- Tỉ lệ thành công về mặt kỹ thuật là 100%. Sử
dụng phương pháp can thiệp đặt coils đơn thuần chiếm
tỷ lệ 44,4%, thả coils kết hợp bơm bóng chẹn cổ hay
đặt stent chiếm lần lượt là 22,2% và 2,3%. Tỷ lệ tắc
PĐMN ngay sau can thiệp cao đạt 80%, trong khi tỉ lệ
còn dòng chảy cổ túi thấp là 11,1% và còn dòng chảy
túi là 8,9%. Các trường hợp còn dòng chảy túi liên quan
đặt stent đổi hướng dòng chảy sẽ không gây tắc ngay
mà sau 6-12 tháng sẽ tắc hoàn toàn. Các trường hợp
tắc động mạch đốt sống khi có phình hình thoi chảy
máu qua can thiệp có thể chọn lọc và bảo tồn được
các nhánh mạch liên quan. Kết quả này cũng tương tự
như các tác giả Todd E Lempert (2000) thì tỷ lệ thành
công về mặt kỹ thuật khi điều trị can thiệp cho 112 bệnh
nhân PĐMN tuần hoàn sau trong nghiên cứu là 97%
[8]. Theo Jankowitz BT (2009) nghiên cứu 32 PĐMN
tuần hoàn sau trong 4 năm thấy tắc túi phình bằng
coils đơn thuần chiếm 68,75%; tắc mạch mang chiếm
37,5% [9]. Theo Yamaura (1990) và cộng sự điều trị 19
BN phình bóc tách ĐM ĐS đoạn nội sọ bằng phẫu thuật
kẹp gây tắc đoạn gần của động mạch đốt sống; kết quả
không có trường hợp tử vong sau mổ hoặc chảy máu
tái phát nhưng hội chứng tủy bên xảy ra trên ba bệnh
nhân. Điều này có thể là do kẹp tắc ĐM cấp máu cho
tủy, vậy nên điều trị can thiệp nội mạch có thể làm giảm
biến chứng cho những bệnh nhân này [10].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị phình động mạch não tuần hoàn sau bằng can thiệp nội mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201512
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
*Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh
Trường ĐHY Hà Nội
**Bệnh viện Đa Khoa Thái
Nguyên
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH NÃO
TUẦN HOÀN SAU BẰNG CAN THIỆP NỘI MẠCH
Results of endovascular treatment of posterior fossa
intracranial aneuryms
Vũ Đăng Lưu*, Nguyễn Huy Hoàng**
Purpose: To evaluate the results of endovascular treatment
of posterior fossa intracanial aneuryms.
Method and materials: Fourty one patients harboring
fourty five posterior fossa intracranial aneuryms were treated by
endovascular therapy from 2012 to 2015 at Bach Mai Hospital.
Clinical outcomes and follow-up of aneurysm occlusion’s result
were classified by modified Rankin Scale and on MRI imaging.
Results: Twenty eight patients presented subaranoidien
hemorrhage and thirteen patients without SAH. Different technics
were used such as coiling embolization (44.4%), coiling with
balloon remodeling technics (22.2%), coiling with stenting (2.3%),
flow-diverter stenting (6.7%) and parent artery occlusion (24.4%).
The rate of complete aneurysm occlusion, neck residue and partial
occlusion were 80%; 11.1% and 8.9% respectively. Result of good
outcomes (mRS 0-2) was 85.4% and mortality was 12.2%. Almost
of aneurysms post treatment were stability (84.6%), only 15,4%
aneurysm were slight recanalization. The hospitalization duration
of unruptured and ruptured aneurysm were 9.3 and 17.8 days,
respectively.
Conclusion: Endovascular treatment of posterior circulation
aneurysms showed efficace of clinical outcome and stability with
low morbility and mortality.
