazim để phòng trị bệnh nấm cho cây trồng. 5.1.3. Tình trạng vệ sinh của dụng cụ nuôi ong Tình trạng vệ sinh của thùng quay mật và dụng cụ chứa đựng mật ong trình bày trong bảng 4. Bảng 4. Tình trạng vệ sinh của thùng quay mật và dụng cụ chứa đựng mật ong Loại Tiêu chí Đánh giá Ký hiệu Số trại Tỷ lệ (%) Th ùn g qu ay m ật Vật liệu làm thùng quay mật Tôn 1 8 6,3 Inox 2 118 93,7 Khác 3 0 0,0 Tổng số 126 Có hộp bao kín bánh răng chuyển động Có 1 46 38,7 Không 2 73 61,3 Tổng số 119 Làm sạch trước và sau khi sử dụng Có 1 115 96,6 Không 2 4 3,4 Tổng số 119 Che kín khi bảo quản Có 1 71 59,7 Không 2 48 40,3 Tổng 119 Khi sử dụng, thùng quay có sạch và khô không Có 1 115 97,5 Không 2 3 2,5 Tổng số 118 Dụng cụ chứa đựng mật ong Vật liệu làm dụng cụ chứa đựng mật ong Phù hợp 1 124 99,2 Không 2 1 0,8 Tổng số 125 Kết quả khảo sát cho thấy: Thùng quay mật thường thiết kế hình trụ, 93,7% thùng quay mật làm bằng inox; 96,6% được làm sạch trước và sau khi sử dụng; 97,5% thùng quay được làm sạch và khô khi sử dụng, nhưng chỉ có 38,7% các thùng quay mật có hộp bao kín bánh răng của thùng 83 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 quay mật tránh sự ô nhiễm của dầu mỡ ở các ổ bánh răng vào mật ong. Vật liệu của dụng cụ chứa đựng mật ong, các mối nối, mối ghép giữa các bề mặt, 99,2% đạt yêu cầu. 5.1.4. Thức ăn bố sung cho ong mật Vào thời điểm khan hiếm nguồn mật phấn hoa, khi thức ăn tự nhiên thiếu, mật dự trữ trong cầu ong hết hoặc những ngày mưa rét mà ong không đi tìm được, người nuôi ong thường cho ong ăn bổ sung nhằm mục đích hỗ trợ và kích thích ong hoạt động, duy trì đàn ong...Ngoài ra trong quá trình nuôi ong cũng có thời kỳ người nuôi ong phải cho ong ăn thêm nhằm kích thích ong xây bánh tổ, bồi dưỡng thêm các chất dinh dưỡng khi tạo ong chúa hoặc cho ong ăn thuốc phòng chống bệnh (bảng 5). Bảng 5. Loại thức ăn bố sung cho ong mật N = 127 TT Loại thức ăn bổ sung Số sử dụng Tỷ lệ (%) 1 Thức ăn tự phối trộn đường, phấn hoa 58 45,7 2 Thức ăn tự phối trộn bột đậu nành, đường 44 34,6 3 Thức ăn tự phối trộn đường 13 10,2 4 Thức ăn tự phối trộn bột đậu nành, phấn hoa, đường, Apiminvit 9 7,1 5 Thức ăn chăn nuôi ong hỗn hợp thương phẩm 0 0,0 6 Thức ăn tự phối trộn với men bia 0 0,0 7 Thức ăn khác 3 2,4 Kết quả điều tra cho thấy thành phần thức ăn bổ sung cho ong chủ yếu gồm đường, phấn hoa tự nhiên, bột đậu nành, bột vi lượng vitamin (Apiminvit), thức ăn khác (sữa chua) và nước tạo ra hỗn hợp thức ăn bổ sung cho ong, trong đó phổ biến nhất (45,7%) là thức ăn tự phối trộn phấn hoa, đường và thức ăn tự phối trộn bột đậu nành, đường (34,6%). Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật và tháng trong năm trình bày trong bảng 6. Kết quả điều tra về thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật và tháng trong năm cho thấy mỗi loài cây có thời gian nở hoa, tung phấn phong phú vào từng thời điểm khác nhau trong năm, tương ứng với các vụ khai thác mật như vụ khai thác mật vải, nhãn vào tháng 3 – tháng 4, là thời điểm phong phú về mật vải, nhãn nhưng người nuôi ong vẫn bổ sung thức ăn cho ong. Nói chung, vụ thu hoạch mật chính từ 15/12 đến 15/4 (cao điểm là tháng 2- tháng 4), vụ thu hoạch mật khác, với số lượng ít hơn tập trung vào tháng 9 và đầu tháng 10. Các tháng từ giữa tháng 4 đến nửa đầu tháng 9 và nửa cuối tháng 10 tới nửa đầu tháng 12 thường là thời kỳ dưỡng ong và người nuôi ong thường cho ong ăn thức ăn bố sung thay thế phấn hoa với thành phần chính là bột đậu nành, đường có trộn thêm với phấn hoa tự nhiên. Thời kỳ dưỡng ong cũng là giai đoạn có khí hậu ẩm ướt, ong dễ bị bệnh (do virus, vi khuẩn, nấm và các ve ký sinh gây ra, bệnh thối ấu trùng...). Vì vậy đây chính là thời kỳ người nuôi ong thường sử dụng thuốc để phòng và trị bệnh cho đàn ong. Trong ngành ong, việc nắm chắc lịch nở hoa, tung phấn của các cây trồng theo vùng miền và thời gian trong năm là quan trọng để bố trí di chuyển đàn ong phù hợp, tận dụng tối đa nguồn mật, phấn thiên nhiên và vừa giảm việc bổ sung thức ăn cho ong. 84 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Bảng 6. Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật và tháng trong năm Tháng Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung theo vụ khai thác mật keo lai Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật cao su Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật cà phê Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật tràm Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung cho ong theo vụ khai thác mật vải, nhãn Thời điểm sử dụng thức ăn bổ sung khác Số trại Tỷ lệ (%) Số trại Tỷ lệ (%) Số trại Tỷ lệ (%) Số trại Tỷ lệ (%) Số trại Tỷ lệ (%) Số trại Tỷ lệ (%) 1 0 0,0 12 10,6 6 23,1 1 2,4 1 5,0 1 2,3 2 1 1,3 14 12,4 4 15,4 3 7,3 1 5,0 1 2,3 3 1 1,3 10 8,8 4 15,4 3 7,3 5 25,0 1 2,3 4 9 11,4 7 6,2 4 15,4 6 14,6 5 25,0 0 0,0 5 10 12,7 3 2,7 1 3,8 6 14,6 5 25,0 0 0,0 6 13 16,5 3 2,7 0 0,0 7 17,1 1 5,0 1 2,3 7 13 16,5 8 7,1 0 0,0 5 12,2 0 0,0 4 9,3 8 11 13,9 16 14,2 0 0,0 2 4,9 0 0,0 12 27,9 9 7 8,9 12 10,6 0 0,0 2 4,9 1 5,0 11 25,6 10 7 8,9 13 11,5 0 0,0 1 2,4 1 5,0 10 23,3 11 4 5,1 8 7,1 1 3,8 2 4,9 0 0,0 1 2,3 12 3 3,8 7 6,2 6 23,1 3 7,3 0 0,0 1 2,3 Tổng 79 100,0 113 100,0 26 100,0 41 100,0 20 100,0 43 100,0 Loại thuốc được bổ sung vào thức ăn nuôi ong của các trại ong được trình bày tại bảng 7. Bảng 7. Loại thuốc bổ sung vào thức ăn nuôi ong của các trại ong Loại thuốc bổ sung Mã hóa Số trại Tỷ lệ (%) Acid formic 5 93 90,3 Khác (tinh dầu, vitamin) 13 10 9,7 Tổng số 103 Kết quả bảng trên cho thấy người nuôi ong thường sử dụng thức ăn công nghiệp nguyên liệu thương phẩm trên thị trường như đường, phấn hoa tự nhiên, bột đậu nành, bột vi lượng để phối trộn làm thức ăn bổ sung cho ong. Loại thuốc bổ sung vào thức ăn nuôi ong của các trại ong phổ biến nhất là acid formic (90,3%). Các loại thuốc khác bổ sung vào thức ăn nuôi ong như tinh dầu tràm, tinh dầu đinh hương, vitamin B1 5.1.5. Quản lý trại ong của người nuôi ong 5.1.5.1. Quy mô nuôi ong Hiện cả nước có gần 1,5 triệu đàn ong với hơn 34 nghìn người nuôi ong (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2015). Kết quả điều tra về quy mô nuôi ong được thể hiện trong bảng 8. Số liệu bảng trên cho thấy 1 trại ong trung bình hiện nay đa số có quy mô 200 – 260 đàn/trại ong. So với giai đoạn từ 2008 đến 2010, trung bình là 160 đàn/ trại, thì quy mô các trại ong đều có động thái tăng dần về số đàn ong/trại ong và người nuôi ong có xu hướng tăng quy mô với giống ong ngoại. 85 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 5.1.5.2. Sổ sách ghi chép theo dõi đàn ong mật Kết quả điều tra thông tin sổ sách ghi chép theo dõi đàn ong trình bày trong bảng 9. Bảng 8. Số đàn ong /trại STT Tiêu chí Số đàn ong/trại 1 Trung bình 310,6 2 Tối thiểu 10 3 Tối đa 1200 4 Số trung vị 260 5 Số mốt 200 Bảng 9. Thông tin sổ sách ghi chép theo dõi đàn ong N = 127 TT Tiêu chí Có lập sổ Tỷ lệ (%) 1 Số đàn/thùng 42 33,1 2 Sản lượng mật ong 61 48,0 3 Sản lượng sáp ong thu hoạch 36 28,3 4 Nguồn phấn hoa 14 11,0 5 Theo dõi tình hình phòng, trị bệnh 17 13,4 6 Theo dõi tình hình sử dụng thuốc phòng, trị bệnh 7 5,5 7 Theo dõi thức ăn bổ sung cho ong 38 29,9 8 Theo dõi di chuyển ong 14 11,0 9 Theo dõi chi phí và doanh thu 38 29,9 10 Khác 2 1,6 Kết quả điều tra cho thấy: Hầu hết các trại ong có thiết lập hệ thống sổ sách ghi chép theo dõi đàn ong. Các tiêu chí về vệ sinh thú y như các thùng ong được đánh số, có sổ nhật ký chăn nuôi của từng trại, ghi các thông tin về tình hình của đàn ong trong ngày, về nguồn thức ăn tự nhiên, nguồn thức ăn bổ sung, dịch bệnh, thuốc điều trị, chia đàn... được thiết lập đầy đủ. Nếu có dịch bệnh xảy ra, nhiều trại ong có hướng dẫn phòng và trị bệnh. Tuy nhiên, việc ghi chép các tiêu chí về vệ sinh thú y là không thường xuyên; chỉ tiêu ghi chép tình hình sử dụng thuốc phòng, trị bệnh là 5,5%. 5.1.6. Trình độ kỹ thuật nuôi ong 5.1.6.1. Tuổi và thâm niên của người nuôi ong Kết quả điều tra cho thấy, đa số người nuôi ong là nam giới (97,7%); ở trại nuôi ong thường có chủ trại và có thể có thêm 1 số người lao động. Số người lao động của trại ong: số trung vị là 1, tối thiểu là 1, tối đa là 50 người, trong đó người nuôi ong là chủ trại ong chiếm tới 36,9%; tuổi bình quân của người chủ nuôi ong ở tuổi 39, số trung vị là 36, số mốt là 46, tuổi tối thiểu là 18, tuổi tối đa là 64; thâm niên nuôi ong bình quân của người nuôi ong là 10,7 năm và số trung vị là 10, tối thiểu là 2, tối đa là 55 năm kinh nghiệm. Kết quả tuổi và thâm niên của người nuôi ong trình bày tại bảng 10. 86 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Bảng 10. Tuổi và thâm niên của người nuôi ong STT Tiêu chí Thâm niên nuôi ong (năm) Số lao động của trại ong (người) Tuổi của người chủ trại nuôi ong (tuổi) 1 Trung bình 10,7 2,1 39 2 Tối thiểu 2 1 18 3 Tối đa 55 50 64 4 Số trung vị 10 1 39 5 Số mốt 10 1 46 5.1.6.2. Trình độ học vấn của người nuôi ong Trình độ học vấn của người nuôi ong được trình bày tại bảng 11. Kết quả điều tra về trình độ học vấn của người nuôi ong cho thấy: Người có trình độ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ rất thấp (1%); đa số người nuôi ong là những người có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông (55,3%) và trung học cơ sở (41,7%). 5.1.6.3. Tập huấn về kỹ thuật nuôi ong Tập huấn về kỹ thuật nuôi ong được trình bày tại bảng 12. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có 26,2% số người nuôi ong của các tỉnh điều tra được tham gia chương trình tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi ong, còn phần lớn là tự học và đúc rút kinh nghiệm trong quá trình nuôi ong. Thực tế, nuôi ong là nghề tự phát và phần lớn những người nuôi ong xuất thân từ nông dân hoặc lao động không qua đào tạo, chủ yếu học hỏi qua người có kinh nghiệm hoặc tự tìm hiểu về kỹ thuật nuôi ong. Theo Hội nuôi ong Việt Nam, hiên tại có trên 2.000 lượt người nuôi ong chuyên nghiệp đã được tập huấn về phòng trị bệnh, VietGAHP, quản lý chất lượng trong nuôi ong. Số liệu điều tra cho thấy có 18,3% những người nuôi ong có hiểu biết về Quy trình thực hành chăn nuôi tốt cho nuôi ong mật tại Việt Nam (VietGAHP). Tuy nhiên, đa số những người nuôi ong có hiểu biết về thực hành chăn nuôi tốt cho nuôi ong mật là thông qua các khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi ong, không có trường hợp nào hiểu biết về VietGAHP thông qua internet (bảng 13). Bảng 11. Trình độ học vấn của người nuôi ong STT Tiêu chí Số người Tỷ lệ (%) 1 Tiểu học 2 1,9 2 Trung học cơ sở 43 41,7 3 Trung học phổ thông 57 55,3 4 Trung cấp trở lên 1 1,0 Bảng 12. Tập huấn về kỹ thuật nuôi ong Tập huấn về kỹ thuật nuôi ong Mã hóa Số người Tỷ lệ (%) Có 1 32 26,2 Không 2 39 32,0 Kinh nghiệm 3 51 41,8 Tổng 122 87 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 5.1.6.4. Trình độ kỹ thuật của người nuôi ong mật Kết quả điều tra trình độ kỹ thuật người nuôi ong được trình bày trong bảng 14. Bảng 13. Hình thức hiểu biết về Quy trình thực hành chăn nuôi tốt cho nuôi ong mật tại Việt Nam (VietGAHP) N=131 Tiêu chí Ký hiệu Số trại Tỷ lệ (%) Biết kỹ thuật VietGAHP 24 18,3 Trong đó Qua báo 1 0 0,0 Qua đài 2 3 12,5 Qua tập huấn 3 13 54,2 Qua tờ rơi 4 0 0,0 Qua internet 5 0 0,0 Khác 6 8 33,3 Bảng 14. Trình độ kỹ thuật của người nuôi ong STT Các kỹ thuật Đánh giá Số trại Tổng số trại Tỷ lệ (%) 1 Cho ong xây bánh tổ mới Có 129 130 99,8 Không 1 130 0,2 2 Phòng, chống ong bốc bay Có 130 131 99,8 Không 1 131 0,2 3 Phòng, xử lý ong cướp mật tạo chúa Có 125 131 95,4 Không 6 131 4,6 4 Tạo chúa Có 131 133 98,5 Không 2 133 1,5 5 Phòng chống ong thợ đẻ trứng Có 124 129 96,1 Không 5 129 3,9 6 Nhập đàn và di chuyển đàn Có 128 129 99,2 Không 1 129 0,8 7 Biết kỹ thuật phòng, trị chí lớn(Varroa) Có 113 127 89,0 Không 14 127 11,0 8 Biết kỹ thuật phòng, trị chí nhỏ (Tropilaelaps) Có 107 125 85,6 Không 18 125 14,4 9 Biết kỹ thuật phòng, trị thối ấu trùng Có 111 126 88,1 Không 14 126 11,1 Kết quả điều tra tại bảng 14 cho thấy trình độ kỹ thuật nuôi ong hiện đang được áp dụng của người nuôi ong như kỹ thuật cho ong xây bánh tổ, kỹ thuật phòng, chống ong bốc bay, kỹ thuật phòng, xử lý ong cướp mật tạo chúa, kỹ thuật phòng và trị các bệnh ở ongở các trại nuôi ong là khá tốt, phù hợp với các quy định trong Thông tư số 08/2015/TT-BNNPTNT ngày 02/ 3/ 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về các tiêu chí tương ứng. 5.1.7. Bệnh ong mật và kiểm dịch ong Ong mật có thể bị dịch hại tấn công trên ong trưởng thành, ấu trùng. Các loại dịch hại ong chủ 88 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 yếu là các bệnh ỉa chảy, bệnh thối ấu trùng châu Âu, bệnh do côn trùng (sâu ăn sáp, kiến, ong bò vẽ), bệnh nhện hại ong mật, bệnh động vật hại ong, bệnh do bị ngộ độc hóa học do thuốc bảo vệ thực vật Các loại bệnh thường gặp ở ong mật được trình bày tại bảng 15. Bảng 15. Các bệnh thường gặp ở ong mật TT Loại bệnh Bị bệnh (trại) Không bệnh (trại) Tổng Tỷ lệ bệnh (%) 1 Bệnh thối ấu trùng châu Âu 18 103 121 14,9 2 Bệnh thối ấu trùng châu Mỹ 0 121 121 0,0 3 Bệnh ỉa chảy 58 63 121 47,9 4 Bệnh do côn trùng (sâu ăn sáp, kiến, ong bò vẽ) 2 119 121 1,7 5 Nhện hại ong mật 1 120 121 0,8 6 Động vật hại ong 1 120 121 0,8 7 Ong bị ngộ độc (do thuốc hóa học, thuốc điều trị) 2 119 121 1,7 8 Bệnh chí (lớn, nhỏ) 107 14 121 88,4 Kết quả điều tra cho thấy bệnh thối ấu trùng châu Mỹ không xuất hiện trong kết quả điều tra của Dự án này. Các bệnh thường gặp trong nuôi ong gồm bệnh chí, bệnh ỉa chảy, bệnh thối ấu trùng châu Âu, bệnh do côn trùng (sâu ăn sáp, kiến, ong bò vẽ), bệnh nhện hại ong