Keywords: Aneurysm, posterior circulation aneurysm,
embolization.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 13
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. GIỚI THIỆU
PĐMN tuần hoàn sau là một nhóm riêng biệt
về biểu hiện lâm sàng và điều trị so với tuần hoàn
trước. Phương pháp phẫu thuật PĐMN tuần hoàn sau
có nhiều thách thức hơn so với nhóm PĐMN tuần hoàn
trước do túi phình nằm sâu, liên quan chặt chẽ đến
thân não, các dây thần kinh sọ và được bao quanh bởi
các động mạch xiên quan trọng do đó có nhiều nguy
cơ cho phẫu thuật [1]. Xuất huyết do vỡ PĐMN tuần
hoàn sau nghiêm trọng hơn xuất huyết do vỡ phình
tuần hoàn trước với tình trạng lâm sàng nặng hơn khi
nhập viện và tỷ lệ tử vong cao hơn [2][3]. Theo nghiên
cứu của Schievink WI và cộng sự (1995) thì tỷ lệ sống
sau 48 giờ của PĐMN vỡ với nhóm tuần hoàn sau là
32% và tuần hoàn trước là 77%, giảm xuống sau 30
ngày là 11% và 57% [3]. Ngoài ra, tỷ lệ tái vỡ túi phình
tuần hoàn sau cao hơn so với tuần hoàn trước[2],[4].
Có nhiều lựa chọn can thiệp nội mạch điều trị chứng
PĐMN tuần hoàn sau phụ thuộc vào vị trí giải phẫu như
đỉnh thân nền, động mạch tiểu não trên, động mạch
tiểu não sau dưới và đoạn V4 của ĐM đốt sống và biểu
hiện lâm sàng của PĐMN như: tắc túi phình bằng VXKL
đơn thuần hoặc có các thiết bị hỗ trợ như bóng hoặc
GĐNM chẹn cổ, tắc mạch mang vĩnh viễn và hiện nay
là GĐNM đổi hướng dòng chảy làm tắc túi phình nhưng
vẫn bảo tồn mạch mang [5]. Tại Việt Nam vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá kết quả điều trị phình động
mạch não hố sau, chính vì vậy đề tài này nhằm đánh
giá kết quả điều trị bằng can thiệp nội mạch phình động
mạch não tuần hoàn sau.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các BN được chẩn
đoán xác định PĐMN tuần hoàn sau vỡ và chưa vỡ
được can thiệp nội mạch tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 7
năm 2015. Với PĐMN chưa vỡ có chỉ định điều trị loại
trừ nguy cơ vỡ và triệu chứng lâm sàng do PĐMN gây
ra. Với PĐMN đã vỡ có tình trạng lâm sàng theo Hunt-
Hess độ 1, 2 và 3. Với các trường hợp độ 4 có sự thống
nhất với các Bác sĩ lâm sàng.
+ BN và/hoặc gia đình BN đồng ý điều trị bằng can
thiệp nội mạch.
- Tiêu chuẩn loại trừ: PĐMN tại cuống nuôi của ổ
dị dạng thông động tĩnh mạch. Rối loạn đông máu hay
phản ứng với thuốc cản quang. Tình trạng lâm sàng rất
nặng thuộc Hunt-Hess 5.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả lâm sàng, can thiệp không đối
chứng, theo dõi dọc.
- Phương tiện nghiên cứu: máy chụp mạch số hóa
xóa nền Philips, Allura FD 20. Vật liệu can thiệp gồm vi
ống thông Echelon (EV3) hoặc Headway (Microvention),
Maskman 2.7F, vi dây dẫn Transcend (Boston) hoặc
Traxcess (Microvention) cỡ 0.014”, ống thông 6F
(Chaperon, Guiding softip, Neuron, Fargomax), vòng
xoắn kim loại (VXKL) (Target, Axium, Microvention,
Kaneka), bóng chẹn cổ (Hypergilde, Hyperform), stent
(LVIS, Pipeline, FRED).
- Bệnh nhân và gia đình được giải thích kỹ lợi ích
và rủi ro có thể xảy ra, chấp nhận can thiệp. Bệnh nhân
được làm các xét nghiệm cơ bản, gây mê nội khí quản
trong khi làm can thiệp. Trên ảnh 3D chụp mạch xóa
nền xác định tư thế can thiệp bộc lộ cổ túi, mạch liên
quan và kiểm soát đáy túi. Nút PĐMN được tiến hành
bởi hai bác sĩ điện quang can thiệp thần kinh.