mật, động vật (ếch nhái, thằn lằn, thạch sùng...) hại ong, bệnh ong bị ngộ độc do thuốc hóa học, thuốc điều trịtrong đó bệnh phổ biến nhất ở ong là bệnh chí lớn, nhỏ (88,4%), bệnh ỉa chảy (47,9%). Người nuôi ong tự chẩn đoán và điều trị cho ong, song họ chủ yếu dựa theo kinh nghiệm và còn thiếu kiến thức về phòng trừ dịch bệnh trên đàn ong. Đáng chú ý là ở các vùng cây nông nghiệp và trồng nhiều cây ăn quả, người nông dân sử dụng HCBVTV thường không tuân thủ theo chỉ dẫn, họ phun thuốc ngay cả khi cây trồng và cây ăn quả đang ra hoa, tung phấn nên gây hại rất lớn đến ngành nuôi ong. Với các tỉnh điều tra, vấn đề HCBVTV đang được sử dụng khá phổ biến trong trồng trọt để bảo vệ cây trồng, tuy không gây chết ong nhưng nhiều loại HCBVTV sẽ làm giảm sức sống của ong, do vậy giống ong sẽ thoái hóa hoặc không thể phát triển tốt được. Ngoài ra thực tế công tác thú y trong dự báo phòng trừ dịch bệnh, cập nhật kiến thức bệnh ong cho cán bộ thú y còn bất cập. Hiện nay nghề nuôi ong chưa có sự hỗ trợ của hệ thống thú y cơ sở trong việc phát hiện và điều trị dịch hại ong mật. Trong lĩnh vực kiểm dịch ong, cán bộ thú y làm công tác kiểm dịch ong kiến thức chuyên sâu về ong hạn chế, nên trên thực tế mặc dù có kiểm tra và thu phí nhưng mang tính hình thức nhiều hơn thực chất giám sát và cảnh báo về dịch bệnh... 5.1.8. Kết quả điều tra các loại thuốc thú y thường dùng trong chăn nuôi ong mật 3.1.8.1. Các loại thuốc thường dùng trong chăn nuôi ong mật Các loại thuốc, hóa chất được dùng trong phòng và trị bệnh cho ong mật được trình bày tại bảng 16. Kết quả điều tra cho thấy người nuôi ong đã sử dụng acid formic, sữa chua, gừng, men tiêu hóa, chanh, C sủi, lá táo, tinh dầu tràm, tinh dầu đinh hương, vi tamin B1... để phòng trị bệnh cho ong, trong đó phổ biến nhất là acid formic. Ngoài ra, có 7,5% và 0,8% các trại được điều tra báo cáo là có sử dụng kháng sinh kanamycin và penicillin để trị bệnh cho ong (bệnh thối ấu trùng châu Âu). Theo Thông tư 52/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/08/2009 về danh mục thuốc, nguyên liệu làm thuốc thú y được phép sử dụng trong chăn nuôi ong và theo Thông tư số 08/2015/TT-BNNPTNT ngày 02/3/2015 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về kiểm tra, giám sát vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm 89 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 đối với sản xuất, kinh doanh mật ong xuất khẩu, các loại kháng sinh không được sử dụng để phòng, trị bệnh cho ong. Các trại sử dụng kháng sinh kanamycin và penicillin để trị bệnh cho ong là không tuân thủ quy định của pháp luật. Đáng chú ý là trang Website Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT ( đang đăng tải bài bệnh thối ấu trùng ong đã làm thiệt hại nhiều đàn ong ở nước ta, cần làm thế nào để phát hiện bệnh và biện pháp phòng trị nào tốt nhất, trong đó có đưa ra cách trị bệnh bằng sử dụng kháng sinh kanamycin và/ hoặc các kháng sinh khác bao gồm các kháng sinh cấm sử dụng trong chăn nuôi như furazolidon, chloramphenicol. Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT cần sớm gỡ bỏ bài đăng tải này. 3.1.8.2. Nguồn gốc thuốc thú y đã sử dụng trong chăn nuôi ong Nguồn gốc thuốc thú y đã sử dụng trong chăn nuôi ong trình bày trong bảng 17. Bảng 16. Các loại thuốc thường dùng trong phòng và trị bệnh cho ong mật N=133 STT Loại thuốc Số trại sử dụng Tỷ lệ (%) 1 Acid formic 99 74,4 2 Sữa chua 9 6,8 3 Gừng 4 3,0 4 Lá của Trung Quốc 14 10,5 5 Men tiêu hóa 2 1,5 6 Chanh 1 0,8 7 C sủi 1 0,8 8 Lá táo 1 0,8 9 Tinh dầu tràm 1 0,8 10 Đinh hương 1 0,8 11 Kanamycin 10% 10 7,5 12 Penicillin 1 0,8 13 B1 1 0,8 Bảng 17. Nguồn gốc thuốc thú y sử dụng trong chăn nuôi ong STT Nguồn gốc Ký hiệu Số trại Tỷ lệ (%) 1 Sử dụng TTY trong chăn nuôi ong theo giới thiệu mà không rõ thành phần Có 1 23 18,4 Không 2 102 81,6 Tổng số 125 2 Nguồn gốc thuốc sử dụng Trung Quốc 1 13 72,2 Mua ở cửa hàng dược/TTY 2 3 16,7 Không rõ 3 2 11,1 Tổng số 18 Kết quả điều tra về nguồn gốc thuốc thú y đã sử dụng trong chăn nuôi ong cho thấy chỉ có 81,6% các trại ong sử dụng TTY để phòng và trị bệnh cho ong theo giới thiệu mà không rõ thành phần và trong số đó 11,1% các loại thuốc đã sử dụng là không rõ nguồn gốc, 72,2% có nguồn gốc Trung Quốc. Bảng 90 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 17 đã chỉ ra các loại thuốc, hóa chất được dùng trong phòng và trị bệnh cho ong mật, trong đó chủ yếu là loại thuốc lá Trung Quốc trại ong đã từng dùng để trị bệnh chí lớn, chí nhỏ của ong nhưng họ không biết rõ thành phần của thuốc này có những hoạt chất gì. 3.1.8.3. Quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong Quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong trình bày trong bảng 18. Bảng 18. Quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong Phương thức Quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong Liệu trình điều trị tiếp theo nếu không có chuyển biến tốt Hướng dẫn của cơ sở kinh doanh Theo kinh nghiệm Theo hướng dẫn của cán bộ thú y Không rõ Dùng kéo dài thêm thời gian Nghỉ một thời gian, dùng tiếp liệu trình thứ 2 Thay thuốc điều trị Hủy thùng ong /đàn ong Tỷ lệ (%) 52,4 21,4 16,7 9,5 0,0 2,2 11,1 86,7 Số trại 22 9 7 4 0 1 5 39 Tổng số 42 45 Kết quả điều tra cho thấy: Việc kiểm tra phát hiện bệnh dịch hại ong chủ yếu do người nuôi ong tự kiểm tra và xác định nguyên nhân cũng như tự đưa ra biện pháp điều trị. Khi đàn ong bị dịch, bệnh, phương thức điều trị, quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong của trại nuôi ong chủ yếu dựa theo hướng dẫn của cơ sở kinh doanh thuốc (52,4%) và kinh nghiệm của người chăn nuôi ong (21,4%) và chỉ có 16,7% trại ong tuân theo hướng dẫn của cán bộ thú y. Vì thế khi liệu trình điều trị không hiệu quả, người nuôi ong thường hủy đàn ong/ thùng ong (86,7%). 3.1.9. Tình trạng xua đuổi đàn ong và người nuôi ong Ong sống chủ yếu bằng mật hoa và phấn hoa. Nếu nuôi ong cố định ở một địa điểm thì việc thụ phấn cho cây trồng, thu sản phẩm và phát triển đàn kém, hiệu quả kinh tế không cao, nên người nuôi ong chuyên nghiệp cùng các đàn ong phải luôn di chuyển nhiều nơi theo nguồn mật. Nghề nuôi ong là nghề di chuyển theo nguồn hoa. Người nuôi ong của tỉnh này nhưng lại chuyển ong đến khai thác mật ở tỉnh khác. Thực tế nhiều vùng nuôi ong đang bị mất cân đối giữa số lượng đàn ong và nguồn thức ăn tự nhiên do mật độ đặt các điểm nuôi ong dày, không hợp lý, khai thác mật ong không đúng quy trình, sử dụng thức ăn bổ sung cho ong có lúc tùy tiện làm ảnh hưởng đến điều kiện sống của ong, đặc biệt làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm như mật, sữa và phấn hoa. Do thiếu thông tin và kiến thức về thụ phấn cây trồng, hiện có một số vùng và địa phương đang xua đuổi ong, thậm chí phá đàn ong vì cho rằng ong phá hoại mùa màng. Năm 2016 ở tỉnh Hà Giang, một số địa phương có các biển báo cấm nuôi ong ngoại tỉnh ở huyện Quản Bạ; các huyện Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc có danh sách phân vùng. Năm 2014, ở tỉnh Quảng Nam cũng xảy ra tình trạng xua đuổi đàn ong và người nuôi ong. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam đã có công văn số 1274/SNN&PTNT-TY ngày 24/8/2015 gửi Cục Thú y xin ý kiến về nội dung các quy định về điều kiện vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm trong chăn nuôi ong. Cũng gần thời điểm này, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp cùng Cục Chăn nuôi, Sở NNPTNT tỉnh Quảng Nam tổ chức diễn đàn nhằm triển khai xây dựng kế hoạch tổng thể, tái cơ cấu ngành ong theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững thông qua diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp: Phát triển nuôi ong mật bền vững, đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. 3.1.10. Các chỉ tiêu của mật ong bên thu mua yêu cầu kiểm tra 91 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Ở nước ta khoảng 90% tổng sản lượng mật ong sản xuất ra là xuất khẩu. Trong sản xuất mật ong, ở một số trại nuôi ong vẫn còn sử dụng kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho ong. Tiêu thụ mật ong của nước ta phụ thuộc phần lớn vào thị trường xuất khẩu nên bên thu mua mật ong thường đòi hỏi kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng và nhiều chỉ tiêu dư lượng. Các chỉ tiêu của mật ong bên thu mua yêu cầu kiểm tra được trình bày trong bảng 19. Bảng 19. Các chỉ tiêu của mật ong bên thu mua yêu cầu kiểm tra TT Chỉ tiêu Tổng số Số lượng (chỉ tiêu) Tỷ lệ (%) 1 Màu sắc 126 95 75,4 2 Mùi hoặc hương 126 41 32,5 3 Vị 126 42 33,3 4 Hàm lượng nước 126 96 76,2 5 Đường (đường Saccharose, đường khử, C4, C+...) 