- Lựa chọn kỹ thuật can thiệp:
+ Kỹ thuật nút túi phình động mạch não bằng VXKL
không sử dụng bóng chẹn cổ khi túi phình cổ hẹp hoặc
có sử dụng hỗ trợ dùng bóng chẹn cổ khi túi phình cổ
rộng. Vị ống thông đặt trong túi phình rồi đặt VXKL đầu
tiên như khung giá trong túi PĐMN, đặt VXKL tiếp theo
thường có độ rộng bằng hoặc nhỏ hơn VXKL thứ nhất.
Sau đó tiếp tục đặt các VXKL có kích thước và độ dài
nhỏ dần tới khi lấp đầy hoàn toàn túi phình. Trường hợp
túi phình cổ rộng tiến hành luồn đặt bóng chẹn qua cổ
túi PĐMN (loại bóng thường được dùng là Hyperglide
và Hyperforme (hãng EV3)).
+ Kỹ thuật đặt giá đỡ nội mạch sau đó nút PĐMN
bằng VXKL đối với túi phình chưa vỡ cổ rộng đặt bóng
không hiệu quả hoặc tái thông.
+ Kỹ thuật đặt GĐNM đổi hướng dòng chảy: Với
bệnh nhân PĐMN hình thoi, bóc tách ĐM đốt sống,
phình cổ rộng chưa vỡ, có chỉ định can thiệp đặt GĐNM
bảo tồn mạch mang.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201514
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Chọn giá đỡ nội mạch có đường kính bằng hoặc
lớn hơn kích thước lòng mạch mang khoảng 0,5mm,
chiều dài giá đỡ nội mạch lớn hơn độ rộng cổ túi PĐMN
khoảng 8mm. Khi thả giá đỡ nội mạch đảm bảo đầu
trên và dưới GĐNM phải cách bờ trên và bờ dưới cổ túi
PĐMN tối thiểu 4mm.
+ Kỹ thuật nút tắc động mạch mang: Nếu phình
hình thoi, bóc tách đoạn V4 ĐM đốt sống: chụp kiểm tra
thấy ĐM đốt sống đối diện bình thường hoặc ĐM thông
sau thông tốt cấp máu cho ĐM thân nền thì chỉ định nút
tắc mạch mang vĩnh viễn: có thể nút bằng Coils hoặc
bằng bóng. Vị trí nút phải bảo tồn được ĐM tiểu não
sau dưới.
Thuốc chống đông trong can thiệp dùng Heparin
được tiêm tức thì 2500UI khi chuẩn bị bắt đầu nút
VXKL và duy trì 10 UI/kg/giờ, với liều trung bình khoảng
500-1000 UI/giờ. Sau thủ thuật cho chống đông trọng
lượng phân tử thấp (Lovenox 40 mg) tiêm dưới da x 03
ống/ ngày từ 3-5 ngày, trường hợp lồi coils có thể dùng
Heparin trong 24h với liều 700UI/giờ. Các trường hợp
đặt Stent thuốc chống đông kép trước can thiệp 5 ngày
là Aspergic 100mg và Plavix 75mg/ ngày.
- Tai biến và xử trí trong khi can thiệp mạch:
Huyết khối gây tắc mạch: tăng áp lực máu, tăng
thuốc chống đông hoặc dùng thuốc tiêu sợi huyết. Chỉ
định cho huyết khối mạch lớn và mạch quan trọng.
Vỡ túi phình động mạch não: dừng Heparin, trung
hòa bằng Protamin, bơm bóng chẹn nếu có sẵn. Sau
đó thả nhanh VXKL cho tắc túi phình. Có thể xét nút
mạch mang nếu cần thiết.
Vòng xoắn kim loại bị duỗi, đứt và di chuyển: dùng
thòng lọng (snare) lấy VXKL. Nếu không thành công thì
dùng chống đông suốt đời.
Co thắt mạch máu: Dùng thuốc giãn mạch
(Nimotop, Papaverin). Có thể nong bằng bóng nếu
không đáp ứng thuốc...
- Theo dõi bệnh nhân sau nút mạch:
Các BN sau nút mạch sẽ được tiếp tục theo dõi
tới khi ra viện và kiểm tra lại sau 3-6 tháng bằng CHT
và/hoặc chụp mạch DSA. Đánh giá mức độ hồi phục
lâm sàng theo thang điểm Rankin cải biên (mRS từ 0
đến 6) và đánh giá tĩnh trạng tắc túi phình phân loại
của Raymond và Roys (A- Tắc hoàn toàn: không thấy
dòng chảy bên trong; B- Tắc gần hoàn toàn (>90%):
Còn dòng chảy ở cổ túi; C- Tắc bán phần: Còn dòng
chảy trong túi). Số liệu được thu thập gồm các thông
tin lâm sàng, đặc điểm phình mạch, kỹ thuật nút mạch
và vật liệu được lựa chọn, kết quả tắc phình mạch ngay
sau can thiệp và qua theo dõi.
III. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Có 41 bệnh nhân nghiên cứu với 49 túi phình, có
28 bệnh nhân xác định PĐMN vỡ và 13 bệnh nhân chưa
vỡ, điều trị can thiệp cho 45 túi, tỷ lệ thành công về mặt
kỹ thuật là 100%. Phân bố vị trí PĐMN tuần hoàn sau
trong nhóm nghiên cứu: đm đốt sống 20,4% (n=10);
đm tiểu não sau dưới chiếm 8,2% (n=4); đm thân nền
chiếm 12,2% (n=6); đỉnh thân nền chiếm 30,6% (n=15);
đm tiểu não trên chiếm 10,2% (n=5); đm não sau chiếm
18,4% (n=9).
- Thời điểm can thiệp đối với PĐMN vỡ: có 71,4%
PĐMN can thiệp thời điểm 1- 4 ngày, 17,9% PĐMN can
thiệp ngày 4 -14; và 10,7% được can thiệp >14 ngày.
- Kỹ thuật can thiệp lựa chọn:
Bảng 3.1. Phân bố kỹ thuật can thiệp nút tắc PĐMN
Đặc điểm PĐMN
Tổng
%
p
Chưa vỡ Đã vỡ
Kỹ thuật can thiệp nút
tắc PĐMN
Coils đơn thuần 5 15 20 44,4
0,04
Coils + bóng 3 7 10 22,2
Coils + Stent 1 0 1 2,3
Stent ĐHDC 3 0 3 6,7
Tắc mạch mang 5 6 11 24,4
Tổng 16 29 45 100
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đặc điểm PĐMN
Tổng
%
p
Chưa vỡ Đã vỡ
Mức độ tắc
Hoàn toàn 36 80,0
Còn cổ túi 5 11,1
Còn dòng chảy túi 4 8,9
Tổng 45 100
Nhận xét: Tắc PĐMN chủ yếu sử dụng Coils đơn thuần với các PĐMN có cổ hẹp có ĐK cổ < 4mm hoặc tỷ lệ
đáy/cổ > 1,5 chiếm tỷ lệ 20/45 = 44,4%. Với các PĐMN có cổ rộng thì kỹ thuật Coils + bóng chẹn cổ chiếm 10/45 =
22,2%; Coils + Stent có 1 BN chiếm 2,3%; Stent đổi hướng dòng chảy có 3 BN chiếm 6,7% và 11 BN được nút tắc
mạch mang chiếm tỷ lệ 24,4%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p< 0,05.
- Đánh giá mức độ tắc ngay sau can thiệp: Mức độ tắc hoàn toàn là 80%; còn dòng chảy cổ túi là 11,1% và
còn dòng chảy túi là 8,9%.
- Thủ thuật can thiệp thành công không tai biến là 87,2% (36/41). Có 2 BN sau can thiệp bị huyết khối gây nhồi
máu não chiếm 4,9% (2/41); có 1 BN bị vỡ túi phình trong lúc can thiệp chiếm 2,4% (1/41). Có 2 BN bị duỗi Coils
chiếm 4,9% (2/41).
- Thời gian nằm viện nhóm PĐMN chưa vỡ là 9,3 ± 6,9 ngày ngắn hơn so với nhóm PĐMN đã vỡ là 17,8 ± 13,8
ngày, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0,035 < 0,05.
- Mức độ hồi phục lâm sàng theo mRs khi ra viện:
mRS0 mRS1 mRS2 mRS3 mRS4 mRS5 mRS6
N (41) 15 17 3 1 0 0 5
% 36,6% 41,5% 7,3% 2,4% 0 0 12,2%
Nhận xét: Bệnh nhân hồi phục tốt có mRs 0-2 chiếm tỷ lệ 85,4%. Hồi phục kém có mRs độ 3 chiếm 2,4%; 12,2%
bệnh nhân không hồi phục có mRs 6. Trong số 5 BN tử vong có mRs 6 thì có 4 BN có Hunt & Hess 4, 1BN là Hunt
& Hess 3, không có BN nào tử vong có Hunt & Hess 1,2. Tình trạng lâm sàng lúc nhập viện nhóm PĐMN vỡ theo
Hunt & Hess có mối liên quan với mức độ hồi phục lâm sàng khi ra viện với p=0,002< 0,05.