126 97 77,0 6 Chloramphenicol 126 68 54,0 7 Tetracycline 126 64 50,8 8 Streptomycin 126 66 52,4 9 Enrofloxacin (Fluoroquinolones) 126 20 15,9 10 Sulfonamids 125 14 11,2 11 Kháng sinh khác 129 14 10,9 12 Carbendazim 126 74 58,7 Kết quả điều tra cho thấy bên thu mua mật ong thường yêu cầu kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng và nhiều chỉ tiêu tồn dư kháng sinh trong mật ong. Kết quả điều tra về phòng và trị bệnh cho đàn ong cũng đã chỉ ra người nuôi ong còn sử dụng kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho ong. Thực tế vào mùa dưỡng ong, người nuôi ong thường cho ong ăn thức ăn bổ sung thay thế phấn hoa với thành phần chính là bột đậu nành có trộn thêm với phấn hoa tự nhiên... và ở một số trại, không loại trừ khả năng người nuôi ong sử dụng kháng sinh phòng và điều trị bệnh ong dựa theo cảm tính và nhận thức có hạn của họ. Ngoài ra, trong việc sản xuất và thu mua mật ong đang biểu hiện sự bất cập. Hiện tượng cạnh tranh mua bán không lành mạnh vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Mật ong kém chất lượng vẫn có thị trường mua bán trao đổi. Chất lượng mật ong khi thu mua không được kiểm soát chặt chẽ dẫn tới hiện tượng một số người nuôi ong tranh thủ quay mật non - đặc biệt là mùa mật vải, dẫn tới chất lượng không ổn định. 5.2. Kết quả phân tích mẫu 5.2.1. Kết quả phân tích mẫu thuốc dùng cho ong Kết quả phân tích thuốc dùng cho ong được trình bày ở bảng 20. Bảng 20. Kết quả phân tích kháng sinh và HCBVTV trong mẫu thuốc dùng cho ong STT Chỉ tiêu Số mẫu Số mẫu + 1 Lincomycin 2 0 2 β-lactam 2 0 3 Streptomycin 2 0 4 Sulfonamide 2 0 5 Carbofuran 2 0 6 Carbaryl 2 0 7 Pirimicarb 2 0 8 Methiocarb 2 0 9 Permethrin 2 0 10 Cyfluthrin 2 0 11 α-cypermethrin 2 0 92 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Số l iệu bảng 20 cho thấy: không phát hiện thấy kháng s inh hoặc hóa chất t rong mẫu thuốc dùng t rong phòng t r ị bệnh ong. 5.2.2. Kết quả phân tích mẫu mật ong Kết quả phân tích dư lượng Carbendazim và kháng sinh trong mẫu mật ong được trình bày ở bảng 21. Bảng 21. Kết quả phân tích dư lượng kháng sinh trong mẫu mật ong STT Chỉ tiêu Số mẫu Số mẫu + Tỷ lệ (%) Hàm lượng (µg/kg) 1 Streptomycin 65 0 0,0 2 Betalactam 65 0 0,0 3 Sulfonamide [Sulfamethazine (SMZ), Sulfadiazine (SDZ), Sulfaryridine (SPR), Sulfabendazime (SBZ)] 65 0 0,0 4 Fluoroquinolone 65 0 0,0 5 Furazolidone (AOZ) 65 0 0,0 6 Nitrofurantoin (AHD) 65 0 0,0 7 Carbendazim 65 4 6,2 8,60-51,49 8 Chloramphenicol 65 1 1,5 1,03 9 Lincomycin 65 0 0,0 10 Tetracycline 65 3 4,6 15,23-243,56 11 Chlortetracycline 65 2 3,1 19,45-22,66 12 Oxytetracycline 65 0 0,0 Số liệu bảng 21 cho thấy: Có 4 (6,2%) trong số 65 mẫu mật ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng carbendazim với hàm lượng 8,60 - 51,49 µg/kg; Có 1 (1,03%), trong số 65 mẫu mật ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng chloramphenicol, với hàm lượng 1,03 µg/kg; Có 3 (4,6%) trong số 65 mẫu mật ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng tetracycline, với hàm lượng 15,23 - 243,56 µg/kg; Có 2 (3,1%) trong số 65 mẫu mật ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng chlortetracycline, với hàm lượng 19,45 - 22,66 µg/kg. Trong số các mẫu phân tích dư lượng carbendazim và kháng sinh, có 1 mẫu mật ong phát hiện đồng thời carbendazim và tetracycline với hàm lượng 13,65 và 15,23 µg/kg, tương ứng. Kết quả điều tra về tồn dư thuốc thú y trong mẫu mật ong, chứng tỏ người chăn nuôi ong vẫn còn sử dụng kháng sinh tetracycline, chlortetracycline trong phòng, trị bệnh cho ong, trong đó có 2 mẫu có hàm lượng tetracycline cao (trên 200 µg/kg). Đặc biệt, kết quả điều tra đã phát hiện thấy 1 mẫu tồn dư chloramphenicol, đây là một kháng sinh thuộc nhóm chất cấm, các nước nhập khẩu mật ong đều kiểm soát rất nghiêm ngặt chỉ tiêu này. 5.2.3. Kết quả phân tích mẫu TACN ong Kết quả phân tích dư lượng kháng sinh trong mẫu thức ăn chăn nuôi ong được trình bày ở bảng 22. Số liệu bảng 22 cho thấy: Có 2 (8,3%) trong số 24 mẫu TACN ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng tetracycline, với hàm lượng 5,71 - 5,92mg/kg; Có 6 (25,0%) trong số 24 mẫu mật ong lấy tại các trại ong đã phát hiện thấy dư lượng chlortetracycline, với hàm lượng 5,37 - 13,38mg/kg. 93 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 Bảng 22. Kết quả phân tích dư lượng kháng sinh trong mẫu TACN ong Chỉ tiêu Số mẫu Đơn vị Số mẫu + Tỷ lệ (%) Hàm lượng Streptomycin 24 µg/kg 0 0,0 Betalactam 24 µg/kg 0 0,0 Sulfonamide 24 µg/kg 0 0,0 Fluoroquinolone 24 µg/kg 0 0,0 Urazolidone (AOZ) 24 µg/kg 0 0,0 Nitrofurantoin (AHD) 24 µg/kg 0 0,0 Chloramphenicol 24 µg/kg 0 0,0 Lincomycin 24 µg/kg 0 0,0 Tetracycline 24 mg/kg 2 8,3 5,71-5,92 Chlortetracycline 24 mg/kg 6 25,0 5,37-13,38 Oxytetracycline 24 mg/kg 0 0,0 Kết quả mẫu TACN ong đã phát hiện thấy dư lượng kháng sinh với hàm lượng rất thấp (tetracycline: 5,71 - 5,92mg/kg; chlortetracycline: 5,37 - 13,38mg/kg) chứng tỏ nhiều khả năng nguồn nguyên liệu dùng làm TACN bổ sung cho ong không chủ động bổ sung kháng sinh vào TACN, nhưng đã bị tạp nhiễm kháng sinh tetracycline, chlortetracycline trong quá trình sản xuất TACN ong. Mẫu mật ong, mẫu TACN, mẫu thuốc dùng cho ong trong nghiên cứu này được phân tích tại Phòng thử nghiệm của Trung tâm Kiểm tra vệ sinh thú y Trung ương I - Cục Thú y; PTN được thiết lập và vận hành theo tiêu chuẩn ISO/IEC 17025- 2005 (mã VILAS 059). Các phương pháp áp dụng cho phân tích mẫu trong nghiên cứu này là phương pháp được chuẩn hóa và phê duyệt dựa theo Thông tư số 54/2011/TT-BNNPTNT ngày 03/8/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về yêu cầu năng lực cho các phòng thử nghiệm có khả năng phân tích các phép thử thuộc lĩnh vực sinh học, hóa học phục vụ công tác quản lý nhà nước về chất lượng an toàn thực phẩm. Phương pháp phân tích mẫu là phù hợp cho mục đích phân tích. Từng phép thử được kiểm soát bởi mẫu âm tính và mẫu dương tính (mẫu kiểm soát độ thu hồi), chất lượng từng phép thử đạt yêu cầu theo đúng quy định của phòng thử nghiệm. Vì vậy các kết quả phân tích trong nghiên cứu này có độ tin cậy cao. Thông tư số 08/2015/TT-BNNPTNT ngày 02/3/2015 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về kiểm tra, giám sát vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm đối với sản xuất, kinh doanh mật ong xuất khẩu, quy định chỉ sử dụng các loại thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam để phòng, trị bệnh cho ong theo quy định; Nghiêm cấm việc pha trộn kháng sinh, hormon và các hóa chất độc hại khác vào thức ăn nuôi ong. Vì vậy tất cả các trường hợp phát hiện thấy dư lượng kháng sinh trong mật ong đều không đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và tất cả các trường hợp phát hiện thấy dư lượng kháng sinh trong TACN ong đều không tuân thủ quy định về sử dụng thức ăn dùng cho nuôi ong. Carbendazim là chất diệt nấm, được sử dụng phòng, trị nấm trên các cây công nghiệp như cà phê, cao su, vải, điều... nên rất dễ ô nhiễm vào mật ong trong quá trình ong lấy phấn, mật của các loại cây này. Thực hành chăn nuôi tốt (VietGAHP) vẫn ít được áp dụng; việc lựa chọn địa điểm đặt thùng ong không được khảo sát cẩn thận, người nuôi ong đặt thùng ong tại các rừng cà phê, cao su, vải, điều...có phun chất diệt nấm carbendazim, dẫn tới mật ong bị ô nhiễm carbendazim do ong hút mật từ những loại cây này. Tuy các mẫu phát hiện thấy carbendazim ở hàm lượng thấp (8,60 - 51,49 94 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 µg/kg), song nhiều chuyên gia ngành ong mật đã cảnh báo chất carbendazim chính là một rào cản thương mại của mật ong vào thị trường Mỹ. Theo Bộ NN&PTNT, từ tháng 7 đến tháng 11/2011, gần 600 tấn mật ong Việt Nam đã bị cơ quan chức năng phía Mỹ trả lại do nhiễm carbendazim vì họ yêu cầu mật ong phải không có carbendazim (MRPL càng nhỏ càng tốt, ở Mỹ MRPL là 10µg). 6. Kết luận 6.1. Nuôi ong còn là nghề tự phát. Người nuôi ong luôn di chuyển đàn ong theo nguồn mật, phấn. Mỗi vùng, miền có những cây nguồn mật, phấn đặc trưng và nguồn mật, phấn phụ thuộc vào diện tích, mật độ, tuổi cây, lượng mật hoặc phấn của cây, thời gian cho mật hoặc phấn trong năm. Khả năng tiết mật của hoa và lá phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tập quán canh tác, chất đất, giống cây của từng vùng, khu vực cụ thể. Loại cây nguồn mật chính của Việt Nam là cao su, keo lai, tràm, cà phê, điều, nhãn, vải, chôm chôm, ngô, lúa, trinh nữ, đơn buốt . Người nuôi ong cần nắm chắc lịch nở hoa, tung phấn của các cây trồng theo vùng miền, thiết lập quan hệ tốt với nhà vườn để bố trí di chuyển đàn ong phù hợp, tận dụng tối đa nguồn mật, phấn thiên nhiên và tiết kiệm thức ăn bổ sung cho ong. 6.2. Cho ong ăn thức ăn bổ sung là khá phổ biến trong chăn nuôi ong lấy mật. Thành phần thức ăn bổ sung cho ong chủ yếu gồm đường, phấn hoa tự nhiên, bột đậu nành, vi lượng vitamin. Thức ăn chăn nuôi bổ sung cho ong chưa được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và an toàn vệ sinh. 6.3. Tỷ lệ người nuôi ong hiểu về Quy trình thực hành chăn nuôi tốt (VietGAHP) còn thấp (18,3%). Khoảng 70% số người nuôi ong chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức về kỹ thuật nuôi ong, mật độ đặt thùng ong, bệnh ong, phòng trị bệnh ong, các loại thuốc thú y được dùng trong chăn nuôi ong (trong đó cấm hoàn toàn kháng sinh trong nuôi ong), các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, các chỉ tiêu cần kiểm soát trong mua bán sản phẩm cũng như các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. 