- Tình trạng túi phình qua theo dõi trên CHT hoặc DSA: Thời gian theo dõi trung bình là 9,8 tháng, dao động
từ 2 - 30 tháng.
Bảng 3.2. Mức độ tái thông túi phình theo thời gian
Sau 3 tháng Sau 12 tháng
n % n %
Tắc hoàn toàn 12 70,6 22 84,6
Còn dòng chảy cổ túi 2 11,8 4 15,4
Còn dòng chảy túi 3 17,6 0 0
Tổng 17 100 26 100
Nhận xét: Tỷ lệ nhóm PĐMN ổn định không tái thông sau 12 tháng là 84,6%. Nhóm tái thông là 4/26=15,4%,
đều là tái thông nhẹ ở cổ, tắc mức độ B. Có 3 bệnh nhân can thiệp đặt GĐNM đổi hướng dòng chảy, kết quả sau 3
tháng là còn dòng chảy rất chậm trong túi, sau 12 tháng đều tắc hoàn toàn mức độ A.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201516
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Có 5 bệnh nhân có di chứng nhồi máu não vùng hố sau chiếm 19,2%; 3 bệnh nhân có giãn não thất sau nút
mạch chiếm 11,5%.
IV. BÀN LUẬN
- Thời gian tiến hành can thiệp với PĐMN vỡ trong vòng 4 ngày chiếm 71,4% cao hơn so với của Vũ Đăng Lưu
(2012) là 26,3% [6]. Nguyên tắc điều trị đối với PĐMN vỡ là cần loại bỏ túi phình khỏi tuần hoàn chung càng sớm
càng tốt là bắt buộc tránh biến chứng vỡ chảy máu tái phát.
- Điều trị PĐMN chưa vỡ: 13 bệnh nhân có túi phình chưa vỡ được can thiệp trong nghiên cứu này thì 100%
hồi phục hoàn toàn, không có di chứng thần kinh. Kết quả can thiệp đạt được là tránh biến chứng chảy máu. Quyết
định điều trị PĐMN chưa vỡ cần căn cứ vào hình dạng túi phình có bờ đều hay thùy múi, kích thước túi phình, vị trí
túi phình, triệu chứng lâm sàng [7].
Hình 4.1. Nút PĐMN chưa vỡ: BN Phạm T Bích Ng, nữ 49 tuổi, mã lưu trữ I67/38, đau đầu kéo dài, CHT TOF
3D phát hiện PĐMN cửa sổ ĐM thân nền chưa vỡ, bờ không đều (a), trên phim chụp DSA 3D (b). Được can thiệp
nút tắc hoàn toàn túi phình bằng VXKL (c, d), kiểm tra sau 15 tháng bằng CHT TOF 3D không có tái thông (e,f.).
- Tỉ lệ thành công về mặt kỹ thuật là 100%. Sử
dụng phương pháp can thiệp đặt coils đơn thuần chiếm
tỷ lệ 44,4%, thả coils kết hợp bơm bóng chẹn cổ hay
đặt stent chiếm lần lượt là 22,2% và 2,3%. Tỷ lệ tắc
PĐMN ngay sau can thiệp cao đạt 80%, trong khi tỉ lệ
còn dòng chảy cổ túi thấp là 11,1% và còn dòng chảy
túi là 8,9%. Các trường hợp còn dòng chảy túi liên quan
đặt stent đổi hướng dòng chảy sẽ không gây tắc ngay
mà sau 6-12 tháng sẽ tắc hoàn toàn. Các trường hợp
tắc động mạch đốt sống khi có phình hình thoi chảy
máu qua can thiệp có thể chọn lọc và bảo tồn được
các nhánh mạch liên quan. Kết quả này cũng tương tự
như các tác giả Todd E Lempert (2000) thì tỷ lệ thành
công về mặt kỹ thuật khi điều trị can thiệp cho 112 bệnh
nhân PĐMN tuần hoàn sau trong nghiên cứu là 97%
[8]. Theo Jankowitz BT (2009) nghiên cứu 32 PĐMN
tuần hoàn sau trong 4 năm thấy tắc túi phình bằng
coils đơn thuần chiếm 68,75%; tắc mạch mang chiếm
37,5% [9]. Theo Yamaura (1990) và cộng sự điều trị 19
BN phình bóc tách ĐM ĐS đoạn nội sọ bằng phẫu thuật
kẹp gây tắc đoạn gần của động mạch đốt sống; kết quả
không có trường hợp tử vong sau mổ hoặc chảy máu
tái phát nhưng hội chứng tủy bên xảy ra trên ba bệnh
nhân. Điều này có thể là do kẹp tắc ĐM cấp máu cho
tủy, vậy nên điều trị can thiệp nội mạch có thể làm giảm
biến chứng cho những bệnh nhân này [10].
Tỉ lệ hồi phục tốt theo mRS 0-2 đạt 85,4%, tỉ lệ
tử vong là 12,2%. Tử vong chỉ gặp trong nhóm PĐMN
vỡ là những BN có mức độ chảy máu nhiều (Fisher 4)
hoặc lâm sàng nặng ngay từ đầu (Hunt-Hess 3,4). Thời
gian nằm viện sau can thiệp nội mạch ngắn, nhất là các
trường hợp chưa vỡ là 9 ngày so với phình động mạch
não đã vỡ là 17 ngày. Trong y văn cũng đều ghi nhận
phương pháp can thiệp nội mạch là xâm nhập tối thiểu,
ít ảnh hưởng đến nhu mô não do vậy thời gian điều
trị tại bệnh viện thường ngắn, tỷ lệ hồi phục cao hơn
[11],[1]. Các túi phình qua theo dõi 12 tháng đa số ổn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 17
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
định. Thời gian theo dõi của Pasquale Mordasinia (2005) là 3,3 năm, dao động từ 3-122 tháng thấy tỷ lệ hồi phục tốt
là 94,6%, hồi phục kém phải sống phụ thuộc là 5,4%. Theo Todd E Lempert theo dõi lâm sàng sau điều trị thấy thời
gian theo dõi trung bình là 13,1tháng; 74% bệnh nhân phục hồi tốt; 9% có khuyết tật vừa phải; 5% bị tàn tật nặng,
1% là sống thực vật và 11% là tử vong; Nhìn chung có 83% bệnh nhân đã phục hồi tốt hoặc khuyết tật vừa phải khi
thăm khám. Có sự tương quan đáng kể về mặt thống kê giữa tình trạng lâm sàng Hunt&Hess khi nhập viện với mức
độ hồi phục theo mRS (χ 2 = 41,4, P<0,0005) [8].
a b c
Hình 4.2. Minh họa hình ảnh vỡ PĐMN sau can thiệp hồi phục hoàn toàn.
Nguyễn Thế M, nam 61 tuổi, mã lưu trữ CCM. Vỡ phình gốc ĐM tiểu não
trên, Hunt – Hess 3, Fisher 4 (ảnh a, b), được chỉ định nút tắc túi phình
bằng coils (ảnh c); mRs 2 sau ra viện. Tái khám sau 6 tháng hồi phục
mRs 0, có giãn nhẹ não thất bên bên trái (ảnh d).
d
Phân bố tai biến do can thiệp: Tai biến trong can thiệp thấp, các trường hợp chảy máu được xử lý trung hòa
chống đông, tiếp tục tắc túi phình cho kết quả tốt. Biến chứng huyết khối có thể gây nhồi máu tùy theo vị trí mạch
tắc có thể để lại di chứng.
IV. KẾT LUẬN
Can thiệp nội mạch phình động mạch não tuần hoàn sau cho kết quả hồi phục lâm sàng cao, di chứng thấp và
túi phình sau can thiệp ổn định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jin Seub Hwang; Min Kyung Hyun et al (2012),
“Endovascular coiling versus neurosurgical clipping
in patients with unruptured intracranial aneurysm: a
systematic review”, BMC Neurology, 12(99).