6.4. Có 81,6% các trại ong sử dụng TTY để phòng và trị bệnh cho ong theo giới thiệu mà không rõ thành phần và trong số đó 11,1% các loại thuốc đã sử dụng là không rõ nguồn gốc bao gồm loại thuốc có nguồn gốc Trung Quốc được người nuôi ong sử dụng nằm ngoài sự đánh giá, kiểm soát và quản lý của các cơ quan chuyên môn. 6.5. Hồ sơ ghi chép theo dõi đàn ong về tình hình dịch bệnh, về nguồn thức ăn tự nhiên, nguồn thức ăn bổ sung, thuốc điều trị, chia đàn.... được thiết lập ở hầu hết các trại. Tuy nhiên, việc ghi chép là chưa thường xuyên. Tỷ lệ ghi chép nhật ký sử dụng thuốc phòng, trị bệnh tại các trại điều tra chỉ là 5,5%. 6.6. Các bệnh thường gặp trong chăn nuôi ong gồm bệnh chí, bệnh ỉa chảy, bệnh thối ấu trùng châu Âu... Phương thức điều trị, quyết định liều lượng, liệu trình trị bệnh cho ong của trại ong chủ yếu dựa theo hướng dẫn của cơ sở kinh doanh thuốc (52,4%) và kinh nghiệm của người chăn nuôi ong (21,4%). 6.7. Loại thuốc sử dụng trong phòng và trị bệnh cho ong gồm acid formic (90,3%), sữa chua, gừng, men tiêu hóa, chanh, C sủi, lá táo, tinh dầu tràm, tinh dầu đinh hương, vi tamin B1...; có 7,5% và 0,8% các trại điều tra báo cáo là có sử dụng kháng sinh kanamycin và penicillin trong phòng và trị bệnh cho ong. 6.8. Đã phát hiện thấy kháng sinh tetracycline, chlortetracycline và chất cấm chloramphenicol trong mẫu mật ong, mẫu thức ăn chăn nuôi ong, chứng tỏ một số người chăn nuôi ong vẫn còn lạm dụng kháng sinh trong phòng, trị bệnh cho ong. 6.9. Không phát hiện thấy các kháng sinh lincomycin, β-lactam, streptomycin, sulfonamides và HCBVTV carbofuran, carbaryl, pirimicarb, methiocarb, permethrin, cyfluthrin, alpha- cypermethrin trong 2/2 mẫu thuốc thú y dùng trong chăn nuôi ong. 95 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018 6.10. Kế hoạch giám sát ATTP mật ong được thực hiện theo Thông tư số 08/2015/TT- BNNPTNT ngày 02.03.2015 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, và yêu cầu của Chỉ thị 96/23/EC ngày 29/4/1996 của EC. Cục thú y mỗi năm 2 lần, kiểm tra điều kiện VSTY các cơ sở chăn nuôi, thu gom, chế biến mật ong của các công ty đăng ký và được phép xuất khẩu mật ong. Kết quả giám sát mật ong trong những năm qua vẫn còn phát hiện thấy một số trường hợp vi phạm về tồn dư kháng sinh tetracycline, chloramphenicol trong mật ong. Cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường các biện pháp kiểm tra giám sát nhằm ngăn ngừa sự tái diễn. 6.11. Công tác tuyên truyền về vai trò và lợi ích của ong mật trong việc thụ phấn cây trồng làm tăng năng suất và chất lượng nông sản còn nhiều bất cập; chưa có sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ giữa người nuôi ong, người trồng trọt và chính quyền địa phương nên hiện tượng xua đuổi đàn ong và người nuôi ong vẫn xảy ra ở một số địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hội nuôi ong Việt Nam. Thông tin về sản lượng mật năm 2014. 2. Council Directive 96/23/EC of 29 April 1996 on measures to monitor certain substances and residues there of in live animals and animal products. 3. Barbara Sheehan (2008): Thương mại mật ong thế giới - Việt Nam và các vấn đề liên quan. Hội thảo mật ong với thương mại và sức khoẻ con người. Hội nuôi ong Việt Nam. TP Hồ Chí Minh, tháng 2/2008. 4. Rold P. Philipp (2008): Báo cáo thị trường mật ong. Tạp chí KHKT ngành ong, 2/2008. 5. DG (SANCO)/2009-8188/EP: Final Report of Mission carried out in Vietnam from 19 to 30 October 2009 in order to evaluate the control of residues and contaminant in live animals and animal products, including controls on veterinary medicinal products. 6. DG(SANCO) 2012-6535 - MR FINAL: Final Report of an audit carried out in Vietnam from 11 to 20 September 2012 in order to evaluate the monitoring of residues and contaminants in live animals and animal products, including controls on veterinary medicinal products. 7. Thư viện Bộ Nông nghiệp và PTNT (2014): Bệnh thối ấu trùng ong đã làm thiệt hại nhiều đàn ong ở nước ta, cần làm thế nào để phát hiện bệnh và biện pháp phòng trị nào tốt nhất trong đó có đưa ra cách trị bệnh bằng cách sử dụng kháng sinh hoi-dap/ky-thuat-chan-nuoi/benh-thoi-au- trung-ong-da-lam-thiet-hai-nhieu-dan---1130 8. vn/64/109/92400/Default.aspx 9. h t t p : / / d a i b i e u n h a n d a n . v n / d e f a u l t . aspx?tabid=75&NewsId=237242

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_dieu_tra_tinh_hinh_su_dung_thuoc_thu_y_trong_chan_nu.pdf
Tài liệu liên quan