2. Hong Ju Moon, Dong Jun Lim, Sung Kon Ha et
al (2009), “Clinical Analysis of Cerebral Aneurysms of
Posterior Circulation”, Kor J Cerebrovascular Surgery,
11(1), tr. 25-30.
3. Schievink W. I, Wijdicks E. F, Piepgras D. G et
al (1995), “The poor prognosis of ruptured intracranial
aneurysms of the posterior circulation”, J Neurosurg,
82(5), tr. 791-5.
4. Wardlaw. J, M. White et al (2000), “The
detection and management of unruptured intracranial
aneurysms”, Brain, 123 ( Pt 2), tr. 205-21.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201518
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Wakhloo Ajay K, Pierot Laurent (2013),
“Endovascular treatment of intracranial aneurysms
current status”, Stroke, 44(7), tr. 2046-2054.
6. Vũ Đăng Lưu (2012), Nghiên cứu chẩn đoán và
điều trị phình động mạch não vỡ bằng can thiệp nội
mạch, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
7. Wiebers David O. (2003), “Unruptured intracranial
aneurysms: natural history, clinical outcome, and risks
of surgical and endovascular treatment”, The Lancet,
362(9378), tr. 103-110.
8. Todd E. Lempert, Adel M. Malek, Van V. Halbach
et al (2000), “Endovascular treatment of ruptured
posterior circulation cerebral aneurysms. Clinical and
angiographic outcomes”, Stroke, 31(1), tr. 100-10.
9. Jankowitz, B. T. Aleu, A. Lin et al (2011),
“Endovascular treatment of atypical posterior
circulation aneurysms: technical results and review of
the literature”, J Neuroimaging, 21(1), tr. 56-61.
10. Yamaura Akira, Watanabe; (1990), “Dissecting
aneurysms of the intracranial vertebral artery”, Journal
of neurosurgery, 72(2), tr. 183-188.
11. W. Brinjikji, A.A. Rabinstein; D.M. Nasr
et al (2011), “Better Outcomes with Treatment by
Coiling Relative to Clipping of Unruptured Intracranial
Aneurysms in the United States, 2001–2008”, Am J
Neuroradiol Volume 32, tr. 1071–75.
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá kết quả điều trị phình động mạch não tuần hoàn sau bằng can thiệp nội mạch.
Đối tượng và phương pháp: Mô tả kết quả điều trị 41 bệnh nhân có 45 túi phình động mạch não tuần hoàn
sau được nút từ 2012 đến 2015 tại Bệnh viện Bạch Mai. Đánh giá hồi phục lâm sàng theo Rankin cải biên và đánh
giá tình trạng túi phình sau can thiệp bằng CHT.
Kết quả: Có 28 bệnh nhân vỡ túi phình và 13 bệnh nhân chưa vỡ. Nút Coils đơn thuần chiếm 44,4%, nút coils
kết hợp chẹn bóng hoặc đặt stent chiếm 22,2% và 2,3%. Tỉ lệ đặt stent đổi hướng dòng chảy chiếm 6,7% và nút tắc
mạch mang chiếm 24,4%. Kết quả tắc hoàn toàn, còn dòng chảy cổ và túi lần lượt là 80%, 11,1% và 8,9%. Bệnh
nhân hồi phục tốt có mRs 0-2 chiếm tỷ lệ 85,4%. Tỉ lệ tử vong 12,2%. Tỷ lệ nhóm PĐMN ổn định không tái thông
sau 12 tháng là 84,6%, có 15,4% tái thông nhẹ chưa cần điều trị. Thời gian nằm viện nhóm PĐMN chưa vỡ là 9,3 ±
6,9 ngày ngắn hơn so với nhóm PĐMN đã vỡ là 17,8 ± 13,8 ngày.
Kết luận: Can thiệp nội mạch phình động mạch não tuần hoàn sau cho kết quả hồi phục lâm sàng cao, di
chứng thấp và túi phình sau can thiệp ổn định.
Từ khóa: Phình mạch, phình mạch tuần hoàn sau, nút mạch.
Người liên hệ: Vũ Đăng Lưu, Email: vudangluu@yahoo.com
Ngày nhận bài: 1.11. 2015
Ngày chấp nhận đăng: 15.11.2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_dieu_tri_phinh_dong_mach_nao_tuan_hoan_sau_bang_can.pdf